Thiên vân quách văn hòa trong thi văn năM 2011 LỜi tựA



tải về 15.16 Mb.
trang7/134
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích15.16 Mb.
#30102
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   134

BÁO BỔ 報 補

Báo: Đáp trả lại. Bổ: Làm việc có ích cho người.

Báo đáp ơn nghĩa bằng cách giúp ích cho người, tức là đền bù những lúc người ta vì mình mà cực nhọc.



Làm trai trong cõi người ta,

Trước lo báo bổ, sau lo giữ mình.

(Lục Vân Tiên).



Vậy có người hiền lo báo bổ,

Hai mươi bốn thảo dấu còn nay.

(Dương Từ Hà Mậu).



BÁO ĐỀN BA XUÂN

Bởi câu trong thơ cổ "Thùy ngôn thốn thảo tâm, Báo đáp tam xuân huy 誰 言 寸 草 心, 報 答 三 春 輝", nghĩa là ai bảo rằng tấm lòng của tấc cỏ mà báo đáp được ánh sáng của ba mùa xuân. Lời của một người con đi xa nhớ mẹ.



Môn mi mong những nhờ duyên,

Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân.

(Nhị Độ Mai).



BÁO ĐỨC THÙ CÔNG 報 德 酬 功

Báo đức: Đáp trả lại ân đức. Thù công: Đền trả công ơn.

Báo đức thù công tức là đền đáp cái ân đức và trả công ơn của người đã giúp mình.



Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.

(Lục Vân Tiên).



BÁO TIỆP 報 捷

Báo: Đem tin tức. Tiệp: Thắng trận.

Báo tiệp là báo tin cho biết đã thắng trận.



Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng,

Cờ báo tiệp giữa trời nam lay bướm nhẹ...

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



BÁO ỨNG 報 應

Báo: Trả lại. Ứng: Đáp lại.

Báo ứng là được đền trả lại những gì do chính mình đã gây tạo, như làm lành trả lành, làm ác trả ác.



Ngàn xưa mấy kẻ gian ngay,

Xem cơ báo ứng biết tay trời già.

(Nhị Độ Mai).



Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,

Thiệt trời báo ứng lẽ nầy rất ưng.

(Lục Vân Tiên).



Cho hay duyên kiếp bởi trời,

Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai.

(Truyện Trinh Thử).



Vì chưng tựu thiểu thành đa,

Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

(Kinh Sám Hối).



BÀO ẢNH 泡 影

Bọt nước và cái bóng là hai vật rất mong manh, dùng để chỉ sự hư ảo.

Kinh Kim Cang có câu: Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn, bào, ảnh như lộ diệc như điện ưng tác như thị quan 一 切 有 為 法 如 夢 幻 泡 影, 如 露 亦 如 電, 應 作 如 是 觀, nghĩa là các pháp hữu vi tức là việc đời như giấc chiêm bao, bọt nước và cái bóng, như giọt móc cũng như ánh sáng của chớp nhoáng thì hết thảy nên xem như vậy cả. Ý nói những sự hiện hữu trên cuộc đời này đều không được lâu bền.

Xem: Mộng ảo.



Sóng cồn cửa biển nhấp nhô,

Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Kìa bào, kìa ảnh vút qua,

Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm bao.

(Quan Âm Thị Kính).



Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,

Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không.

(Thập Loại Chúng Sinh).



BÀO HY 炮 羲

Bào Hy tức Phục Hy, vị vua thời thượng cổ theo truyền thuyết Trung Hoa, họ Phong đóng đô ở đất Trần, dạy dân biết cày bừa, chăn nuôi súc vật để đưa vào bếp nấu nướng nên được gọi là Bào Hy. Phục Hy cũng là người đầu tiên vạch ra bát quái (Tám quẻ), cơ sở của Kinh Dịch.

Theo sách Thượng Thư Đại Truyện thì Phục Hy là một vị vua thứ hai trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân 燧 人, Phục Hy 伏 羲, và Thần Nông 神 農.

Xem: Phục Hy.



Môn rằng: Tám quẻ Bào Hy,

Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BÀO LẠC 炮 烙

Một thứ dụng cụ dùng để tra tấn tội nhơn rất ghê gớm. Sách Liệt Nữ Truyện chép: Một cột đồng dựng đứng có bôi mỡ, bên trong đốt than cháy đỏ rực. Tội nhân bị cột vào trụ đồng cho đến chết cháy như quay.

