Thiên vân quách văn hòa trong thi văn năM 2011 LỜi tựA



tải về 15.16 Mb.
trang6/134
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích15.16 Mb.
#30102
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   134

BAN SIÊU 班 超

Người đời Đông Hớn, tự là Trọng Thăng, nhà rất nghèo, nhưng có chí lớn, thường đi viết mướn lấy tiền ăn học và nuôi mẹ già, không màng khó nhọc. Lắm lúc bực tức, ném bút mà than rằng: Đại trượng phu phải đeo cung mang đao theo gương Phó Giới Tử và Trương Khiên lập công danh ở miền biên thuỳ để được phong hầu, chứ lẽ đâu lại theo nghiên bút mà tàn lụi bao giờ.

Sau Ban Siêu đầu quân đánh giặc ở miền Tây Vực, thu phục hơn năm mươi nước nhỏ, được phong làm Định Viễn Hầu.

Những tài tót núi nhảy sông,

Sánh cùng Tôn Vũ sức cùng Ban Siêu.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



BAN THỊ 班 氏

Tức nàng Ban làm chức Tiệp dư đời vua Thành Đế nhà Hán. Vua Thành Đế muốn nàng Ban Tiệp dư ngồi chung xe phượng liễn đi chơi chốn hậu đình, nàng đều từ chối.

Sau bị nàng Triệu Phi Yến gièm pha, bà sợ hại thân, bèn xin vua cho theo hầu bà Thái Hậu, mẹ vua ở cung Trường Tín.

Xem: Nàng Ban.



Chối liễn phượng chẳng ngồi,

Ban Thị sự đà sau thấy;

Chống muôn hùng nào ngại,

Phùng Cơ lòng hãy xa ngừa.

(Cung Trung Bảo Huấn).



BAN TRÚC 班 竹

Ban: Có vằn lốm đốm. Trúc: Cây trúc, cây tre.

Ban trúc là tên một thứ trúc có vằn lốm đốm, được người ta dùng làm quạt. Do đó, loại quạt này được gọi là quạt Ban trúc.



Nón kiển hàng, sãi sắm một cái cho xinh ghê,

Quạt ban trúc, sãi sắm một cây cho báu riết.

(Sãi Vãi).



BÁN KHAI 半 開

Bán: Phân nửa. Khai: Mở mang.

Bán khai là mới mở mang được phân nửa, chỉ những dân tộc còn chậm tiến, chưa được khai hoá hoàn toàn.



Văn minh rày đã bán khai,

Mà đây còn hãy như đời Hùng Vương.

(Thơ Tản Đà).



BÁN NƯỚC CẦU VINH

Bởi câu “Mãi quốc cầu vinh 買 國 求 榮”.

Làm dân không giúp ích gì cho đất nước, trái lại vì muốn cầu sự vinh hiển mà làm những việc có hại cho quốc gia, hoặc thông đồng với ngoại bang phản lại đất nước, đó gọi là bán nước cầu vinh.

Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược.

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh,

(Bình Ngô Đại Cáo).



BÁN NGUYỆT MUA HOA

Nguyệt hoa là trăng hoa, chỉ sự tư tình giữa trai gái, sự ăn chơi đàn điếm.

Bán nguyệt mua hoa là nói hạng gái lầu xanh, chuyên đem việc trăng hoa ra mua bán.

Xem: Buôn hương.



Chỉ những phường bán nguyệt mua hoa,

Đưa hơi quyển ngâm nga trêu sắc gái.

(Phương Tu Đại Đạo).



BÁN TÍN BÁN NGHI 半 信 半 疑

Bán tín: Nửa tin tưởng. Bán nghi: Nửa nghi ngờ.

Bán tín bán nghi là nửa tin nửa ngờ, tức chưa tin tưởng hoàn toàn.



Nguyệt Nga bán tín bán nghi,

Đánh liều nhắm mắt theo đi về nhà.

(Lục Vân Tiên).



BÁN TỬ 半 子

Bán: Phân nửa. Tử: Con.

Bán tử dùng để chỉ con rể, xem gần như là con.

Trong Đường Thư có câu: Tích vi huynh đệ, kim tế bán tử dã. Bệ hạ nhược hoạn Tây Nhung tử, thỉnh dĩ binh trừ chi 昔 為 兄 弟, 今 婿 半 子 也, 陛 下 若 患 西 戎 子, 請 以 兵 除 之, nghĩa là trước kia là anh em, bây giờ là con rể, con một nửa rồi. Bệ hạ nếu có lo về con ở Tây Nhung này, thì xin dùng binh mà trừ đi.

Cậy người môn lại thưa lời,

Đưa tin bán tử họ Mai sang hầu.

(Nhị Độ Mai).



BÀN CANH 盤 庚

Tên một ông vua đời nhà Thương.

Nhà Thương đóng đô ở Hạ Bắc đã lâu đời, chính sự đã suy tàn, đến đời vua Bàn Canh muốn thay đổi vận nước, mới thiên đô về kinh đô cũ của Thành Thang, nên khiến dân tình ta thán vì phải bỏ cửa bỏ nhà đi theo. Nhà vua mới làm ba thiên Bàn Canh để an ủi dân tình.

Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



BÀN CỔ 盤 古

Theo truyền thuyết của Trung Quốc thì Bàn Cổ là tên một ông vua thuỷ tổ của loài người.

Tương truyền, khi trời đất đã định vị thì vua Bàn Cổ đã xuất hiện trị đời.

Vua Bàn Cổ mở lò tạo hoá,

hồng mông đà lẽo đẽo thêm xuân;

họ Hữu Ngu khoi mạch sơn xuyên,

cương giới vẫn rành rành như tạc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



Pháp bèn cất tiếng hét lên,

Mời ông Bàn Cổ tọa thiền chứng miêng.

(Lục Vân Tiên).



BÀN ĐÀO 蟠 桃

Tên một loại đào Tiên của bà Tây Vương Mẫu.

Theo sách Hán cổ sử: Vua Hán Võ Đế cầu bà Tây Vương Mẫu, được ban cho bốn quả đào Tiên và cho biết rằng: Cây bàn đào ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm nữa mới kết quả, ăn được một quả thì sống đời đời.

Người dâng thánh thọ vô cương,

Bàn đào chánh nhụy thiên hương đầy toà.

(Tư Dung Vãn).



Rượu cúc Bàn Ðào chờ hội ẩm,

Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.

(Đạo Sử).



BÀN GIAO 盤 交

Bàn: Cứu xét kỹ càng. Giao: Trao đổi cho nhau.

Khi thay đổi về chức vụ, người cũ xem xét lại hồ sơ, giấy tờ để trao lại cho người mới, đó gọi là bàn giao.



Phu nhân công tử xuống thoàn,

Mai công ở lại đợi còn bàn giao.

(Nhị Độ Mai).



BÀN HOÀN 盤 桓

Bàn hoàn có nghĩa là loanh quanh, bịn rịn, hay do dự không quyết định.



Nàng rằng: Thiên tải nhất thì,

Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.

(Truyện Kiều).



Nỗi riêng riêng những bàn hoàn,

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn

(Truyện Kiều).



Sá chi nửa cánh hoa tàn,

Tình kia ý nọ bàn hoàn nữa chi.

(Truyện Trinh Thử).



BÀN KHÊ

Khương Tử Nha lúc còn hàn vi ngồi câu cá ở sông Vị tại Bàn Khê. Sau vua Văn Vương nhà Châu đi săn bắn, gặp ông rước về tôn làm thầy. Ông đã giúp cho vua Văn Vương và Võ Vương dựng nên nghiệp nhà Châu.



Nọ nọ Bàn Khê công nghiệp cả,

Xuân thu lần kể tám mươi dư.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Lữ dù chưa gặp xe Văn,

Câu kia chưa dễ buông cần Bàn Khê.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



BẢN SƯ 本 師

Hay “Bổn sư”, có nghĩa là thầy ta.

Đức Phật Thích Ca là Tổ và khai sáng ra Phật Giáo, nên những tín đồ theo đạo Phật đều gọi là Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Bản sư rồi cũng đến sau,

Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.

(Truyện Kiều).



BẠN KIM LAN 伴 金 蘭

Bạn: Bè bạn. Kim lan: Vàng và hoa lan.

Bạn kim lan bạn bè giao du thân thiết, tình nghĩa bền chặt như vàng, khí vị thơm như hoa lan.



Bàn riêng mấy bạn kim lan,

Phường ta bất quá sàn sàn bực trung.

(Nhị Độ Mai).



BẠN LOAN 伴 鸞

Bạn: Bè bạn. Loan: Chim loan.

Bạn loan là đôi chim loan làm bạn không rời nhau.

Nghĩa bóng: Chỉ bạn tình, hay vợ chồng.

Đã trồng bạch bích dành đây,

Còn chờ bói phụng chưa vầy bạn loan.

(Quan Âm Thị Kính).



BẠN LỮ 伴 侶

Bạn: Bè bạn. Lữ: Bạn.

Bạn lữ tức là cùng trang lứa làm bạn bè với nhau.



Giang hồ bạn lữ câu tan hiệp,

Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say.

(Thơ Nguyễn Công Trừ).



Mãn kiếp những nỗi mình, mình xử,

Nào mong chi bạn lữ giúp nên.

(Phương Tu Đại Đạo).



Dầu kén chọn vào hàng bạn lữ,

Nên cho em hạng thứ trên người.

(Phương Tu Đại Đạo).



BẠN NGHỊCH 叛 逆

Bạn: Làm phản. Nghịch:Trái ngược.

Bạn nghịch là kẻ làm loạn, làm phản. Đồng nghĩa với chữ phản nghịch.



Vua Đường cất lấy xem qua,

Mới hay bạn nghịch ấy là Bá Cao.

(Nhị Độ Mai).



BẠN TÁC

Bạn tác tức là bạn bè cùng tuổi tác, cùng trang lứa với nhau.



Xảy đâu bạn tác vừa ra,

Trực cùng Hâm, Kiệm xúm cùng đưa Tiên.

(Lục Vân Tiên).



Mình dầu đồng bạn tác cùng quan,

Đừng hổ phận bần hàn cha mẹ.

(Phương Tu Đại Đạo).



BÀNG CỬ 旁 舉

Bàng Cử là hiệu của Nhạc Phi.

Nhạc Phi là một danh tướng đời Tống, sanh ở huyện Thang Âm, làm đến chức Ðại Nguyên Soái đời vua Cao Tông. Ông một lòng tận trung báo quốc, đem quân đi đánh thắng nước Liêu, bảo vệ bờ cõi, nhưng vua Cao Tông hôn ám, dùng kẻ gian thần là Tần Cối làm Tể Tướng, để Tần Cối gièm pha hãm hại giết chết Nhạc Phi.

Xem: Nhạc Phi.



Tam ưu Bàng Cử trắng đầu non,

Mua lấy chức quan đức phải mòn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BÀNG QUYÊN 龐 絹

Người nước Nguỵ đời Chiến Quốc, cùng Tôn Tẩn học một thầy là Quỷ Cốc Tiên Sinh, nhưng thua tài Tôn Tẩn, nên thường tìm cách hãm hại. Bàng Quyên làm quân sư cho Nguỵ Huệ Vương, cầm quân đánh đâu thắng đó nên sinh ra kiêu căng ngạo mạn.

Sau Tôn Tẩn giúp Tề, đem quân dụ Bàng Quyên tới Mã Lăng rồi cho phục binh bắn chết theo lời thề.

Xem Tôn Tẩn.



Cười người Tôn Tẩn không lừa,

Trước đà thẫy máy chẳng ngừa Bàng Quyên.

(Lục Vân Tiên).



BÀNG SINH 傍 生

Bàng: Một bên. Sinh: Chỉ sinh vật.

Bàng sinh là một sinh vật thuộc loài vật hạ đẳng hơn súc vật như cá cua, tôm, ốc…



Hoặc đọa địa ngục, Tu la,

Làm thân ngạ quỉ cùng là bàng sinh.

(Hứa Sử Tân Truyện).



BẢNG HỔ

Do chữ “Hổ bảng 虎 榜”.

Đời nhà Mãn Thanh nước Trung Hoa chỉ võ khoa là hổ bảng.

Ở Việt Nam, Long bảng (Trên bảng có vẽ rồng) đề tên những người đậu Tiến sĩ; Hổ bảng (Vẽ cọp) đề tên những người đậu Cử nhân; Mai bảng (Vẽ cây mai) đề tên những người đậu Tú tài.



Chẳng hay bảng hổ không danh,

Huyện quan cũng khỏi Nho sanh chê cười.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Trời xanh đâu phụ người văn học,

Bảng hổ đề danh mới sướng cho.

(Thơ Bùi Hữu Nghĩa).



BẢNG HÙM

Do chữ “Hổ bảng 虎 榜”, tức là bảng có vẽ hình con cọp, dùng để ghi tên những người thi đỗ cử nhân.

Bảng hùm ở nhà Thanh, Trung Hoa còn dùng để chỉ những người thi đậu về võ khoa.

Xem: Bảng hổ.



Đất bằng một tiếng sấm vang,

Bảng hùm tỏ phạm, tháp nhàn diễn Trương.

(Sơ Kính Tân Trang).



BẢNG MAI 榜 梅

Bảng mai hay mai bảng là bảng ghi tên những người thi đỗ trong kỳ thi Hội. Bởi vì thi Hội được tổ chức vào mùa xuân khi hoa mai nở lúc cuối tháng chạp, đầu tháng giêng Âm lịch.



Hội xuân đầu chiếm bảng mai,

Cám công đèn sách dùi mài bấy lâu.

(Lưu Nữ Tướng).

BẢNG NHÃN 榜 眼

Ngày xưa khoa thi Tiến sĩ có ba bực: Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa. Như vậy, Bảng nhãn là đỗ vào bậc thứ hai của khoa Đình thí, dưới bậc Trạng nguyên.



Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa,

Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Trước đền đứng lặng đầu ngao,

Dương Trân Bảng Nhãn, Bửu vào Thám hoa.

(Dương Từ Hà Mậu).



BẢNG RỒNG

Rồng là loài vật linh, thường dùng để chỉ nhà vua.

Bảng rồng là bảng dùng để ghi tên những người thi đỗ trong các khoa thi do nhà vua tổ chức.

Khen cho gái biết tìm chồng,

Đuốc hoa lại đợi bảng rồng mới toan.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Bảy mừng học sĩ quyết khoa,

Chuyên cần lập nghiệp tên ra bảng rồng.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BẢNG THU 榜 秋

Bảng niêm yết những người thi đỗ vào mùa thu. Ngày xưa thi hương thường tổ chức vào mùa thu.



Bảng thu sớm sớm đề tên,

Tiện đường sớm lại ruỗi liền hội xuân.

(Hoa Tiên Truyện).



BẢNG VÀNG

Do chữ “Kim bảng 金 榜”, tức là bảng có thếp vàng, đề tên những vị tân khoa đỗ Tiến sĩ trong thời khoa cử ngày xưa của Việt Nam.

Xem: Kim bảng.

Phước thừa muôn đội tông môn,

Bảng vàng may trộm chữ son tên đề.

(Truyện Phan Trần).



Xin vâng, nhưng hãy xin chờ,

Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa cũng vừa.

(Nhị Độ Mai).



Hai chàng đi tới Tấn bang,

Vào trường thi hội, bảng vàng đỗ cao.

(Dương Từ Hà Mậu).



Trời sao nỡ phụ tài lành,

Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.

(Lục Vân Tiên).



BẢNG VÀNG BIA ĐÁ

Bảng vàng do chữ “Kim bảng 金 榜”, tức là bảng có thếp vàng, để đề tên những sĩ tử được thi đỗ. Bia đá dùng để khắc tên những người thi đậu.

Bảng vàng bia đá chỉ những người thi đỗ trong chế độ khoa cử ngày xưa.

Tới năm mươi tuổi đã vừa,

Bảng vàng bia đá, quan đưa tận nhà.

(Huấn Nữ Ca).



BẢNG XUÂN

Do chữ “Xuân bảng 春 榜” tức là bảng chép tên những người thi đỗ Tiến sĩ của kỳ thi Hội, được tổ chức vào mùa xuân.



Bảng xuân nay đã dự mừng,

Muôn hồng nghìn tía tưng bừng đón ai.

(Truyện Phan Trần).



Giao rằng chiếm được bảng xuân,

Trở về rồi sẽ hôn nhân kết nguyền.

(Nữ Tú Tài).



Tình cờ chiếm được bảng xuân,

Ấy là phú quý đầy sân quế hoè.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BẠNG CÒ

Tức con trai và con cò, bởi câu “Bạng duật tương trì 蚌 鷸 相 持”, nghĩa là con trai và con cò níu kéo, giằng co nhau. Ý nói hai người tranh nhau, khiến người thứ ba được lợi.

Xem: Bạng duật.

Sẩy đàn tan nghé bơ vơ,

Bạng khoe sức bạng, khoe sức cò.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



BẠNG DUẬT 蚌 鷸

Như chữ “Bạng duật tương trì 蚌 鷸 相 持”, nghĩa là con trai và con cò níu kéo nhau.

Con trai há mồm phơi nắng, con cò mổ vào ruột trai, trai liền ngậm lại, kẹp mỏ cò. Hai đàng giằng co với nhau thì có ông câu được lợi, bắt cả trai lẫn cò.

Nho có câu: Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi tiếu hi hi 蚌 鷸 相 持, 漁 翁 得 利, 笑 嘻 嘻 (trai cò giằng co, ông câu bắt được cười ha hả).



Dằng dai bạng duật bao lâu,

Bóng ô hè giục sang thâu bấy chầy.

(Hoa Tiên Truyện).



Thế bạng duật đương còn đối mặt,

Thói đường lang sao khéo lắng tai.

(Hịch Tây Sơn).



BẠNG GIÀ SINH CHÂU

Bởi câu “Lão bạng sinh châu 老 蚌 生 珠”, tức là con trai già sinh ra ngọc, ý muốn nói người già sinh ra con quý, chỉ điềm tốt.



Thú vui nửa thú ngư hà,

Rùa linh đội sách, bạng già sinh châu.

(Tư Dung Vãn).



BÀNH TỔ 彭 祖

Bành Tổ là người đời Đường Nghiêu, họ Tiền tên Kiên, cháu của vua Xuyên Húc, được phong chức ở Bành Thành, nên người ta gọi ông là Bành Tổ.

Tương truyền Bành Tổ là người sống lâu, từ đời nhà Hạ đến nhà Ân, tính ra hơn 800 năm.

Làm chi nghiêng ngửa duỗi co,

Như ông Bành Tổ riêng lò hóa công.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Chòm rong lộp xộp râu Bành Tổ,

Kẹt đá gio gie nướu Tử Nha.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



BÀNH THÀNH 膨 城

Vào đời Xuân Thu, Bành Thành là một ấp của nước Tống. Sau nước Tần đặt thành huyện, nay là Từ Châu Thị, thuộc tỉnh Giang Tô.



Thiền cao chưa đủ đỡ muôn linh,

Như thuở Hạng Vương ở Bành Thành.

(Đạo Sử).



BÀNH TRẠCH 膨 澤

Tên một huyện thuộc tỉnh Giang Tây, nơi Đào Uyên Minh, đời nhà Tấn đã từng là Huyện lệnh ở đây.

Xem: Đào Tiềm.

Cuộc cờ chén rượu cung đàn,

Thơ ngâm Bành Trạch, tranh vờn Tiêu tương.

(Sơ Kính Tân Trang).



BÀNH VIỆT

Bành Việt tự là Trọng, người Xương Ấp, nay thuộc tỉnh Sơn Đông. Trước Bành Việt theo thờ Hạng Võ, sau về với Hán Cao Tổ, lập được nhiều công to. Khi đất nước được thống nhất, Bành Việt bị vua Hán Cao Tổ tru di tam tộc.



Thưa rằng: Bành Việt Lương Vương,

Xem dường dung mạo có phương hơn người.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



BAO BIẾM 褒 貶

Bao: Khen. Biếm: Chê.

Bao biếm là khen và chê.

Người đời sau nói về kinh Xuân Thu của Đức Khổng Tử như sau: Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt 一 字 之 褒, 榮 於 華 袞, 一 字 之 貶, 辱 於 斧 鉞, nghĩa là một chữ khen, thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn là tội bị rìu búa.

Hơn thua trối mặc đời bao biếm,

Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.

(Đạo Sử).



BAO CHỬNG 包 拯

Tên gọi là “Bao Công 包 公”, tự là Hy nhơn, người ở đất Hiệp Phì đời nhà Tống. Ông là người có tiếng xét án giỏi, vụ án dầu bí mật và bao lâu, ông đều xử ra manh mối.

Bao Chửng là người rất ngay thẳng, giữ gìn luật pháp rất nghiêm minh, nên những kẻ quyền quý hay hoạn quan đều rất nể sợ.

Bao Chửng làm đến chức Khu Mật Phó Sứ, từng xử nhiều vụ án ly kỳ được chép ở sách Bao Công Kỳ Án.



Ở đài các giữ lòng Bao Chửng,

Nhiệm Tướng Khanh thì thói Nguỵ Trưng.

(Quốc Âm Thi Tập).



BAO DUNG 包 容

Bao: Trùm lên. Dung: Tha thứ.

Bao dung là chỉ người có lòng độ lượng, hay tha thứ bảo bọc kẻ khác.



Lượng bao dung dầu quyết hẹp hòi,

Tư minh đạt có đâu lầm lỗi.

(Tần Cung Nữ).



BAO QUẢN

Bao là đâu, há không, thế nào. Quản là ngại.

Bao quản là chẳng ngại gì, há ngại sao, không nệ gì…Bao quản là tiếng dùng để chỉ tâm lý của người an phận, cam chịu khi gặp nghịch cảnh đòi hỏi hy sinh.

Thân lươn bao quản lấm đầu,

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!

(Truyện Kiều).



Phận bèo bao quản nước sa,

Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.

(Truyện Kiều).

Búa rìu bao quản thân tàn,

Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.

(Truyện Kiều).

BAO TỶ 褒 姒

Bao Tỷ hay Bao Tự là người phi sủng ái của Châu U Vương. Sau U Vương phế Thân Hoàng Hậu để lập Bao Tỷ làm chánh cung. Vì ham mê sắc đẹp của Bao Tỷ mà vua U Vương không thiết với chính sự đến nỗi sau phải mất nước. Xem: Bao Tự.



Trà mi kém sắc hơn hường,

Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BAO TÓC

Bởi chữ “Đối phu phong phát 對 夫 封 髮” tức là bao tóc đợi chồng.

Đường Thư chép: Ông Giả Trực Ngôn là một vị quan, vì có công việc mà phạm tội bị đày đi Lĩnh Nam, bèn từ biệt cùng vợ là bà Đổng Thị rằng: Sự sống chết không thể hẹn kỳ, nay tôi bị tội đày 20 năm, ra đi không biết sống chết thế nào, nàng ở lại nên tái giá để nương tựa tấm thân! Vợ khóc mà không đáp lại, chỉ lấy dây buộc tóc, bao ngoài bằng vải lụa, nhờ Trực Ngôn viết lên rằng: Phi quân thủ bất giải 非 君 手 不 解, có nghĩa là chẳng phải tay chàng, không mở.

Sau đó, Trực Ngôn bị đi đày, Hai mươi năm sau mới được trở về, chữ và lụa trên đầu vợ còn rành rạnh, đến khi đem nước nóng gội tóc, tóc rụng tất cả. Thật là “trinh tiết” đáng khen!

Người đời sau khen rằng: Đổng Thị đối phu phong phát, trinh tiết kham khoa 董 氏 對 夫 封 髮, 貞 節 堪 誇, nghĩa là bà Đổng Thị đối chồng bao tóc, trinh tiết thật đáng khen.

Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên,

Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.

(Kinh Thế Đạo).



Thiếp cam bao tóc thờ chàng,

Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!

(Kinh Thế Đạo).



BAO TỰ 褒 姒

Bao Tự hay Bao Tỷ là một người con gái đẹp đời Chiến Quốc, do Bao Hồng Đức xuất vải lụa mua để tiến vào cung cho Châu U Vương đặng xin tội cho cha là Bao Quýnh.

Bao Tự vào cung được vua U Vương sủng ái, phế Thân Hoàng hậu và Thái Tử Nghi Cửu để lập Bao Tự làm Chánh cung Hoàng hậu và con là Bá Phục làm Thái Tử. Bao Tự có gương mặt rất đẹp, nhưng luôn luôn buồn ủ dột, không khi nào có một nụ cười. Biết nàng thích nghe tiếng lụa xé, U Vương truyền xuất cả trăm cây lụa trong kho để xé cho Bao Tự nghe. Nghe qua mặt nàng chỉ tươi một chút mà không cười.

Tại Ly Sơn thời ấy có đắp một cái đài gọi là Phong Hoả Đài, khi nào Kinh thành có loạn thì đốt lửa trên ấy để báo cho các chư hầu biết mà đem binh về cứu viện. Để làm vừa lòng U Vương, Quách Thạch Phủ bèn dâng kế cho đốt lửa Phong Hoả Đài, đánh lừa chư hầu mà làm trò cười cho Bao Tự.

Vua U Vương nghe theo, truyền đốt Phong Hoả Đài, lửa bốc lên cao, chư hầu vội vàng kéo quân đến nườm nượp. Khi tới nơi thấy không có giặc giả, chỉ có U Vương và Chánh hậu bày tiệc uống rượu, chư hầu xẻn lẻn cuốn cờ xếp giáo, kéo nhau ai về xứ nấy. Chừng đó Bao Tự thích chí đứng dựa lan can mà cười ngất.

Sau đó, Thân hầu keo binh đánh kinh đô, U Vương truyền đốt Phong Hoả Đài, nhưng chư hầu sợ bị lừa lần nữa, nên không ai đem binh tiếp cứu. Kết quả, Châu U Vương và Bao Tự đều bị giết chết.



Ly Sơn cười một phút,

Bao Tự kia lầm hết chư hầu.

Vị Thuỷ đòi phen,

Dương Phi nọ độc hòa thiên hạ.

(Cung Trung Bảo Huấn).



Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi,

Tôi yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng.

(Nhị Hồ, Thơ Xuân Diệu).



BÁO ÁC 報 惡

Báo ác tức là làm điều ác đức, hung dữ sẽ gặp phải việc chẳng lành.



Tích Hiền có câu: Thiện hữu thiện báo, Ác hữu ác báo. Nhược hoàn bất báo, Thời thần vị đáo 善 有 善 報, 惡 有 惡 報. 若 還 不 報, 時 辰 未 到, nghĩa là lành có lành báo, dữ có dữ báo. Nếu như chưa thấy báo, thì do thời giờ chưa đến mà thôi.

Ở hiền thì lại gặp lành,

Ở ác báo ác rành rành chẳng sai.

(Ca dao).



BÁO ÂN CHÂU 報 恩 珠

Theo sách Tam Tần Ký chép: Ngày xưa, có người câu cá ở hồ Côn Minh, giật lên đứt nhợ, lưỡi câu còn nằm nơi miệng cá.

Cá thoát chết, bèn cho vua Hán Văn Đế nằm mộng, nhờ vua đến hồ lấy giúp lưỡi câu trong miệng. Hôm sau, vua ra chơi ở hồ quả nhiên thấy một con cá lớn còn vướng sợi nhợ. Vua bắt cá, gỡ giúp lưỡi câu ở miệng, rồi thả đi.

Một ngày kia, vua chơi bên hồ nhặt được hai hạt minh châu lớn, đẹp. Vua cho rằng: Đó là cá báo ơn.



BÁO ÂN DĨ OÁN 報 恩 以 怨

Lấy oán báo ơn.

Thói thường, người ta thường lấy điều phước đức đền đáp lại với người có ơn nghĩa với mình, đó là: “Dĩ đức báo ân” 以 德 報 恩.

Nhưng ở đây, lại có những người đem điều thù hằn, oán hận để trả lại điều ơn nghĩa mà người ta đã giúp mình.



Chẳng nhớ câu “Dĩ đức hành nhân”,

Lại lấy chữ “Báo ân dĩ oán”.

(Lục Súc Tranh Công).




tải về 15.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   134




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương