ThS. bs. Trần Trung Nghĩa



tải về 1.53 Mb.
trang5/9
Chuyển đổi dữ liệu24.09.2017
Kích1.53 Mb.
#33343
1   2   3   4   5   6   7   8   9



  • THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM SSRIs

  • Thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonine (serotonine selective reuptake inhibitor - SSRI) đầu tiên được phát hiện năm 1987 là fluoxetine làm thay đổi thái độ về điều trị hoá dược với trầm cảm. Lý do đầu tiên là do tác dụng phụ của fluoxetine thường được dung nạp tốt hơn những thuốc điều trị trước đây, như thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCA) và thuốc ức chế

  • MAO (MAOI) và tính đơn giản trong liều dùng fluoxetine.

  • Sau đó, những thuốc SSRI khác được phát hiện, có cùng đặc tính cơ bản của fluoxetine. Từ 1990, danh sách các chỉ định điều trị được chứng thực cho những thuốc xếp trong nhóm này mở rộng thêm, không chỉ là trầm cảm, như: rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD), rối loạn hoảng loạn, rối loạn lo âu lan toả, rối loạn loạn cảm trước kì kinh, rối loạn lo âu xã hội và rối loạn ăn uống. Tất cả các thuốc SSRI có hiệu quả tương đương để điều trị các rối loạn này.


      1. SSRIs dùng cho người trưởng thành và trẻ em


    1. Citalopram

    1. Escitalopram

    1. Fuoxetine

    1. Fluvoxamine

    1. Paroxetine

    1. Sertraline

    1. Trầm cảm nặng

    1. Người trưởng thành

    1. Người trưởng

    1. Người trưởng thành và trẻ em



    1. Người trưởng thành

    1. Người trưởng thành

    1. Rối loạn lo âu lan toả



    1. Người trưởng thành





    1. Người trưởng thành



    1. OCD





    1. Người trưởng thành và trẻ em

    1. Người trưởng thành và trẻ em

    1. Người trưởng thành

    1. Người trưởng thành và trẻ em

    1. Rối loạn hoảng loạn





    1. Người trưởng thành



    1. Người trưởng thành

    1. Người trưởng thành

    1. Rối loạn lo âu xã hội









    1. Người trưởng thành

    1. Người trưởng thành

    1. Chứng ăn uống vô độ loạn tâm





    1. Người trưởng thành







    1. Rối loạn loạn khí sắc trước kì kinh





    1. Người trưởng thành



    1. Người trưởng thành

    1. Người trưởng thành



  • Hóa học:

  • Các thuốc SSRI có cấu trúc hoá học khác biệt nhau, nhưng escitalopram là ngoại lệ, là dạng đồng phân của citalopram. Tính đa dạng về phân tử giải thích được tại sao có cá nhân đáp ứng và dung nạp với các thuốc SSRI khác nhau.

  • Dược động học:

  • Sự khác biệt quan trọng nhất giữa các SSRI là thời gian bán huỷ trong huyết tương có thay đổi rộng. Fluoxetine có thời gian bán huỷ dài nhất 4 - 6 ngày; các chuyển hoá chất hoạt động của thuốc có thời gian bán huỷ 7 - 9 ngày. Thời gian bán huỷ của sertraline khoảng 26 giờ, và thuốc có một ít chuyển hoá chất hoạt động có thời gian bán huỷ 3 - 5 ngày. Thời gian bán huỷ của thuốc còn lại (không có chuyển hoá chất hoạt động nào đáng kể) là: citalopram 35 giờ, escitalopram là 27 - 32 giờ, paroxetine là 21 giờ, fluvoxamine là 15 giờ. Về cơ bản, SSRI hấp thu tốt bằng đường uống, đạt nồng độ đỉnh sau khoảng 3 - 8 giờ. Sự hấp thu sertraline thay đổi nhẹ nếu có thức ăn.

  • Tỷ lệ gắn kết với protein của sertraline, fluoxetine, paroxetine cao nhất; escitalopram gắn kết ít nhất.

  • Tất cả các SSRI được chuyển hoá ở gan do men cytocrome P450 (CYP). Nhưng do các SSRI có chỉ số trị liệu rộng nên hiếm khi những thuốc khác gây tăng vấn đề nồng độ của các

  • SSRI. Tương tác thuốc quan trọng nhất với SSRI là làm ức chế chuyển hoá SSRI nếu dùng

  • đồng thời. Các SSRI đều có khả năng gây ức chế chuyển hoá của khá nhiều thuốc.

  • Fluvoxamine là thuốc gặp nhiều khó khăn nhất liên quan đến tương tác thuốc. Fuvoxamine ảnh hưởng rõ rệt đến vài men CYP. Ví dụ về tương tác quan trọng là giữa fluvoxamine và theophylline do tương tác qua men CYP 1A2; fluvoxamine và clozapine qua ức chế men CYP 1A2; fluvoxamine với clonazepam và alprazolam do ức chế men CYP 3A4. Fluoxetine và paroxetine có tác động đáng kể đến men CYP 2D6, gây ảnh hưởng đến hiệu quả của các chất giống opiate, như: codein, hydrocodone, do phong toả sự chuyển đổi các thuốc này thành dạng hoạt động. Do đó, dùng đồng thời fluoxetine, paroxetine với một thuốc opiate

  • làm ảnh hưởng đến hiệu quả gây mê của thuốc opiate. Sertraline, citalopram, escitalopram hầu như ít gây các biến chứng điều trị do tương tác thuốc.


      1. Khả năng ức chế men cytocrom P450 (CYP) của các thuốc chống trầm cảm thường dùng
      Xếp loại tương đối

    1. CYP 1A2

    1. CYP 2C

    1. CYP 2D6

    1. CYP 3A

    1. Cao

    1. Fluvoxamine

    1. Fluoxetine

    1. Bupropion

    1. Fluvoxamine



    1. Fluvoxamine

    1. Fluoxetine

    1. Nefazodone





    1. Paroxetine

    1. TCAs

    1. Trung bình

    1. TCAs hàng thứ 3

    1. Sertraline

    1. TCAs hàng thứ 2

    1. Fluoxetine

    1. Fluoxetine



    1. Citalopram

    1. Sertraline





    1. Escitalopram







    1. Sertraline



    1. Thấp (tối thiểu)

    1. Bupropion

    1. Paroxetine

    1. Fluvoxamine

    1. Citalopram

    1. Mirtazapine

    1. Venlafaxine

    1. Mirtazapine

    1. Escitalopram

    1. Nefazodone



    1. Nefazodone

    1. Mirtazapine

    1. Paroxetine



    1. Venlafaxine

    1. Paroxetine

    1. Sertraline





    1. Venlafaxine

    1. Venlafaxine








    1. 3.1.2. Dược lực học:




  • Các thuốc SSRI được cho là có hiệu quả trị liệu thông qua ức chế tái hấp thu 5-HT. Thuốc cũng ít ảnh hưởng đến tái hấp thu norepinephrine hay dopamine. Thông thường tác động lâm sàng thích hợp, sự bảo hoà chất vận chuyển 5-HT đều đạt được ngay từ liều khởi

  • đầu. Về nguyên tắc, liều cao cũng không làm tăng hiệu quả điều trị chống trầm cảm nhưng có

  • thể làm tăng nguy cơ bị tác dụng phụ.

  • Citalopram và escitalopram là chất ức chế chọn lọc nhất đến sự tái hấp thu serotonine, và ít gây ức chế tái hấp thu norepinephrine hay dopamine, và ít có ái lực với thụ thể histamine H1, GABA, hay benzodiazepine. Các SSRI khác có đặc tính tương tự, ngoại trừ fluoxetine ức chế tái hấp thu norepinephrine và gắn kết với thụ thể 5-HT2C, sertraline ức chế tái hấp thu

  • norepinephrine, dopamine, paroxetine có hiệu quả kháng cholinergic đáng kể khi dùng liều cao, và gắn kết với men tổng hợp nitric oxide. Tương tác dược lực học xuất hiện tiềm ẩn bên dưới

  • hiệu quả chống trầm cảm khi kết hợp sử dụng fluoxetine và olanzapine, đó là khi dùng chung

  • gây tăng độ tập trung norepinephrine ở não. Sử dụng đồng thời SSRI và thuốc nhóm triptane (sumatriptan, naratriptan, rizatriptan, zolmitriptan) có thể gây tương tác dược lực học nặng nề, gây ra hội chứng serotonine. Tuy nhiên, ở nhiều người, việc dùng thuốc nhóm triptan với liều thấp SSRI để phòng ngừa cơn đau đầu nhưng không có tác dụng phụ. Phản ứng tương tự có thể xuất hiện khi dùng SSRI với tramadol (Ultram).

    1. Chỉ định trị liệu:

    1. Trầm cảm:

    1. Ngoại trừ fluvoxamine chưa được FDA chấp nhận, các thuốc SSRI khác đều được chấp nhận điều trị trầm cảm. Một số nghiên cứu cho thấy các thuốc chống trầm cảm có tác động lên serotonine hoặc/và norepinephrine, như MAOI, TCA, venlafaxine, mirtazapine đạt hiệu quả hồi phục bệnh cao hơn so với SSRI trong các nghiên cứu đối đầu (so sánh). SSRI được chọn là thuốc đầu tay trong điều trị chỉ vì sử dụng đơn giản, an toàn và phổ hoạt động rộng.

    2. So sánh trực tiếp, đơn độc thì một thuốc SSRI không bộc lộ bất cứ ưu điểm nào so với thuốc SSRI khác. Tuy nhiên, tính đa dạng rõ ràng là do khả năng đáp ứng của bệnh nhân với các SSRI khác nhau. Ví dụ: hơn 50% đáp ứng kém với một thuốc SSRI có thể đáp ứng tốt với một thuốc SSRI khác. Do đó, trước khi thay đổi bằng một thuốc chống trầm cảm không phải

    3. SSRI, nên thử tất cả các thuốc SSRI khác khi bệnh nhân đã không đáp ứng với thuốc SSRI sử dụng đầu tiên. Một số bác sĩ lâm sàng cố gắng chọn một thuốc SSRI đặc biệt cho những bệnh nhân chuyên biệt dựa trên danh sách tác dụng phụ của riêng từng thuốc. Ví dụ: fluoxetine là một thuốc SSRI có tác động kích thích, một số bác sĩ sẽ thừa nhận rằng chọn sử dụng fluoxetine sẽ có hiệu quả tốt hơn với bệnh nhân bị mất ý chí, hơn là dùng SSRI có tác dụng an thần. Tuy nhiên sự khác biệt này thường thay đổi tuỳ theo bệnh nhân.

    1. Tự sát:

    1. Những năm cuối thập niên 80 thế kỷ XX, một số báo cáo được phát hành rộng rãi đề nghị về mối liên hệ giữa việc dùng fluoxetine và hành vi kích động, kể cả tự sát, nhưng nhiều xem xét sau đó không xác nhận mối liên hệ này. Mới đây nhất, các nghiên cứu điều trị bằng

    2. SSRI cho trầm cảm trẻ em và trẻ vị thành niên phát hiện tình trạng tăng nhẹ ý tưởng hoặc xung động tự sát. Nhưng trên thực tế, vẫn không rõ ràng về nguyên nhân và tác động giữa việc dùng SSRI và tăng nguy cơ tự sát. Tuy nhiên, một số bệnh nhân trở nên lo âu, bối rối một cách đặc biệt khi bắt đầu dùng SSRI. Sự xuất hiện các triệu chứng này được hình dung là có thể gợi ra

    3. hoặc làm trầm trọng hơn ý tưởng tự sát. Do đó, tất cả bệnh nhân trầm cảm nên được theo dõi sát suốt thời gian có nguy cơ cao có ý tưởng/hành vi tự sát, những ngày đầu, tuần đầu khi sử dụng SSRI. Điều quan trọng phải nhớ là các SSRI - là thuốc chống trầm cảm - có hiệu quả đầu tiên là ngăn ngừa tự sát, rút ngắn và phòng ngừa giai đoạn trầm cảm.

    1. Trầm cảm trong thai kì và sau sanh:

    1. Tỷ lệ tái phát trầm cảm nặng trong thai kỳ khi bệnh nhân ngưng thuốc hoặc thử ngưng thuốc, hoặc giảm liều thuốc là rất cao. Tỷ lệ này thay đổi từ 68 - 100% bệnh nhân. Do đó, nhiều phụ nữ cần tiếp tục dùng thuốc trong suốt thai kỳ và sau sanh. Ảnh hưởng của tình trạng trầm cảm ở người mẹ lên quá trình phát triển của trẻ vẫn chưa rõ ràng. Không có tình trạng tăng nguy cơ gây quái thai bẩm sinh khi phải sử dụng SSRI trong thai kì. Do đó, nguy cơ tái phát trầm cảm ở thai phụ ngưng SSRI cao gấp nhiều lần so với nguy cơ của thai với tác động của

    2. SSRI. Có một số bằng chứng đề nghị rằng có tình trạng tăng nguy cơ phải chăm sóc nhi đặc biệt sau sanh ở những thai phụ dùng SSRI. Tuy nhiên cũng tồn tại bằng chứng tương tự khi

    3. ngưng điều trị paroxetine. Không mối liên hệ nào giữa việc sử dụng SSRI và biến chứng sơ sinh (neonatal) đáng kể. Các nghiên cứu theo dõi trẻ trong những năm học đầu tiên cũng không phát hiện biến chứng quanh giai đoạn chu sinh (perinatal), bất thường bào thai, giảm điểm IQ, chậm nói/ngôn ngữ, hay những rối loạn hành vi chuyên biệt nào có thể do sử dụng fluoxetine trong thai kì.

    4. Trầm cảm sau sanh (có hay không có loạn thần) ảnh hưởng một ít đến các bà mẹ. Một số bác sĩ lâm sàng bắt đầu chỉ định dùng SSRI nếu có tình trạng buồn sau sanh (postpartum blues) kéo dài vài tuần sau sanh, hoặc nếu thai phụ bắt đầu trầm buồn trong thai kì. Có thể chỉ

    5. định trước SSRI trong thai kì nếu thai phụ có nguy cơ mắc phải trạng thái buồn sau sanh vì có thể giúp bảo vệ trẻ sơ sinh, nhất là những thai phụ có thể có suy nghĩ nguy hiểm sau khi sinh. Các thuốc SSRI tiết qua sữa mẹ nhưng huyết tương của những trẻ được nuôi bằng sữa của bà mẹ đang sử dụng SSRI có nồng độ SSRI rất thấp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nồng độ thuốc trong máu trẻ này cao hơn trung bình. Do đó, cần chú ý đến việc thông tin về nguy cơ tiềm tàng cho những bệnh nhân đang được điều trị.

    1. Trầm cảm ở người già và người có bệnh cơ thể:

    1. Các thuốc SSRI an toàn và dung nạp tốt với người già và người có bệnh thực thể. Như cách phân loại, thuốc SSRI có ít hoặc không gây độc cho tim, tác dụng phụ kháng cholinergic, kháng histamine hoặc tác dụng phụ inotropic adrenergic. Riêng paroxetine có hoạt tính kháng cholinergic, nên có thể gây táo bón, làm suy giảm nhận thức. Các SSRI có thể gây suy giảm nhận thức rất nhẹ, kéo dài thời gian tuần hoàn máu, giảm natri máu và điều này có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ những bệnh nhân điều trị bằng SSRI. Các SSRI còn có hiệu quả đến trầm cảm sau đột quỵ và làm giảm kịch tính tình trạng hay khóc lóc.Các nghiên cứu về SSRI ở trẻ em và trẻ vị thành niên thường không tìm được hiệu quả của SSRI. Chỉ có fluoxetine được FDA chấp nhận là thuốc chống trầm cảm dành cho lứa tuổi này. Trên thực tế, trẻ em cũng bị trầm cảm và can thiệp bằng hoá trị liệu cũng cần thiết cho nhiều trường hợp bệnh, nên các bác sĩ lâm sàng cũng phải chỉ định thuốc SSRI cho những trường hợp này. Các nghiên cứu đề nghị rằng thuốc SSRI có thể làm tăng ý nghĩ hoặc hành vi tự sát, ý nghĩ hoặc hành vi bạo lực ở trẻ em/trẻ vị thành niên trầm cảm. Vì vậy, khi điều trị trầm cảm ở bệnh nhân này, cần thiết theo dõi sát tác dụng về hành vi không mong muốn này.

    2. 3.2.6. Rối loạn lo âu:

    3. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD): fluvoxamine, paroxetine, sertraline và fluoxetine nên chỉ định cho những bệnh nhân trên 18 tuổi. Fluvoxamine và sertraline được chấp nhận là thuốc điều trị OCD ở trẻ em/trẻ vị thành niên (6 - 17 tuổi). Khoảng 50% bệnh nhân OCD đã có triệu chứng OCD từ thời niên thiếu/tuổi vị thành niên, hơn % số bệnh nhân này đáp ứng tốt với thuốc. Đáp ứng trị liệu có thể rất kịch tính. Những số liệu lâu năm cho thấy kiểu bệnh lý OCD là dạng bệnh có tính di truyền và kéo dài suốt đời đáp ứng tốt nhất với điều trị duy trì bằng thuốc và trị liệu nhận thức - hành vi, ngay từ khi khởi phát bệnh từ thời niên thiếu cho đến cuối đời.

    4. Liều thuốc SSRI cho bệnh lý OCD cần duy trì cao hơn trong điều trị trầm cảm. Mặc dù đáp ứng với thuốc có thể xuất hiện trong vài tuần đầu tiên điều trị nhưng cũng cần nhiều tháng điều trị mới đạt hiệu quả trị liệu tối đa. Những bệnh nhân không đáp ứng với thuốc SSRI có thể sẽ đáp ứng tốt hơn với phối hợp bằng risperidone. Bên cạnh việc phải theo dõi tác dụng phụ ngoại tháp do risperidone, cần theo dõi tác dụng phụ do tăng prolactine trong những trường hợp phối hợp trị liệu. Trên lâm sàng, tình trạng tăng nồng độ prolactine có thể biểu hiện bằng tình trạng vú to, hoặc chứng tiết sữa (cả nam và nữ) và chứng mất kinh.

    5. Hiện nay, một số rối loạn khác cũng được xem là biến thể của OCD. Đó là các bệnh lý

    6. với các triệu chứng đặc trưng là hành vi tự cắt cơ thể nhưng không có tự sát, ví dụ: chứng nhổ

    7. (lông) tóc, xăm lông mày, xung động xăm vùng da dơ bẩn, xung động cắt (cơ thể). Các bệnh

    8. nhân có hành vi này có thể đáp ứng với thuốc SSRI. Những bệnh lý biến thể khác gồm có:

    9. xung động đánh bạc, xung động mua sắm, chứng nghi bệnh, rối loạn sợ biến dạng cơ thể.

    10. Rối loạn hoảng loạn: Paroxetine và sertraline được chỉ định sử dụng để điều trị rối loạn hoảng loạn, có hay không kèm theo chứng ám sợ khoảng rộng. Những thuốc này có hiệu quả chậm hơn so với alprazolam (Xanax) hay clonazepam (Rivotril), nhưng có hiệu quả lâu dài tốt hơn so với benzodiazepine trong điều trị rối loạn hoảng loạn có kèm trầm cảm. Citalopram,

    11. fluvoxamine, fluoxetine cũng có thể làm giảm triệu chứng cơn trầm cảm nguyên phát hoặc thứ phát. Do fluoxetine có khả năng gây ra các triệu chứng lo âu, bệnh nhân bị cơn hoảng loạn phải được chỉ định bắt đầu sử dụng liều thấp (5mg/ngày) và tăng dần liều chậm chạp. Dùng

    12. benzodiazepine liều thấp có thể được sử dụng nhằm kiểm soát tác dụng phụ lo âu của

    13. fluoxetine.Rối loạn lo âu xã hội: thuốc SSRI có hiệu quả điều trị ám sợ xã hội. Thuốc làm giảm cả triệu chứng bệnh và tình trạng mất năng lực (do bệnh gây ra). Tỷ lệ đáp ứng với thuốc SSRI

    14. tương đương với MAOI phenelzine (Nardil), trước đây là một thuốc điều trị tiêu chuẩn. Thuốc SSRI an toàn hơn so với MAOI hoặc benzodiazepine.

    15. Rối loạn stress sau sang chấn (PTSD): hoá dược trị liệu với PTSD nhằm vào các triệu chứng đặc biệt của 3 nhóm: tái trãi nghiệm, né tránh và tăng gợi nhớ. Trong điều trị lâu dài, thuốc SSRI có phổ trị liệu các triệu chứng đặc trưng của PTSD rộng hơn so với TCA và MAOI. Tăng liều benzodiazepine có ích đối với cơn cấp tính. Thuốc SSRI gây cải thiện rõ rệt cả triệu chứng xâm lấn và triệu chứng né tránh.

    16. Rối loạn lo âu lan toả: Thuốc SSRI có ích để điều trị các ám sợ chuyên biệt, rối loạn lo âu lan toả và rối loạn lo âu chia ly. Việc đánh giá mang tính cá nhân và kĩ lưỡng là các tiếp cận đầu tiên, chú ý đặc biệt và việc phát hiện loại bệnh lý đáp ứng tốt với trị liệu bằng thuốc. Kèm theo đó, trị liệu nhận thức - hành vi hay trị liệu tâm lý khác cũng nên kết hợpđể đạt hiệu quả cao hơn.

    17. Chứng ăn uống vô độ tâm lý và các rối loạn ăn uống khác: fluoxetine được chỉ định điều trị cho chứng ăn uống vô độ, nhưng phép trị liệu tốt nhất cho bệnh lý này vẫn là tâm lý trị liệu. Liều fluoxetine nên là 60mg/ngày thì tốt hơn liều 20mg/ngày. Trong một số nghiên cứu kiểm soát tốt, fluoxetine với liều 60mg/ngày tốt hơn nhiều so với giả dược nhằm làm giảm tình trạng ăn uống không ngừng và giảm nôn. Một số chuyên gia đề nghị rằng chỉ nên trị liệu nhận thức - hành vi đơn thuần (mà không kèm điều trị hoá dược); và nếu không có đáp ứng sau 3 - 6 tuần thì mới kết hợp với fluoxetine. Thời gian thích hợp để điều trị bằng fluoxetine và tâm lý trị liệu không có giới hạn.

    18. Fluvoxamine không hiệu quả đáng kể để điều trị chứng ăn uống vô độ trong nghiên cứu mù đôi, có so sánh với giả dược.

    19. Chứng chán ăn tâm thần: fluoxetine được dùng điều trị bệnh nhân chán ăn tâm thần nội trú nhằm kiểm soát rối loạn khí sắc kết hợp và triệu chứng ám ảnh cưỡng chế. Có ít nhất 2 nghiên cứu cẩn thận, một nghiên cứu trong 7 tháng, 1 nghiên cứu trong 24 tháng nhưng đều không phát hiện fluoxetine có hiệu quả lên kết quả toàn bộ và lên việc duy trì cân trọng. Việc điều trị có hiệu quả chứng chán ăn tâm thần là phép trị liệu nhận thức - hành vi, trị liệu nội tâm, trị liệu động năng - tâm thần, trị liệu gia đình kết hợp với thuốc SSRI.

    20. Chứng béo phì: fluoxetine kết hợp với chiến lược về hành vi cho thấy có hiệu quả giảm cân tốt nhất. Có tỷ lệ đáng kể bệnh nhân dùng SSRI, kể cả fluoxetine, giảm cân trong giai đoạn đầu, nhưng sau đó có thể tăng cân trở lại. Tuy vậy, cũng cần biết rằng, tất cả các thuốc SSRI đều có thể gây tăng cân.

    21. Rối loạn loạn cảm trước kì kinh nguyệt: rối loạn loạn cảm trước kì kinh nguyệt đặc

    22. trưng bởi khí sắc suy sụp và thay đổi hành vi vào tuần trước khi có kinh, thay đổi rõ rệt so với lúc bình thường. Sertraline, paroxetine, fluoxetine, và fluvoxamine có tác dụng làm giảm triệu chứng rối loạn cảm trước kì kinh. Nghiên cứu thử nghiệm có so sánh sử dụng fluoxetine,sertraline trong cả chu kỳ, hoặc chỉ trong giai đoạn hoàng thể (2 tuần giữa lúc rụng trứng và khi có kinh nguyệt) cho thấy đều có hiệu quả như nhau.

    23. Một nghiên cứu quan sát không rõ ràng cho thấy fluoxetine làm thay đổi thời gian chu kì kinh nguyệt, nhiều hơn 4 ngày, kéo dài hơn hoặc thu ngắn lại. Tác động của SSRI lên thời gian chu kì kinh hầu như chưa được biết rõ, và đòi hỏi phải theo dõi cẩn thận khi dùng SSRI ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.

    24. Những chỉ định không chính thống:

    25. Xuất tinh sớm: hiệu quả chống co thắt của SSRI được lợi dụng để điều trị cho nam giới bị chứng xuất tinh sớm. Thuốc SSRI cho phép kéo dài thời gian giao hợp và cải thiện sự thoả mãn tình dục cho những cặp vợ chồng mà người chồng bị xuất tinh sớm. Fluoxetine và sertraline có ích cho việc sử dụng nhằm mục đích này.

    26. Paraphilias (tình dục đồi trụy): thuốc SSRI giảm hành vi ám ảnh cưỡng chế ở những bệnh nhân bị paraphilias. SSRI làm giảm thời gian trung bình trong ngày cho hành vi thoả mãn, thôi thúc tình dục không thích hợp. Những bằng chứng cho thấy, thuốc có tác động tốt lên ám ảnh tình dục hơn là hành vi phô bày.

    27. Chứng tự kỷ: hành vi ám ảnh cưỡng chế, tình trạng kém giao tiếp xã hội, tình trạng hung hăng đặc trưng cho chứng tự kỷ đáp ứng với những thuốc tác động lên hệ serotonine như SSRI và clomipramine. Sertraline, fluovoxamine cho thấy giúp cải thiện tính hung hăng, hành vi tự gây thương tích, hành vi lặp lại, một số mức độ về tình trạng trì hoãn về ngôn ngữ, và hiếm

    28. hơn là tác động đến tính thiếu liên hệ xã hội ở người trưởng thành có rối loạn kiểu tự kỷ.

    29. Fluoxetine cũng có hiệu quả đến chứng tự kỷ ở trẻ em, trẻ vị thành niên, và người trưởng

    30. thành.

    31. Thận trọng và tác dụng phụ:

    32. Tác dụng phụ của SSRI thường được xem xét tuỳ theo cách khởi phát, thời gian kéo dài và mức độ nặng. Ví dụ: buồn nôn và tình trạng bồn chồn lo âu thường là tác dụng phụ xuất hiện sớm, nhẹ, và tự giới hạn theo thời gian.

    33. 3.3.1. Rối loạn chức năng tình dục: tất cả các thuốc SSRI đều gây rối loạn chức

    34. năng tình dục và là tác dụng phụ thường gặp nhất của SSRI khi sử dụng lâu dài. Tần suất mới mắc của tác dụng phụ này khoảng 50 - 80%. Than phiền thường nhất là giảm cực khoái, ức chế tình trạng cực khoái, giảm ham muốn tình dục.

    35. Một số nghiên cứu đề nghị rằng rối loạn chức năng tình dục có liên quan đến liều sử dụng, nhưng mối liên quan này cũng không rõ ràng lắm. Không giống như hầu hết các tác dụng phụ khác do SSRI, ức chế tình dục hiếm khi hồi phục sau vài tuần đầu điều trị, nhưng thường kéo dài cùng với thời gian sử dụng thuốc. Ở một số trường hợp, tình trạng này có thể cải thiện theo thời gian.

    36. Chiến lược chống lại rối loạn tình dục do SSRI được đề cập đến rất nhiều nhưng không chiến lược nào chứng mình được hiệu quả. Một số nghiên cứu đề nghị giảm liều SSRI và thêm

    37. Hóa dược trị liệubupropion vào. Các nghiên cứu cũng mô tả những thành công trong điều trị rối loạn tình dục do SSRI bằng sildenafil (Viagra), có hiệu quả điều trị rối loạn chức năng cương. Cuối cùng thì bệnh nhân cũng phải đổi sang thuốc chống trầm cảm khác không ảnh hưởng đến chức năng tình dục, như: mirtazapine, bupropion.

    1. Tác dụng phụ về dạ dày ruột: tác dụng phụ này rất thường gặp, có liên quan đến tác dụng lên thụ thể serotonin 5HT3. Than phiền thường nhất là: buồn nôn, tiêu chảy, chán ăn, nôn, đầy hơi, khó tiêu. Sertraline và fluvoxamine thường gây ra tác dụng phụ này nhất. Paroxetine phóng thích chậm so với paroxetine phóng thích ngay lập tức, cũng ít gây tác dụng phụ dạ dày ruột hơn. Tuy nhiên, với paroxetine, do tác động kháng cholinergic, nên thường gây táo bón. Buồn nôn và tiêu lỏng thường liên quan với liều sử dụng và thường chỉ thoáng qua, hồi phục trong vài tuần. Tuy nhiên, tình trạng đầy hơi và tiêu chảy vẫn tồn tại, đặc biệt là khi sử dụng sertraline. Chán ăn lúc khởi đầu điều trị cũng thường xuất hiện và thường gặp khi sử dụng fluoxetine. Chán ăn và giảm cân do SSRI thường bắt đầu khi dùng thuốc và gặp nhiều nhất khoảng 20 tuần; sau đó, cân trọng thường trở về mức độ bình thường. Có đến khoảng 1/3 bệnh nhân bị tăng cân, thỉnh thoảng tăng đến 9kg. Tác dụng phụ này do tác động đến quá trình chuyển hoá, hoặc làm tăng ngon miệng, hoặc do cả 2. Tình trạng này thường diễn ra từ từ và thường không đáp ứng với chế độ ăn kiêng hoặc luyện tập thể dục. Paroxetine thường gây tăng cân hơn so với các SSRI khác, nhất là phụ nữ trẻ.

    2. Đau đầu: tần suất mới mắc của tình trạng đau đầu khi sử dụng SSRI khoảng 18

    1. - 20%, chỉ cao hơn 1% so với giả dược. Fluoxetine là thuốc dễ gây đau đầu nhất so với các SSRI khác. Tuy nhiên, tất cả các thuốc SSRI đều có hiệu quả điều trị phòng ngừa cơn đau đầu migrain và đau đầu căng cơ ở nhiều BN.

    1. Tác dụng phụ lên hệ TKTW:

    1. Lo âu: Fluoxetine có thể gây ra lo âu, nhất là ở những tuần đầu điều trị. Tuy nhiên, tác dụng đầu tiên này sẽ giảm hoàn toàn sau vài tuần. Tình trạng lo âu có thể được giảm hơn nếu điều trị bằng paroxetine, escitalopram, nhất là nếu mong muốn có tác dụng an thần, buồn ngủ.

    2. Mất ngủ và an thần: tác động chính của SSRI lên giấc ngủ là giúp cải thiện giấc ngủ nên SSRI điều trị được trầm cảm và lo âu. Tuy nhiên, có đến % bệnh nhân dùng SSRI gặp vấn đề về giấc ngủ hoặc ngủ quá mức, hoặc cảm thấy mệt mỏi. Fluoxetine là thuốc thường gây mất ngủ nhất trong số các SSRI, nên nó thường chỉ dùng vào buổi sáng. Sertraline, fluvoxamine cũng gây mất ngủ tương đương với gây tình trạng ngủ nhiều; citalopram, và nhất là paroxetine cũng thường gây ngủ nhiều. Escitalopram gây cản trở giấc ngủ nhiều hơn so với citalopram (ít ngủ hơn). Một số bệnh nhân lợi dụng tác dụng phụ của SSRI để ngủ nên dùng buổi tối trước khi ngủ, trong khi số khác lại dùng thuốc vào ban ngày để giúp giảm ngủ. Mất ngủ do SSRI có thể điều trị bằng benzodiazepine, trazodone (nhưng phải giải thích tác dụng phụ gây cương cứng dương vật của trazodone), hoặc những thuốc gây ngủ khác. Riêng tình trạng ngủ nhiều do SSRI thì cần phải đổi sang thuốc SSRI khác, hoặc đổi bupropion.

    3. Tác động khác lên giấc ngủ: có nhiều BN dùng SSRI than phiền cảm giác ngủ như đang thức, hoặc thấy ác mộng. Một số khác lại mô tả tình trạng nghiến răng khi ngủ, tình trạng

    4. chân không yên, giật cơ lúc ngủ, toát mồ hôi lúc ngủ.

    5. Tình trạng cùn mòn cảm xúc: cùn mòn cảm xúc là tình trạng thường thấy khi sử dụng SSRI kéo dài. Các BN mô tả tình trạng không có khả năng khóc, hay phản ứng với một tình

    6. huống cảm xúc nào đó, cảm thấy vô cảm, thờ ơ, đề kháng với thay đổi cảm xúc. Tác dụng phụ này thường làm cho BN ngưng điều trị ngay cả khi thuốc giúp thoát khỏi trạng thái trầm cảm, lo âu.

    7. Gây ngáp: các quan sát lâm sàng tích cực nhận thấy BN dùng SSRI có biểu hiện tăng ngáp. Tác dụng phụ này không phải do thuốc gây mệt mỏi, hay do giấc ngủ đêm kém, mà là do SSRI tác động lên vùng hạ đồi.

    8. Co giật: co giật chiếm khoảng 0.1 - 0.2% BN điều trị bằng SSRI. Tỷ lệ này tương tự như ở các thuốc chống trầm cảm khác và không khác biệt so với giả dược. Co giật thường xuất hiện khi dùng liều cao (VD: fluoxetine liều 100mg/ngày hoặc cao hơn).

    9. Triệu chứng ngoại tháp: SSRI hiếm khi gây tình trạng bồn chồn không yên, run, tăng trương lực cơ kiểu bánh xe răng cưa, loạn trương lực cơ cấp (vẹo cổ, trợn mắt, rối loạn dáng

    10. đi), đi đứng chậm. Một số hiếm trường hợp bị rối loạn vận động muộn. BN bị bệnh Parkinson

    11. đã được điều trị tốt cũng có thể bị nặng hơn khi sử dụng SSRI.

    12. Tác dụng anticholinergic: paroxetine gây tình trạng anticholinergic nhẹ như: khô miệng, táo bón, an thần, liên quan đến liều. Tuy nhiên, đa số bệnh nhân dùng paroxetine vẫn không thấy có tác dụng phụ này. Các thuốc SSRI khác thường gây khô miệng, nhưng tình trạng khô miệng này lại gián tiếp do tác động muscarinic.

    1. Tác dụng phụ huyết học: các SSRI có thể gây suy giảm chức năng kết tập tiểu cầu nhưng không làm giảm số lượng tiểu cầu. Tình trạng này có thể biểu hiện bằng dễ bị bầm tím dưới da, hoặc chảy máu nhiều, kéo dài. Khi xuất hiện tình

    1. trạng này, nên thực hiện xét nghiệm máu. Theo dõi kỹ lưỡng khi bệnh nhân sử dụng kết hợp SSRI và thuốc chống đông, hoặc aspirin.

    1. Rối loạn điện giải và glucose: các SSRI gây giảm cấp tính đường huyết, do

    1. đó, bệnh nhân tiểu đường nên được theo dõi sát đường huyết. Một số hiếm trường hợp có tình trạng hạ natri máu do SSRI và tình trạng tiết hormon bài niệu không phù hợp có thể gặp ở những bệnh nhân dùng kèm thuốc lợi tiểu.

    1. Phản ứng nội tiết và dị ứng: các SSRI gây giảm nồng độ SSRI và gây phát

    1. triển mô tuyến vú (mammoplasia), chứng tiết sữa ở cả nam và nữ. Tuyến vú có thể về bình thường khi ngưng thuốc, nhưng phải kéo dài đến vài tháng sau.

    2. Các hình thức phát ban khác nhau có thể xuất hiện trong khoảng 4% bệnh nhân sử

    3. dụng SSRI; trong một số nhỏ bệnh nhân này, phản ứng dị ứng có thể lan toàn cơ thể và ảnh

    4. hưởng đến hệ hô hấp, hiếm hơn còn có thể gây xơ hoá phổi và gây ngưng thở. Việc sử dụng SSRI do đó cần phải ngưng ngay lập tức ở bệnh nhân bị phát ban.

    1. Hội chứng serotonine: việc sử dụng đồng thời SSRI và một thuốc MAOI, L- tryptophan, hay lithium có thể làm tăng nồng độ serotonine huyết tương và đạt đến nồng độ ngộ độc, gây ra một loạt các triệu chứng được gọi tên là hội chứng serotonine. Hội chứng này nặng nề và có thề gây tử vong do kích thích quá mức serotonine, gồm có các triệu chứng được sắp xếp theo thứ tự xuất hiện khi bệnh càng lúc càng xấu dần đi:

    • tiêu chảy,

    • bồn chồn không yên,

    • kích động dữ dội, tăng phản xạ, mất ổn định thần kinh thực vật với các dấu hiệu

    1. sinh tồn dao động nhanh chóng,

    • rung giật cơ, co giật, tăng thân nhiệt, rung rẩy không kiểm soát, cứng đờ,

    • sảng, hôn mê, trạng thái động kinh, suy tuần hoàn và chết.

    1. Điều trị hội chứng serotonine cần phải loại bỏ những thuốc gây ra tình trạng này, chắc

    2. chắn phải thành lập hệ thống nâng đỡ thích hợp: nitroglycerine, cyproheptadine, methysergide (Sansert), chăn lạnh, chlorpromazine, dantrolene (Dantrium), benzodiazepine, chống động kinh, thông khí hổ trợ, thuốc gây tê.

    1. Tình trạng toát mồ hôi: một số bệnh nhân mắc phải tình trạng toát mồ hôi khi

    1. sử dụng SSRI. Tình trạng toát mồ hôi này không liên quan gì đến nhiệt độ môi trường. Toát mồ hôi đêm có thể gây ướt đẫm chăn mền và bắt buộc bệnh nhân

    2. phải thay đổi quần áo ngủ. Dùng terazosin 1 - 2mg/ngày có thể có hiệu quả

    3. đáng kinh ngạc đến việc làm mất tác dụng phụ gây toát mồ hôi.

    1. Hội chứng cai SSRI:

    1. Ngưng đột ngột SSRI, nhất là với các SSRI có thời gian bán huỷ ngắn (VD: paroxetine, fluvoxamine) có thể gây ra hội chứng cai với biểu hiện: tình trạng chóng mặt, run, buồn nôn,

    2. đau đầu, trầm cảm dội ngược, lo âu, mất ngủ, kém tập trung chú ý, thở nhanh, dị cảm, triệu

    3. chứng giống migrain. Tình trạng này thường không xuất hiện nếu điều trị SSRI chưa đến 6

    4. tuần, và thường hồi phục dần trong 3 tuần. Những bệnh nhân đã có tác dụng phụ thoáng qua trong những tuần đầu khi bắt đầu dùng SSRI thường hay bị hội chứng ngưng SSRI.

    5. Fluoxetine là loại SSRI ít gây hội chứng này nhất vì thời gian bán huỷ của các chuyển hoá chất kéo dài hơn 1 tuần và thuốc tự giảm dần hiệu quả. Do đó, fluoxetine thường được sử dụng điều trị cho những trường hợp bị hội chứng cai SSRI khác. Tuy nhiên, hội chứng cai cũng xuất hiện với fluoxetine nhưng nhẹ hơn và chậm hơn.

    6. Tương tác thuốc:Các thuốc SSRI hầu như không tác động đến hầu hết các thuốc khác. Hội chứng

    7. serotonine có thể xuất hiện nếu dùng chung MAOI, tryptophan, lithium hoặc thuốc chống trầm cảm khác có tác dụng ức chế tái hấp thu serotonin. Fluoxetine, sertraline, paroxetine có thể làm tăng nồng độ huyết tương của chống trầm cảm TCA và gây ngộ độc TCA trên lâm sàng. Một số tương tác dược động học có thể xuất hiện, được nhận ra trong các phân tích thí nghiệm men CYP nhưng hiếm thấy tương tác trong lâm sàng.

    8. Kết hợp lithium và các thuốc tác động lên hệ serotonine cần phải thận trọng vì có thể gây co giật. Thuốc SSRI và nhất là fluvoxamine, không nên dùng chung với clozapine vì làm tăng nồng độ clozapine và gây co giật. Thuốc SSRI có thể làm tăng thời gian tồn tại và mức độ nặng của tình trạng ảo giác do zolpidem.

    1. Fluoxetine:

    1. Fluoxetine có thể được chỉ định dùng chung với thuốc TCA, nhưng chỉ nên dùng liều thấp TCA. Vì fluoxetine được hệ men CYP của gan chuyển hoá, nên thuốc có thể làm tác động đến chuyển hoá của các thuốc khác, có thể gặp ở 7% dân số có dạng đồng phân không hoạt động của hệ men này, còn được gọi là những người có chuyển hoá kém. Fluoxetine có thể làm giảm chuyển hoá của carbamazepine, thuốc chống sẹo (antineoplastic), diazepam và phenytoin. Tương tác thuốc do fluoxetine là làm ảnh hưởng đến nồng độ huyết tương của benzodiazepine, thuốc chống loạn thần và lithium. Fluoxetine không tương tác với warfarin (Coumadin), tolbutamide, chlorothiazide.

    1. Sertraline:

    1. Sertraline có thể thay thế warfarin trong gắn kết với protein huyết tương và có thể gây tăng thời gian prothrombin. Các số liệu về tương tác thuốc giữa sertraline tương tự với fluoxetine mặc dù sertraline không tương tác mạnh mẽ với enzyme CYP 2D6.

    1. Paroxetine:

    1. Paroxetine có nguy cơ gây tương tác thuốc nhiều hơn so với fluoxetine và sertraline vì thuốc này có khả năng ức chế mạnh đến enzyme CYP 2D6. Cimetidine có thể làm tăng nồng độ sertraline và paroxetine. Phenobarbital và phenytoin có thể làm giảm nồng độ của paroxetine. Vì thuốc có khả năng tác động đến men CYP 2D6, nên việc sử dụng đồng thời

    2. paroxetine với thuốc chống trầm cảm khác, phenothiazines và thuốc chống loạn nhịp phải được thận trọng cao độ. Paroxetine có thể làm tăng hiệu quả chống đông của warfarin. Dùng đồng

    3. thời paroxetine và tramadol (Ultram) có thể thúc đẩy xuất hiện hội chứng serotonine ở người già.

    1. Fluvoxamine:

    1. Trong số các thuốc SSRI, fluvoxamine có nguy cơ cao nhất gây tương tác thuốc. Fluvoxamine được chuyển hoá bằng men CYP 3A4, mà hệ men này bị ketoconazole ức chế hoạt động. Fluvoxamine có thể làm tăng thời gian bán huỷ của alprazolam (Xanax), triazolam (Halcion) và diazepam, nên fluvoxamine không nên sử dụng đồng thời với các thuốc này.

    2. Hóa dược trị liệuFluvoxamine có thể làm tăng nồng độ theophylline gấp 3 lần và tăng nồng độ warfarin gấp 2

    3. lần, nên có thể gây những hệ quả đáng kể trong lâm sàng; do đó, nồng độ huyết thanh của theophylline và warfarin nên được theo dõi sát sao và nên điều chỉnh liều tuỳ theo nồng độ thuốc trong huyết thanh. Fluvoxamine làm tăng nồng độ và làm tăng tác động của clozapine, carbamazepine, methadone (Dolophine, Methadose), propranolol, diltiazem. Fluvoxamine tương tác không đáng kể với lorazepam hay digoxin.

    1. Citalopram:

    1. Citalopram không ức chế đáng kể bất cứ hệ men CYP nào. Việc sử dụng đồng thời

    2. cimetidine làm tăng nồng độ citalopram khoảng 40%. Citalopram không tác động đáng kể chuyển hoá của các thuốc sau, cũng như chuyển hoá của thuốc citalopram cũng không bị các thuốc sau ảnh hưởng: digoxin, lithium, warfarin, carbamazepine, imipramine. Citalopram làm tăng nồng độ của metoprolol gấp 2 lần, nhưng điều này thường không ảnh hưởng đến huyết áp cũng như nhịp tim. Những số liệu thống kê về việc sử dụng đồng thời citalopram và thuốc ức chế CYP 3A4, CYP 2D6, tuy vậy, cũng chưa nhiều.

    1. Escitalopram:

    1. Escitalopram có khả năng ức chế tương đối đến men CYP 2D6 và có thể làm tăng đáng kể nồng độ desipramine, metoprolol.

    2. Liều lượng và hướng dẫn sử dụng:

    1. Fluoxetine:

    1. Fluoxetine được trình bày dưới dạng viên bao phim 10- và 20-mg, hay viên nén 10mg, hoặc viên bao phim có màng 90mg dùng 1 lần/tuần, hoặc dạng dung dịch uống (20mg/5mL).

    2. Liều ban đầu thường dùng là 10 - 20mg uống/ngày, thường được cho vào buổi sáng, vì tác dụng phụ gây mất ngủ. Fluoxetine nên được dùng cùng với thực phẩm để giảm thiểu tác dụng phụ buồn nôn. Thời gian bán huỷ dài và có chuyển hoá chất hoạt động làm thuốc cần đến 4 tuần mới đạt nồng độ sẳn sàng có hiệu quả.

    3. Liều 20mg thường là liều có hiệu quả cao để điều trị trầm cảm. Liều tối đa được khuyên dùng là liều 80mg/ngày. Để giảm thiểu tác dụng phụ lo âu và bồn chồn khi bắt đầu sử dụng, các bác sĩ lâm sàng nên bắt đầu bằng liều 5- hoặc 10-mg/ngày (viên nén hoặc dạng dung dịch). Và sau đó, có thể tăng liều đều mỗi ngày. Liều điều trị của fluoxetine, cũng như các SSRI khác, để đạt hiệu quả với các rối loạn khác đều cao hơn so với điều trị trầm cảm.

    1. Sertraline:

    1. Sertraline được trình bày với dạng viên nén 25-, 50-, 100mg. Điều trị ban đầu tình trạng trầm cảm với sertraline nên bắt đầu với liều 50mg/ngày. Để hạn chế tác dụng phụ tiêu hoá, các bác sĩ lâm sàng nên bắt đầu bằng liều 25mg/ngày và tăng lên 50mg/ngày sau 3 tuần. Nếu bệnh

    2. nhân không đáp ứng sau 1 - 3 tuần, có thể tăng liều sertraline 50mg mỗi tuần, và có thể đạt tối đa 200mg dùng 1 lần trong ngày.

    3. Sertraline có thể dùng buổi sáng hoặc tối. Nên sử dụng ngay sau ăn nhằm làm giảm tác dụng phụ tiêu hoá. Dạng dung dịch uống sertraline (1mL = 20mg) chứa 12% cồn và phải được pha với nước khi sử dụng.

    4. Trong điều trị rối loạn hoảng loạn, sertraline nên được bắt đầu bằng liều 25mg nhằm

    5. giảm nguy cơ kích thích gây cơn hoảng loạn.

    1. Paroxetine:

    1. Dạng paroxetine phóng thích tức thì có dạng trình bày viên nén 20mg, hoặc viên bao phim 10-, 30- và 40-mg, hoặc dung dịch sữa hương cam 10mg/5mL. Paroxetine dùng điều trị trầm cảm nên bắt đầu bằng liều 10 hoặc 20mg/ngày. Tăng liều nếu không đáp ứng thích hợp sau 1 - 3 tuần. Liều tối đa chỉ là 50mg/ngày. Nếu bệnh nhân cảm thấy khó chịu về tiêu hoá, nên sử dụng thuốc cùng với thực phẩm. Paroxetine có thể bắt đầu bằng liều duy nhất vào buổi tối,

    2. liều cao có thể chia thành 2 lần trong ngày.

    3. Dạng phóng thích chậm paroxetine (Paxil CR) có dạng trình bày viên nén 12.5-, 25- và 37.5-mg. Liều khởi đầu để điều trị trầm cảm là 25mg/ngày, và để điều trị rối loạn hoảng loạn thì

    4. liều điều trị là 12.5mg/ngày.

    5. Paroxetine là thuốc SSRI hầu như luôn gây hội chứng ngưng thuốc, do nồng độ thuốc trong huyết tương giảm nhanh chóng nếu ngưng sử dụng. Để hạn chế tình trạng này khi ngưng thuốc đột ngột, paroxetine nên giảm từng bước, và mỗi lần thay đổi liều phải cách nhau 2 - 3

    6. tuần.

    1. Fluvoxamine:

    1. Fluvoxamine có thể có dạng trình bày là viên nén 25mg và thường gặp viên nén 50-, 100-mg. Liều mỗi ngày có hiệu quả là 50 - 300mg. Liều bắt đầu điều trị thường là 50mg dùng 1 lần trong ngày trước khi ngủ, trong tuần đầu tiên; sau đó có thể điều chỉnh liều tuỳ theo tác dụng phụ và đáp ứng lâm sàng. Liều trên 100mg/ngày nên được chia làm 2 lần uống. Giảm liều tạm thời hoặc tăng liều chậm có thể thực hiện khi tình trạng buồn nôn xuất hiện trong 2 tuần

    2. đầu điều trị.

    3. Fluovoxamine có thể được chỉ định dùng liều duy nhất vào buổi tối nhằm giảm thiểu tác dụng phụ. Viên thuốc nên được nuốt cùng với thức ăn, nhưng không được nhai. Ngưng đột

    4. ngột fluvoxamine có thể gây hội chứng ngưng thuốc.

    1. Citalopram:

    1. Citalopram có dạng trình bày thường là viên nén 20-, 40-mg và dạng dung dịch (10mg/5mL). Liều khởi đầu thường là 20mg/ngày trong tuần đầu tiên, sau đó thường tăng liều đến 40mg/ngày. Ở người già hoặc bệnh nhân suy gan, nên sử dụng liều 20mg/ngày, và chỉ nên tăng liều đến 40mg/ngày khi không đáp ứng với liều 20mg/ngày. Viên thuốc chỉ nên dùng 1 lần trong ngày, hoặc sáng hoặc tối, có thể dùng cùng thức ăn hoặc không.

    1. Escitalopram:

    1. Escitalopram có thể có các dạng trình bày là viên nén 10-, 20-mg, cũng như dạng dung dịch 5mg/5mL. Liều được khuyên sử dụng là liều 10mg/ngày. Trong nhiều nghiên cứu thử

    2. nghiệm lâm sàng, liều 20mg/ngày cũng không đạt hiệu quả nào nhiều hơn.


    1. tải về 1.53 Mb.

      Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  • 1   2   3   4   5   6   7   8   9




    Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
    được sử dụng cho việc quản lý

        Quê hương