Hình phạt này có vào thời nhà Thương do Trụ Vương nghĩ ra. Lúc ấy, Trụ vương nghe lời Đắc Kỷ bày ra hình Bào lạc để giết hại người tôi trung. Hình bào lạc này được chế ra để xử Bà Khương Hoàng Hậu.



Đao sơn kiếm thụ đầy thành,

Thuỷ lao bào lạc ngục hình gớm thay.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,

Đốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.

(Kinh Sám Hối).



BẢO CÁI 寶 蓋

Bảo: Quý báu. Cái: Cây lọng.

Bảo cái là cây lọng quý giá, chỉ cây lọng dùng để thờ trên chánh điện Phật.



Ào ào dạng bóng tường loan,

Tràng phan bảo cái giao quan âm thầm.

(Quan Âm Thị Kính).



Chuông kêu lẫn tiếng thiều rung,

Cờ xen bảo cái, tán lồng tràng phan.

(Truyện Phan Trần).



BẢO QUỐC HỘ DÂN 保 國 護 民

Bảo quốc: Gìn đất nước. Hộ dân: Hộ nhân dân.

Bảo quốc hộ dân là gìn giữ đất nước, bảo hộ nhân dân, ý nói bảo hộ quốc gia dân tộc.



Thánh cung vạn tuế, tại thượng dương dương,

Bảo quốc hộ dân, lưu ân tích phước.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BẠO HỔ 暴 虎

Do câu “Bạo hổ bằng hà 暴 虎 憑 河” tức là tay không bắt cọp, không thuyền mà lội qua sông. Ý nói làm những việc nóng nảy liều lĩnh, vô ích.

Tử Lộ là người hiếu dũng, thấy Khổng Tử khen Nhan Uyên, bèn hỏi: Nếu thầy thống lĩnh ba quân thì thầy sẽ cộng sự với ai? Khổng Tử đáp: Bạo hổ bằng hà, tử nhi vô hối giả, ngô bất dự dã 暴 虎 憑 河, 死 而 無 悔 者, 吾 不 與 也, nghĩa là tay không mà bắt cọp, không dùng thuyền mà dám vượt sông, đó là hạng chết cũng không biết hối, ta không cùng làm việc với họ.

Nghĩa bóng: Chỉ người có sức lực, nhưng không có mưu trí.



Tính hay bạo hổ đã quen,

Dám tìm chuột bạch đánh ghen tận nhà.

(Truyện Trinh Thử).



BẠO NGƯỢC 暴 虐

Bạo: Hung tợn. Ngược: Ngang ngược, độc ác.

Bạo ngược là tàn bạo ngang ngược, tức kẻ hung tợn độc ác.



Đừng học thói của quân bạo ngược,

Xử mẹ cha tội phước quá hơn tòa.

(Phương Tu Đại Đạo).



BẠO TẦN 暴 秦

Bạo: Hung dữ ngược ngạo. Tần: Nhà Tần.

Bạo Tần chỉ nhà Tần bạo ngược, đốt sách chôn Nho, bắt dân xây Vạn Lý Trường Thành, khiến lòng người không phục, đó là dọn đường cho Lưu Bang lập nên nhà Hán.



Bạo Tần dọn chỗ sẵn cho Lưu,

Trời khiến bầy hùng dấy đuổi hươu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

BẠO THẦN 暴 臣

Bạo: Hung dữ. Thần: Tôi.

Bạo thần là kẻ bầy tôi hung bạo. Người tôi thần đối xử với nhà vua tàn bạo.



Trịnh Hâm là đứa bạo thần,

Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.

(Lục Vân Tiên).



BÁT ÂM 八 音

Tám loại âm thanh.

Trong âm nhạc, người ta chia ra tám thứ tiếng: 1.-Bào: Tiếng sênh. 2.-Thổ: Tiếng trống đất. 3.-Cách: Tiếng trống da. 4.-Mộc: Tiếng mõ gỗ. 5.-Thạch: Tiếng khánh đá. 6.-Kim: Tiếng chuông đồng. 7.-Ty: Tiếng dây đàn. 8.-Trúc: Tiếng ống sáo tre. Tám loại âm thanh đó gọi chung là bát âm.

Nghĩa bóng: Chỉ chung về âm nhạc.



Dập dìu chốn vũ nơi ca,

Trò bày bách hí, nhịp hoà bát âm.

(Nhị Độ Mai).



Bát âm điệu mới rất hay,

Họa mi nổi tiếng xưa nay đã nhiều.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



BÁT BỬU 八 寶

Tám món báu của Bát Tiên, tức là bửu bối của tám vị tu luyện thành Tiên ở núi Bồng Lai. Đó là: 1- Bầu Rượu của Lý Thiết Quả. 2- Quạt của Hớn Chung Ly. 3- Gươm của Lữ Đồng Tân. 4- Sanh của Tào Quốc Cựu. 5- Hoa Lam của Lâm Thái Hoà. 6- Ống Tiêu của Hàn Tương Tử. 7- Gậy của Trương Quả Lão. 8- Bông Sen của Hà Tiên Cô.



Chiếu hoa gối sách bộn bề,

Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra.

(Lục Vân Tiên).



BÁT CANH QUẢNG VÕ

Do điển tích: Vào thời Hán Sở tranh hùng, Lưu Bang và Hạng Võ chia đôi nước Tàu mà làm vua, Lưu Bang lên ngôi là Hán Vương, còn Hạng Võ xưng là Tây Sở Vương. Để tranh được toàn thiên hạ, Hạng Võ bắt cha Lưu Bang là Thái Công tại Quảng Võ, rồi sai người nói với Lưu Bang bảo hàng với Hạng Võ, nếu không hàng thì giết Thái Công.

Hán Vương trả lời với sứ rằng: Ta với Hạng Võ ước làm anh em với nhau, cha ta tức là cha anh ấy, nếu anh ấy muốn giết cha thì nhớ chia cho ta một bát canh. Câu nói của Hán Vương tuy liều lĩnh nhưng mạnh dạn, làm cho Hạng Võ rúng chí, tha Thái Công về và giảng hoà với nhà Hán.

Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ,

Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn.

(Thơ Tôn Thọ Tường).



BÁT ĐỒNG 八 桐

Tám cây ngô đồng.

Do câu chuyện nhà người họ Hàn có tám người con đều làm quan to mà trước nhà ở giữa sân có trồng một cây ngô đồng. Vì thế, người ta thường nói: “Hàn gia đồng mộc 韓 家 桐 木”, nghĩa là cây ngô đồng của nhà người họ Hàn.

Đông hàng lông phượng gót lân,

Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng.

(Nhị Độ Mai).



BÁT LOẠN 撥 亂

Bát: Dẹp cho yên. Loạn: Giặc giã, trộm cướp.

Bát loạn là chỉ giặc giã, loạn lạc.



Khi bát loạn lòng ngay ít mặt,

Thuở thái bình ăn lộc nhiều người.

(Nhạc Hoa Linh).



Thuở thái bình, yển võ tu văn;

cơn bát loạn, yển văn tu võ.

(Sãi Vãi).



BÁT NƯỚC ĐẦY

Bát nước đầy đổ đi, khó hốt lại đầy.

Do Hán Sử chép: Vợ Châu Mãi Thần thấy chồng vừa đi làm việc, vừa học, nên nghĩ rằng không giàu sang nổi, bèn xin ly dị ông để ra đi. Về sau, Mãi Thần nên danh, vợ trở lại xin tái hiệp. Mãi Thần nói: Bát nước đầy đổ đi, nếu hốt lại đầy được thì mới cho tái hiệp. Vợ Mãi Thần xấu hổ, bèn tự vận chết.

Trạng rằng: Bưng bát nước đầy,

Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.

(Lục Vân Tiên).



BÁT NHÃ 般 若

Tiếng của nhà Phật gọi trí huệ.

Từ Bát nhã là tiếng Hán, dịch âm từ chữ Phạn Prajna để chỉ trí huệ.

Trí Bát nhã được ví như con thuyền chở chúng sanh vượt qua biển luân hồi sinh tử sang đến bờ Niết Bàn giải thoát (Thuyền Bát nhã).



Trương thẳng cánh con thuyền Bát Nhã,

Cổi đau thương giải quả trừ khiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÁT QUÁI 八 卦

Nguyên vua Thánh Phục Hy đời Thượng cổ, bắt chước theo Hà Đồ mà vạch ra tám quẻ gọi là Bát quái, gồm có: 1.- Càn, tượng cho trời. 2.- Khôn, tượng cho đất. 3.- Ly, tượng cho mặt trời. 4.- Khảm, tượng mặt trăng. 5.- Chấn, tượng cho sấm. 6.- Tốn, tượng cho gió. 7.- Cấn, tượng cho núi. 8.- Đoài, tượng cho chằm.



Lại ngỏ số ông Chu, ông Thiệu,

Dồn cửu cung, bát quái, vào một nắm tay,

(Thập Giới Cô Hồn).



BÁT TIÊN 八 仙

Tám vị Tiên tu luyện đắc đạo ở núi Bồng Lai là: 1- Lý Thiết Quả. 2-Hớn Chung Ly. 3-Lữ Đồng Tân. 4-Hàn Tương Tử. 5-Trương Quả Lão. 6-Lâm Thái Hoà. 7-Tào Quốc Cựu. 8-Hà Tiên Cô.



Rõ ràng son điểm phấn tô,

Bên tranh cửa Lão bên đồ Bát tiên.

(Tư Dung Vãn).



Trong ba ngàn, Sãi vui để một bầu;

Ngoài sáu đạo, Sãi vui với Bát Tiên;

(Sãi Vãi).



Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

(Truyện Kiều).



BÁT TRÂN 八 珍

Ngày xưa người Trung Quốc chế ra tám món ăn ngon và quý nhứt, gọi là Bát trân. Đó là: - Gan rồng. - Tuỷ phụng. - Thai con báo. - Đuôi cá gáy. - Chã thịt cú. - Môi đười ươi. - Bàn tay gấu. - Nhượng heo con.



Bấy giờ kinh sợ hãi hùng,

Bát trân chàng mới giải lòng cho qua.

(Truyện Trinh Thử).



BÁT VU 缽 盂

Bát vu hay bình bát là cái bình đựng đồ ăn và nước uống của các vị tăng ni phái khất sĩ bên Phật giáo.

Bình bát và chiếc áo Ca sa tượng trưng cho Phật pháp, cho nên các tông đồ bên Phật giáo vị nào được thầy truyền lại hai món báu nầy (Y và bát) tức là coi như làm tổ của tông phái đó: Bên Phật, gọi là truyền y bát.

Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,

Hiệp qui Tam Giáo hữu cầu chí chơn.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).



BẠT TUỴ SIÊU QUẦN 拔 萃 超 群

Bạt Tuỵ: Trội hơn quần chúng. Siêu quần: Vượt lên trên mọi người.

Bạt tuỵ siêu quần là người vượt hẳn đám quần chúng, tức là tài giỏi hơn mọi người.



Văn là thượng sĩ danh thần,

Võ thì bạt tụy siêu quần quân trung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÁU NƯỚC HƯƠNG TRỜI

Bởi câu “Quốc bửu thiên hương 國 寶 天 香”.

Báu nước do chữ quốc bửu, là quý giá nhất trong nước, ví với người trai có tài đức cao siêu. Hương trời do chữ thiên hương, ví với người con gái có tài sắc tuyệt vời. Ý nói trai tài gái sắc.

Khuôn duyên trộm nghĩ linh đời,

Giẩy giun báu nước hương trời sanh nhau

(Hoa Tiên Truyện).



BẮC CỰC 北 極

Tên một ngôi sao, cũng gọi là Bắc thần hay Bắc đẩu. Sao này rất sáng trong nhóm Tiểu hùng tinh. Dùng để chỉ nhà vua.

Xem: Bắc đẩu.

Nền hoàng thành đặt vững Long biên,

Ngôi Bắc cực muôn phương đều cùng hướng.

(Tụng Cảnh Tây Hồ)



BẮC ĐẨU 北 斗

Bắc: Hướng bắc. Đẩu: Tên ngôi sao.

Bắc đẩu là một ngôi sao sáng nằm ở phương bắc. Sao Bắc đẩu là một định tinh gồm bảy ngôi sao, gọi là Thất tinh. Bốn vì sao hình cái đầu, ba sao hình cái cán hay cái chuôi.

Theo truyền thuyết, Bắc Đẩu còn là vị thần giữ bộ tử của loài người.

Thức mây đòi lúc nhạt hồng,

Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,

Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.

(Kinh Tận Độ).



BẮC ĐẨU NAM TÀO 北 斗 南 曹

Tên hai vì sao mọc đối nhau ở hai hướng bắc và nam. Theo quan niệm ngày xưa, Bắc đẩu Nam tào còn là tên hai vị thần giữ bộ sinh và bộ tử của loài người.

Xem: Nam Tào Bắc Đẩu.

Phép hay biến hóa, thần thông,

Một ông Bắc đẩu, một ông Nam Tào.

Hai ông giữ sổ Thiên tào,

Mạng dân sanh tử đều vào trong tay.

(Dương Từ Hà Mậu).



Ðài thượng đồng xem qua Bắc Ðẩu,

Ngôi sao sáng chói thấu Nam Tào.

(Thiên Thai Kiến Diện).



BẮC ĐƯỜNG

Bắc: Phương bắc. Đường: Nhà.

Hướng bắc của ngôi nhà là phía sau nhà, nơi đàn bà con gái ở.

Kinh Thi có câu: Yên đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối, nghĩa là sao có được cỏ huyên để trồng ở phía sau nhà.

Bắc đường nơi bà mẹ hay chỉ người đàn bà ở.



Rau tần phồn ngoài Nam giản lạnh khô,

Nhà huyên thảo sau Bắc đường quạnh quẻ.

(Tử Tế Mẫu Văn).



BẮC KHUYẾT 北 闕

Bắc: Phía bắc. Khuyết: Cái cổng trên có lầu để quan sát.

Bắc khuyết là chỗ vua ngự. Ngày xưa người ta bao giờ cũng dựng cái khuyết nằm về phía bắc để hướng về đó lạy vua, vì vua day mặt về nam.



Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết,

Ngọn quang minh hun mát tấm trung can.

(Văn Tế Võ Tánh).



BẮC LÝ 北 里

Bắc: Phương bắc. : Xóm, làng.

Ở tại Trường An, Kinh đô Trung Quốc ngày xưa, có xóm hướng bắc là nơi gái làng chơi tụ tập. Làng kỹ nữ do đó gọi là xóm “Bình khang” hay xóm “Bắc lý”.

Bắc lý còn là tên một khúc hát dâm ô do vua Trụ đặt ra.

Kìa Bắc lý ngựa xe xum họp,

mối tình duyên khen kẻ khéo dắt dìu.

(Phú Cổ).



BẮC NAM 北 南

Phương bắc và phương nam.

Trong văn học, vì hai phương bắc và nam nằm đối nhau nên được dùng để chỉ sự xa cách hoặc để diễn tả sự gặp gỡ khó khăn.

Ví dụ:


Bắc năm muôn dặm đường chim,

Vì ai bèo nổi mây chìm bấy lâu.

(Hoa Tiên Truyện).



BẮC NHẠN NAM HỒNG 北 雁 南 鴻

Chim nhạn bay phương bắc, chim hồng bay phương nam.

Hồng nhạn là đôi chim trống và mái, thường hay bay có đôi bên nhau, nên chim nhạn bay sang bắc, chim hồng về hướng nam là có ý chỉ sự xa xôi cách trở, không bao giờ gặp nhau được.

Nghĩa bóng: Xa cách nhau, mỗi người mỗi ngã.



Khi cử gió lúc tuần mưa,

Khi mong bắc nhạn lúc đưa nam hồng.

(Thơ Bà Nhàn Khanh).



BẮC THẦN 北 辰

Bắc: Phương bắc. Thần: Ngôi sao.

Bắc thần là một tòa tinh tú ở phương bắc, còn gọi là sao Bắc cực.

Xem: Bắc cực.

Bắc thần đã mọc xê xê,

Chị em thức dậy lo nghề đi buôn.

(Ca Dao).



BẮN BÌNH

Bắn mắt hình chim sẻ trong bức bình phong, chỉ sự kén rể.

Do tích Lý Uyên, tức Đường Cao Tổ, bắn trúng mắt chim sẻ ở bức bình phong, được Đậu Nghị gả con gái cho. Ấu Học có câu: Xạ tước bình nhi trúng mục, Đường Cao đắc thê 射 雀 屏 而 中 目, 唐 高 得 妻, nghĩa là bắn trúng mắt chim sẻ ở bình phong, ông Đường Cao Tổ được vợ.

Xem: Xạ tước bình.



Ghe phen tơ đủ lụa đầu,

Bắn bình được khách gieo cầu trái duyên.

(Song Tinh Bất Dạ).



Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,

Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BẮN DƯƠNG

Tức bắn xuyên qua lá dương liễu, chỉ tài bắn giỏi.

Do tích Dưỡng Do Cơ thời Xuân Thu, nổi tiếng về bắn cung giỏi, có thể đứng cách xa lá liễu trăm bước mà bắn trăm phát trăm trúng.

Buột miệng nuốt châu nhả ngọc,

Dang tay dơ cức bắn dương.

(Thập Giới Cô Hồn).



BẮN NHẠN VEN MÂY

Bắn nhạn lấy ý từ chữ nhạn tháp đề danh để chỉ sự đỗ đạt. Ven mây lấy ý từ hội rồng mây để chỉ sự đỗ đạt.

Bắn nhạn ven mây dùng để chỉ sự quyết tâm làm chuyện khó khăn như thi cử.

Chí lăm bắn nhạn ven mây,

Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa.

(Lục Vân Tiên).



BẮN SẺ

Tức bắn con chim sẻ.

Do chữ “Tước bình 雀 屏” tức là chim sẻ trong bức bình phong, lấy tích trong Đường Thư: Đậu Nghị muốn tuyển chọn một chàng rể, bèn vẽ một con chim sẻ trên bức bình phong, rồi truyền rao khắp nơi, ai bắn trúng mắt chim sẻ ấy thì gả con gái cho. Nhiều người không bắn trúng, chỉ có Lý Uyên bắn ngay mắt chim, được chọn làm rể nhà họ Đậu. Sau Lý Uyên làm vua, là Đường Cao Tổ, còn con gái nhà họ Đậu được phong làm hoàng hậu.

Xem: Tước bình.



Làng cung kiếm rấp ranh bắn sẻ,

Khách phong hầu gấm ghé mong sao.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Tài bắn sẻ trai dầu chẳng thiếu,

Thì phép hòa tiêu gái liệu cho vừa.

(Phương Tu Đại Đạo).



BĂNG GIÁ NGỌC TRẮNG

Bởi chữ “Băng thanh ngọc khiết 冰 清 玉 潔” tức là trong như băng, tinh khiết như ngọc.

Băng giá ngọc trắng dùng để chỉ hành vi trong trắng, thanh cao.

Xem: Băng ngọc.



Bầu băng giá ngọc trắng ngần,

Dầu đầm giọt nước, phong trần chẳng ham.

(Tự Tình Khúc).



BĂNG HỒ 冰 壺

Hồ là cái bình bằng pha lê. Băng hồ là một cái bình pha lê trong suốt, lại đựng băng giá nữa thì người ta làm sao thấy tính cách trong trắng của nó được.

Nghĩa bóng: Chỉ tâm trong sạch như câu thơ Đường như sau: Lạc Dương thân hữu như tương vấn, Nhứt phiến băng tâm tại ngọc hồ 洛 陽 親 友 如 相 問, 一 片 冰 心 在 玉 壺, Lạc Dương thân hữu như cùng hỏi, Một tấm lòng băng tại ngọc hồ.

Băng hồ rơi xuống lầm than

(Tự Tình Khúc).



BĂNG LUÂN 冰 輪

Băng: Giá tuyết. Luân: Bánh xe.

Băng luân tức là bánh xe băng giá hay vòng tròn tuyết giá. Tô Thức có câu: Tuyết phong khuyết xứ dũng băng luân 雪 夆 缺 處 湧 冰 輪, nghĩa là mặt trăng nhô lên từ chỗ khuyết đỉnh núi tuyết.

Nghĩa bóng: Chỉ mặt trăng.

Băng luân một tấm lộng khơi,

Non sông muôn nước bóng ngời lòng soi.

(Dương Từ Hà Mậu).



BĂNG NGỌC 冰 玉

Băng ngọc là trong trắng như băng, tinh khiết như ngọc, dùng để chỉ hành vi trong sạch thanh cao.

Băng ngọc còn có thể hiểu “Băng tâm tại ngọc hồ 冰 心 在 玉 壺”, là một mảnh lòng băng tại hồ ngọc, dùng để chỉ tấm lòng thuỷ chung trong trắng.

Xem: Băng giá ngọc trắng.



Đan tâm còn chút gọi là,

Giữ gìn băng ngọc đừng pha bụi trần.

(Tự Tình Khúc).



BĂNG NHÂN 冰 人

Băng: Giá, nước gặp lạnh đông lại. Nhân: Người.

Băng nhân là người làm mai mối như chữ môi nhân 媒 人.

Do điển tích: Linh Hồ Sách là một tri huyện nằm mộng, thấy mình đứng trên tấm băng trò chuyện cùng người đứng dưới phiến băng. Hôm sau, thức dậy mới đoán rằng: Đứng trên băng thuộc dương, đứng dưới băng thuộc âm, mà âm dương tức chỉ vợ chồng. Hồ Sách đứng nói chuyện để liên lạc giữa âm dương là người làm môi giới vậy.

Về sau, băng nhân được dùng để chỉ người làm mai mối.



Sự lòng ngỏ với băng nhân,

Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.

(Truyện Kiều).



Ngỏ lời cậy với băng nhân,

Nói sao êm đẹp mười phần cho nên.

(Ngọc Kiều Lê).



BĂNG TUYẾT 冰 雪

Băng: Nước lạnh đông lại. Tuyết: Hơi nước trên không gặp lạnh đông lại và rơi xuống.

Băng tuyết tức là băng giá, để chỉ sự trong sạch.

Xem chữ : Băng hồ.

Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:

Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong.

(Truyện Kiều).



Trông vời trời bể mênh mang,

Đem thân băng tuyết gửi hàm giao long.

(Hoa Tiên Truyện).



Đuốc hoa muốn vẹn tình băng tuyết,

Nào phải trăng hoa khéo ởm ờ.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



BẰNG BAY CÔN NHẢY

Bằng 鵬 là chim đại bàng, một loài chim to lớn, côn 鯤 là cá côn, như cá kình rất lớn, ví với người có chí lớn, bay nhảy tung hoành.

Trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử Viết: Bắc Minh hữu ngư, kỳ danh vi côn, bất tri kỷ thiên lý dã, hoá vi điểu kỳ danh vi bằng 北 溟 有 魚, 其 名 為 鯤, 不 知 幾 千 里 也, 化 為 鳥, 其 名 為 鵬 nghĩa là bể bắc có con cá tên là cá côn lớn không biết là mấy nghìn dặm, hóa làm con chim, tên là chim bằng, lưng như núi Thái sơn, cánh như đám mây rủ trên trời. Đó là hai vật lớn nhất trên cạn và dưới nước.

Bằng bay côn nhảy ví với người có chí lớn vì tương lai sự nghiệp mà bay nhảy tung hoành.



Nghĩ trong tảo vãn cũng là,

Bằng bay côn nhảy còn chờ hội sau.

(Nhị Độ Mai).



BẰNG HỮU 朋 友

Bằng hữu là bạn bè.

Người xưa quan niệm rằng: Nữ vô minh kính, bất tri diện thượng tinh thô; sĩ vô lương hữu, bất tri hành bộ khuy du 女 無 明 鏡, 不 知 面 上 精 粗; 士 無 良 友, 不 知 行 步 虧 踰, nghĩa là người đàn bà nếu chẳng có gương trong để soi mặt thì làm sao biết mặt mình dơ, hay sạch. Kẻ sĩ nếu chẳng có bạn hiền, thì ai mách cho mình những lỗi lầm. Như vậy việc kết bằng hữu rất cần thiết, nhưng muốn giao thiệp bạn bè, phải chọn người hiền lương, tín cẩn. Cách chọn bạn của cổ nhân thường rất kỹ lưỡng, bởi họ cho rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Khi bạn bè đã kết nguyền với nhau rồi, ta phải có lòng thành thật đối đãi với nhau, phải tin cậy và kính nhường để giữ niềm hòa ái, tương trợ tương thân. Anh em phải khuyên bảo nhau, giúp đỡ lẫn nhau, nếu có lỗi lầm, phải sửa đổi lẫn nhau, nghèo nàn phải thương yêu nhau, hoạn nạn phải cứu giúp nhau.



Dốc tình bằng hữu chu tuyền,

Nghĩa Hồng nhạn vẫn còn truyền xưa nay.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Anh em bằng hữu kết nguyền,

Một lòng tin cậy phải kiêng phải vì.

(Kinh Sám Hối).




tải về 15.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   134




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương