Thiên Chúa và Trần Thế Hồng y Joseph Ratzinger Đgh bênêđictô XVI bản dịch của Phạm Hồng Lam



tải về 1.72 Mb.
trang13/22
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.72 Mb.
#3938
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   22

HOANG ĐỊA

Lời dạy của Đức Giê-su Ki-tô được các tông đồ gọi là “đường mới”. Con đường mới này khởi đầu từ lúc Đức Giê-su nhận phép rửa nơi hoang địa. Đó có thể nói là trạm cuối cùng trước khi Ngài bước ra công khai để tiến về khổ nạn. 40 ngày trong hoang địa – đây cũng lại là một biểu tượng?

Con số 40 thật ra là một biểu tượng quan trọng. Cả tiên tri Ê-li-a, chẳng hạn, cũng cần 40 ngày để tới núi thánh. Quãng thời gian đó luôn được dùng để nói về thời gian học hỏi, chuẩn bị, trưởng thành. Thời gian sa mạc là nguyên ảnh của Is-ra-en, qua đó dân này nhận ra được luật lệ và í muốn của Thiên Chúa, để nhờ đó chuẩn bị trở thành dân cưu mang những lời hứa của Ngài.

Với 40 ngày hoang địa, Đức Giê-su một lần nữa nhắc lại 40 năm sa mạc của Is-ra-en. Có thể nói một lần nữa Ngài đi qua toàn bộ con đường lịch sử, để cũng nói cho ta hay, nếu ta không có thời gian để từ bỏ, để yên lặng, để bước ra và để gom góp sứ mạng lớn, thì ta không thể trưởng thành được. Ngài dùng nơi hoang địa thanh vắng để ăn chay và cầu nguyện. Một mặt, hình ảnh biểu tượng đó nói lên cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, mặt khác, nó cũng nói lên nỗi hiểm nguy của trần thế. Đó là nơi không có sự sống, không có thức ăn, nơi cô đơn. Như thế, Ngài cũng bước qua toàn bộ sa mạc của nguy nan, của thất bại, của từ bỏ, sa mạc của đói khát. Ngài đồng thời mặc lấy những cám dỗ của nhân loại, khổ đau với họ, để từ đó đưa ra những lời, những sứ điệp cao cả.

Sau 40 ngày ăn chay Ngài bị quỷ cám dỗ. Thoạt tiên, Sa-tan muốn Ngài biến đá thành bánh mì. Tay Sa-tan này quả ngớ ngẩn!

Câu chuyện này nói lên những chương trình đối lập, những chước cám dỗ mà đấng cứu thế Giê-su phải trải qua trong ba năm rao giảng, và những cám dỗ liên tục trong lịch sử Giáo Hội. Một chỗ khác Đức Giê-su cũng đã nói: “Anh em đã đứng vững với thầy trong các cám dỗ của thầy”. Và Ngài nói với Phê-rô: “Này đây anh Sa-tan, hãy trao những cám dỗ đó cho thầy”. Cả đám đông năm ngàn người no nê cũng tạo cám dỗ cho Ngài, họ muốn tâng Ngài lên làm vua, nghĩa là làm ông chủ cung cấp thức ăn của uống cho họ. Đó là những thứ mà chúng ta sẽ luôn gặp dưới nhiều hình thức và luôn phải thắng vượt trên con đường theo Chúa và cả trong Giáo Hội.



Ngài muốn nói gì với điều đó?

Tôi muốn nói, chẳng hạn như nhu cầu phải cải tạo trật tự xã hội thế giới và tạo lập một nhà nước lý tưởng. Giáo Hội rất cần phải chung tay vào việc cải tạo xã hội, nhưng việc cứu độ con người đích thật phải đến từ trong, chứ không phải từ cơ cấu bên ngoài. Và cho dù trong mọi thời Giáo Hội phải quan tâm tới nỗi đói khát của con người, và phải tìm mọi cách để có những bàn tay tăng gia của ăn cho họ, Giáo Hội vẫn luôn phải nhớ rằng, mình không phải là một tổ chức xã hội, chỉ biết quan tâm tới vật chất, coi đó là việc giải thoát con người đích thực. Không. Giáo Hội không được quên rằng, con người không chỉ sống bằng bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa.

Hai cám dỗ khác cũng thế. Quỷ thách thức, bảo Đức Giê-su nhảy từ nóc đền thờ xuống, để xem Ngài có phải là Chúa thật không. Và cuối cùng là chước cám dỗ ghê gớm về quyền lực, làm chủ cả thiên hạ: “Hãy cầu tôi, tôi sẽ cho làm chủ thế giới”. Điều này muốn nói, việc cai trị thế giới qua quyền lực, dù là với mục đích thật lý tưởng, mà không tìm Chúa, thì việc cai trị kia sẽ làm hư con người.

Đã có nhiều cuộc thí nghiệm trong lịch sử, trong đó con người chối từ Chúa, và tìm cách tự mình và bằng qua những cơ cấu quyền lực tạo ra cho mình những thứ họ cần. Tất cả những thí nghiệm đó đưa tới đâu, đã rõ. Chúng luôn là tấm gương cho Giáo Hội và cho mỗi người: Ở đâu con người chối Chúa, ở đâu ta muốn tự mình thiết lập thế giới mà chẳng cần Chúa, ở đâu ta cho rằng thoả mãn nhu cầu vật chất mới là lối giải quyết đích thực, ở đó ta chẳng giải quyết được gì hết, mà trái lại ta phá hoại, ta thực hiện công trình của Sa-tan.



Sau kinh nghiệm ở hoang địa, các môn đệ đầu tiên tới với Đức Giê-su. Họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Và Ngài trả lời thật ngắn gọn: “Tới mà xem”.

Vâng, cùng thử làm với nhau là điều cần thiết. Đức Giê-su không ở một nơi cố định. Ngài ở trên đường, ở trong những bước đi trước. Chỉ khi ta theo Ngài, cùng Ngài lên đường, lúc đó ta mới học biết Ngài ở đâu. Và rồi ta cũng sẽ thấy Ngài. Nếu chỉ muốn hiểu Ngài và lời Ngài qua lí thuyết và suy luận, ta sẽ chẳng biết được Ngài.



Những môn đồ đầu tiên, mà Đức Giê-su muốn biến họ thành “ngư phủ câu người”, là An-rê và Gio-an, sau đó tới Phê-rô, em An-rê. Điều lạ, quây quần quanh Ngài không phải những kẻ học thức, mà là những người ngay thẳng, đơn sơ. Họ không phải là những người đặc biệt khôn ngoan, không đặc biệt can đảm và tỉnh táo, và nếu không có hỗ trợ của Thánh Thần họ cũng chẳng biết giảng ra sao. Họ luôn vấp ngã bởi hồ nghi và không tin. Phải chăng Đức Giê-su không biết chọn người?

Tất nhiên, đó không phải là những hạng người tự sức và trí mình mà đã có thể châm ngòi được một cuộc truyền giáo thế giới như thế. Nếu họ, như thánh Chrysostomos nói, đã “thẩy được hạt xúc xắc lớn xuống”, thì đó là nhờ một nguồn lực nào khác. Vì thế, đối với tôi, xem ra việc chọn những người tầm thường, không phải những nhà chính trị hay trí thức, mang nhiều ý nghĩa. Rõ ràng, không phải tự sức họ. Họ được một đấng lớn hơn chạm tới, nâng đi và vạch đường chỉ lối.

Tuy nhiên, trong xã hội nhiều giai tầng thời đó, ta cũng có thể có được một cách xếp loại nào đó về các tông đồ. Một số trong họ là những tay chống Rô-ma cực đoan, như Si-mon thuộc phái Ze-lot chẳng hạn. Zelot là đảng muốn dùng bạo lực để giải phóng đất nước. Cả Giu-đa Is-ka-ri-ot cũng thuộc vào một đảng cùng khuynh hướng, tên gọi của ông nói lên điều đó. Đó là những người, nói theo ngôn ngữ ngày nay, thuộc phía cực tả. Họ sẵn sàng võ trang đấu tranh và họ cũng mong Đức Giê-su làm theo họ. Mặt khác, ta có Lê-vi, cán bộ thâu thuế, dân nhà giàu, là kẻ đi với quyền lực, hợp tác với thực dân.

Nghĩa là có đồng cân lực lượng.

Có thể nói, khi triệu tập vòng tông đồ, Đức Giê-su đã làm một cuộc hoà hợp. Mọi người từ mọi phía, từ mọi quan điểm có thể tới với Ngài hoặc bỏ Ngài. Như thế, trong nhóm môn đệ đó hẳn có thể có nhiều xung khắc.

Mặt khác, như anh nói, các tông đồ là những người đứng tuổi. Phê-rô có một hợp tác xã lưới cá, ông là một doanh nhân nhỏ. Đó là những người đứng trong thực tế cuộc sống, họ có cảm quan về cái thực tại, nhưng không ngụp lặn trong chủ nghĩa thực dụng. Họ có một ước vọng cao hơn. Họ không rơi vào một thứ mê hoặc nào đó, nhưng đã hết sức phục vụ ơn gọi của mình. Họ là tấm gương để ta hiểu rằng, Chúa dùng người tầm thường để làm những việc mà chỉ có Ngài mới làm được mà thôi, và cũng để ta hiểu rằng, có sự lớn lao trong những con người tầm thường.

Khác hẳn với các tông đồ theo Chúa xưa, con người ngày nay nghĩ rằng, họ có thể hoàn toàn tự mình vạch ra lối đi, đường sống cho mình. Họ cho rằng, chẳng có một bản sắc rõ rệt nào nữa cả. Cuộc sống là một chuỗi đổi thay ảo tưởng liên tục, tuỳ vào công việc đang có, tuỳ vào hoàn cảnh trước mắt - hoặc vào sở thích mỗi người. Họ bảo, trong thế giới tân tiến ngày nay chẳng còn sự lựa chọn : hoặc cái này hoặc cái kia, mà thay vào đó, ta có một khả năng lựa chọn mới: chẳng cái này mà cũng chẳng cái kia.

Ngày nay, uyển chuyển đã trở thành một từ quan trọng nền tảng. Chúng ta muốn có thể thích ứng được với các thách đố mới, và hi vọng nhờ việc thay đổi nghề nghiệp liên tục cũng sẽ leo thang xã hội một cách thật dễ, thật nhanh. Nhưng tôi nghĩ, trước sau vẫn có những nghề đòi hỏi con người rất nhiều. Chẳng hạn nghề thầy thuốc hay nghề giáo dục, đó không phải là những nghề giai đoạn, mà là ơn gọi, chúng đòi hỏi suốt cả cuộc đời mình. Nghĩa là, ngày nay cũng có những công việc không phải là việc làm phụ trội để kiếm thêm tiền sống. Tiêu chuẩn quyết định trong các ơn gọi thật sự cũng không phải là thu nhập, nhưng là thi hành một công tác phục vụ trong nhân loại.



Đức Giê-su có thể sẽ nói thế nào về điểm này?

Ngài sẽ chẳng cấm ai muốn uyển chuyển thích ứng với các thách đố. Chính các tông đồ của Ngài cũng đã phải uyển chuyển bước ra khỏi cuộc đời chài lưới để cùng đi vào một con đường vô định và đầy bí ẩn – và cuối cùng đã thoát ra khỏi đạo Do-thái mà mình đã trầm mình trong đó, để dám bước ra rao truyền cho dân ngoại.

Đồng thời các ngài đã phải bền đỗ và trung thành trong sự chọn lựa nền tảng của mình. Vì vậy, ta không nên đặt uyển chuyển đối lập với trung thành. Ngay trung thành cũng phải chứng tỏ được sự bền đỗ của nó trong những hoàn cảnh đổi thay. Một người, sau năm mươi năm làm linh mục hay sống cuộc đời hôn nhân, hẳn phải trải qua một cuộc đời đầy biến đổi. Người đó phải trưởng thành trong mọi biến đổi và đưa bản sắc mình tới hoàn thiện.

Tiếc thay, trong hoàn cảnh tân tiến ngày nay, thường chỉ còn thay đổi vì thay đổi, uyển chuyển vì uyển chuyển mà thôi. Tôi chống lại quan điểm này. Chính hôm nay là lúc ta cần trung thành với một sứ mạng, với một nghề; chính hôm nay là lúc ta cần những người quên mình hoàn toàn. Ta hãy quay trở lại chuyện viện trợ phát triển. Cần có những người sẵn sàng bỏ ra hai, ba năm đi giúp kẻ khác, nhưng ta cũng cần có thật nhiều người biết quên mình. Có những ơn gọi đòi hỏi toàn thân con người.

Những mẫu sống mà tôi nói tới này không phải là chỉ dấu của sự thiếu sáng tạo hay đông cứng. Chính sự bền vững đó làm cho tâm hồn con người lớn rộng ra và trưởng thành lên, khiến cho đổi thay và liên tục tháp nhập vào nhau. Cái lớn đích thực nằm trong sự hoà quyện với nhau đó.

Về những mẫu sống ngài đã đề cập: Nhiều người nghĩ rằng đời họ như là một cuốn phim, tự họ có thể cắt xén, đạo diễn từng cảnh, từng đoạn. Thâm tâm họ tự bảo: Tại sao tôi lại phải đi vòng vòng, phải nỗ lực trong cuộc sống, phải tìm kiếm, phải tự hạn chế hay phải chịu đựng? Nghĩa là tại sao họ lại phải đi theo con đường khó khăn của các tông đồ đã đi với Đức Giê-su xưa. Một cuộc sống thật đơn giản dễ dãi có phải hơn không?

Chỉ có những ai lớn lên trong bàn tiệc cuộc đời dư đầy mới có được một cuộc sống dễ dãi như thế. Đó là một tưởng tượng của những kẻ có của, những kẻ không hiểu rằng, đối với đa số con người, cuộc sống là cả một nỗi thử thách cam go. Vì thế, tôi coi việc tự biên tự diễn trên là ích kỉ và nó làm hao mòn đi các ơn gọi.

Ai bảo rằng, mình đã có đủ mọi thứ, vì vậy họ chỉ việc lấy những thứ đã có ra để tự thiết kế cho đời mình, kẻ đó sẽ không cho được cái họ có thể cho. Con người sinh ra, không chỉ để tự thiết kế nên mình, mà còn phải chấp nhận thử thách trong cuộc sống. Chúng ta tất cả nói chung cùng đứng trong một lịch sử và phải cần đến nhau. Vì thế, con người không nên chỉ nghĩ mình muốn gì, nhưng nhất thiết hơn, nên tự hỏi : mình tốt cho ai, mình có thể giúp ích được gì. Có như thế, họ mới thấy dễ dãi, thoải mái và buông thả không phải là những phương cách làm thoả mãn đời mình, nhưng sự thoả mãn nằm nơi việc sẵn sàng chịu thử thách, nằm nơi con đường hẹp. Mọi thứ còn lại, một cách nào đó, đều là buồn chán. Chỉ ai “bị trui trong lửa”, chỉ ai nhận ra được tiếng gọi, ơn gọi, một lý tưởng cần đáp ứng nơi mình, chỉ ai chấp nhận một sứ mạng cho toàn thể, kẻ đó mới có cuộc sống tràn đầy. Như đã nói, chúng ta trở nên giàu có, khi biết cho đi, chứ không phải khi nhận vào hoặc khi bước đi trên con đường rộng.

QUYỀN VÀ CỦA

Đức Giê-su có nói về “Cai trị và phục vụ”. Ngài nói: “Anh chị em biết, nhà cai trị đàn áp dân mình và kẻ quyền lực lạm dụng quyền mình đối với người khác. Anh chị em không nên làm như thế, nhưng ai trong anh chị em muốn làm người lớn, thì hãy làm kẻ phục vụ, và ai trong anh chị em muốn làm kẻ cao nhất, thì hãy trở nên nô lệ cho anh chị em mình. Bởi vì Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và để hiến đời mình làm giá chuộc cho nhiều người”. Phục vụ và vâng lời là hai đặc điểm cơ bản trong lời dạy của Đức Ki-tô và trong đời sống Giáo Hội. Các ý niệmđó ngày nay chẳng còn phổ thông lắm. Có cái gì ẩn chứa đàng sau các ý niệmđó không?

Quả thật Tin Mừng đưa ra một chương trình đối lập với mốt sống tân tiến hiện tại. Nó đề ra một thứ lạc hậu lành mạnh, nhằm kéo chúng ta ra khỏi khuynh hướng cai trị và muốn chiếm đoạt. Và chính ai không thuộc vào hàng ngũ những kẻ quyền lực, người đó là kẻ may mắn, khi nhận ra được rằng, chính kẻ quyền lực sẽ không được phục vụ nơi bàn tiệc cuộc đời. Họ là kẻ may mắn, khi nhận thức được rằng, quyền và của mà mình nhận được là một sứ mạng, để qua đó mình trở nên kẻ phục vụ.

Tôi tin rằng, câu người cai trị nên trở thành kẻ phục vụ, và việc chính Đức Giê-su đã thực thi điều đó qua hành động của Ngài, là một cuộc cách mạng đúng nghĩa có khả năng làm đổi thay thế giới. Bao lâu người ta coi quyền và của tự chúng là cùng đích giá trị, thì quyền luôn cũng là quyền chống lại người khác, và của luôn cũng là của chỉ riêng mình.

Chính khi vị Vua vũ trụ tới và làm công việc của kẻ nô lệ là rửa chân cho kẻ khác – đây chỉ là một trong muôn vàn thí dụ của cả cuộc đời phục vụ của Ngài – lúc đó chúng ta có một hình ảnh hoàn toàn khác. Thiên Chúa đầy quyền lực đã không dẫm đạp ta, mà trái lại cúi xuống để nâng ta lên ngang tầm với Ngài. Thiên Chúa có thể trở nên bé nhỏ, đó là tất cả bí ẩn trong cái cao cả của Ngài. Ngài không bước xuống từ bệ cao, và cũng không an ngự nơi tầng trên. Với cử chỉ hạ mình đó, Ngài muốn thay đổi ý nghĩvề quyền lực và về cai trị nơi ta. Ngài chỉ ra, khi ta có thể sai khiến đám đông và có được mọi thứ mình muốn, lúc đó ta đang rơi vào nhỏ mọn – còn khi ta phục vụ kẻ khác, đó là lúc ta trở nên cao cả.



Một khiêu khích quái gỡ.

Chấp nhận điều đó là cả một cuộc cách mạng. Cách mạng này chẳng bao giờ đơn giản chỉ bằng hành động mà thôi, mà nó luôn đòi hỏi một cuộc trở về nội tâm – nhưng đây là cuộc trở về lành mạnh và quan trọng nhất trong mọi cuộc trở về. Chỉ khi nào quyền lực được thay đổi từ trong, chỉ khi nào ta thay đổi từ trong thái độ của ta đối với của cải, và khi ta chấp nhận lối sống suốt đời rửa chân của Đức Giê-su, thì lúc đó thế giới mới trở nên lành mạnh, và con người mới có thể sống hạnh phúc bên nhau.



Một tuyên ngôn.

Đức Giê-su là khuôn hình mà con người cần đi theo, là đích điểm mà chúng ta phải đạt tới.

38 năm sau khi Goethe mất, diễn ra một cuộc họp lớn giữa các cụ già trong lòng đại thánh đường thánh Phê-rô ở Rô-ma, và họ đã đi tới một quyết định – quyết định tán đồng với Mephisto [nhân vật trong ở FAUST của Goethe]. Công đồng Vaticano I tuyên bố vào ngày 24.04. 1870: “Mẹ Giáo Hội thánh này xác quyết và dạy rằng, Thiên Chúa, nguồn cội và mục tiêu của mọi sự, có thể nhận biết được bằng ánh sáng tự nhiên của lí trí được tạo thành của con người.”

Một quyết định đầy bí ẩn. Phải chăng Công đồng đã đề cao lí trí quá đáng? Phía Tin lành phản đối ngay. Họ bảo, chỉ có mạc khải, lời Chúa, Kinh Thánh và đức tin – chứ không phải chút ánh sáng leo lét của lí trí con người – mới là đường dẫn tới Thiên Chúa. Karl Barth, có lẽ là nhà thần học tin lành lớn nhất trong thế kỷ 20, về sau cho hay, chỉ vì hậu quả của tuyên bố đó mà ông không thể nào trở thành công giáo được. Nhưng Công đồng vẫn khẳng định: “Ai bảo rằng, ánh sáng tự nhiên của lí trí được tạo dựng của con người không thể nhận biết được Thiên Chúa độc nhất và chân thật, Người là hoá công và Chúa của chúng ta, kẻ đó sẽ mang lấy vạ tuyệt thông.”

Trích từ: Thiên Chúa. một chút lịch sử Đấng vĩ đại nhất (Câu trả lời Kitô giáo cho vô thần). Tác giả : Manfred Lütz. Dịch giả: Phạm Hồng Lam

11. SỰ THẬT

Là trưởng Bộ giáo lýđức tin, ngài là người cao nhất trong Giáo Hội có nhiệm vụ bảo vệ chân lí đức tin. Người ta có luôn biết chắc được cái này là chân lí hoặc cái kia là phản chân lí không ?

Mỗi cá nhân luôn biết mình có thể sai lầm. Nhưng không thể có cảnh ki-tô hữu có đức tin lại phải lần mò trong bóng tối, chẳng biết mình thật sự tin gì. Nếu thế, thì rồi dần dà sẽ chẳng còn ai biết mình tin gì nữa, và mỗi người cứ tự do đi tìm cái mình muốn. Nếu ta chẳng còn cái gì chung và chẳng còn một bản sắc khả giác nào nữa, nếu đức tin mất hết sắc cạnh, thì Ki-tô giáo trên thực tế chẳng còn gì nữa để mà biện minh. Và lúc đó mình phải chấp nhận sập tiệm, và chẳng còn biết mình muốn gì nữa.

Là người công giáo, ta có thể nói rằng – những người khác cũng có thể nói theo cách của họ - ngay từ đầu, các tông đồ đã truyền cho ta một bản sắc đức tin, và nội dung đó đã được viết ra. Trong chương 6 thư gởi giáo đoàn Rô-ma thánh Phao-lô đã nói : « Qua phép rửa, anh chị em đã được đưa vào một loại giáo lý». Nói cách khác : Ngay thánh Phao-lô đã nhìn ra [qua nghi thức phép rửa] nội dung bản sắc đức tin Ki-tô giáo, trong đó tóm gọn những gì ta nhận được từ Đức Ki-tô - và cả từ toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Những công thức đức tin này, theo Phao-lô, làm nền và định nghĩa cho phép rửa; từ những lời Kinh Thánh, chúng đã rất sớm biến thành chính lời tuyên xưng đức tin, và sau đó trở thành qui điều đức tin, những điểm này đều thực sự bắt nguồn từ các tông đồ. 

Đó là bản sắc đức tin của ta ?

Đúng. Dĩ nhiên từ thế kỷnày qua thế kỷkhác, đức tin đó đã dần được phát triển và làm cho chính xác thêm, nhưng không phải vì vậy mà nó thành ra vô định. Vì thế, phải chống lại các tư tưởng cào bằng, phải chống lại các quan điểm cho rằng đức tin không cụ thể. Đức tin có nội dung. Và vì nội dung này có thể diễn tả được, nên nó cũng có những ranh giới. Ta có thể biết, bắt đầu từ lúc nào thì một người nào đó rõ ràng hết còn là ki-tô hữu. Và khi một người không còn và không thể là ki-tô hữu nữa, người đó nên có can đảm tuyên bố : Tôi không thể sống với bản sắc đó nữa, không thể nhìn nhận đó là chân lí nữa, và tôi xin thôi. Còn thứ sương mờ, trong đó mọi thứ bị thoái hoá thành mớ thói quen nhập nhằng, thì chẳng có lợi cho ai cả.



Phương châm giám mục của ngài là « Thợ của chân lí ». Vì đâu ngài chọn câu này ?

Tôi là một người mê đọc Kinh Thánh, và không hiểu sao ngay từ đầu câu này trong lá thư thứ ba của thánh Gio-an đã làm tôi mê say. Thoạt tiên, ý nghĩa của nó khá hạn chế. Tôi hiểu thế này, ai đón nhận sứ giả của Tin Mừng, kẻ đó trở thành người thợ của chân lí. Và khi đón nhận sứ giả, chính người đó đã vào làm việc trong vườn này rồi.

Phải nói, trong mấy chục năm dạy học, khủng hoảng về yêu sách chân lí đã lay động tôi rất mạnh. Tôi lo không biết phải hành xử thế nào với ý niệmchân lí của Ki-tô giáo, một phần cũng vì ngại bị coi là thiếu tôn trọng đối với các tôn giáo khác. Vấn đề là ta được phép sử dụng ý niệmđó đến mức độ nào ?

Tôi đã ưu tư rất nhiều về câu hỏi đó. Cuối cùng, tôi suy ra, là nếu mình không đề cập tới vấn đề chân lí nữa, thì cũng có nghĩa là mình đi ra khỏi nền tảng mọi vấn đề. Bởi vì Ki-tô giáo không giống như các tôn giáo khác, đặc điểm đức tin của nó ngay từ đầu không ưu tiên dựa trên các kĩ thuật luyện tập và quan sát như nơi nhiều tôn giáo khác, các tôn giáo này chủ yếu dựa vào việc tuân giữ một số nghi thức nào đó.

Ki-tô giáo xuất hiện, là để nói cho chúng ta hay điều gì đó về Thiên Chúa và trần gian, và cả về chính chúng ta – nghĩa là về cái gì là thật và cái gì trao ban cho ta sự sáng. Vì thế, tôi đi tới nhận thức là trong thời đại khủng hoảng này, một thời đại đạt được nhiều chân lí trong khoa học tự nhiên, nhưng đồng thời lại đẩy các vấn nạn nhân sinh vào vòng chủ quan, chuyện đi tìm chân lí, và cả việc can đảm tuyên xưng nó, lại càng trở nên khẩn thiết. Vì thế, câu tôi chọn nói lên phần nào trách nhiệm của một linh mục và một nhà thần học, họ cần cố gắng, trong khiêm tốn và trong nhận thức về khả năng hữu hạn của mình, trở nên những người thợ của chân lí.

CON THIÊN CHÚA

Trên đường rao giảng từ vùng này qua xóm khác, có lần Đức Giê-su bỗng hỏi các môn đệ: „Người ta bảo Con Người là ai?“ Họ trả lời: „Có người bảo Thầy là Gio-an tẩy giả, có người bảo là Ê-li-a, Giê-rê-mi-a hay một tiên tri nào khác“. „Còn anh em bảo Thầy là ai?“ Phê-rô trả lời: „Thầy là người được xức dầu, Con của Thiên Chúa hằng sống“.  Đức Giê-su khoan khoái bảo: „Phúc cho anh, này Phê-rô con nhà Si-mon Ba-gio-na; vì không phải xác thịt hay máu huyết, nhưng là Cha thầy trên trời đã tỏ cho anh biết điều đó“.

Trong câu chuyện này có một điểm khác biệt rõ ràng và quan trọng: Thiên hạ bảo Ngài là ai – và anh em bảo Thầy là ai? Đức Giê-su ám chỉ có hai cách nhận ra Ngài. Những người có lẽ một lần nào đó đã thấy được phép lạ hay đã nghe Ngài giảng, thường cho rằng Ngài là một vĩ nhân trong lịch sử tôn giáo.

Điều này ngày nay vẫn đúng. Người ta muốn xếp Ngài vào một loại nhân vật nổi tiếng nào đó. Chẳng hạn triết gia Karl Jaspers[3] bảo Ngài là một trong những vị dẫn đường cho thiên hạ; kẻ khác lại bảo Ngài là một trong những tiên tri lớn hay là một vị giáo tổ. Đức Giê-su nói đó là nhận thức của những kẻ chỉ biết Ngài qua trung gian người khác. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Có nghĩa là những kẻ biết Ngài từ trong tâm hồn bảo Ngài là ai?

Theo Lu-ca, cảnh trên có liên quan với chuyện cầu nguyện của Đức Giê-su. Qua đó, Lu-ca cho thấy rõ : những ai biết nét đặc thù của Ngài, biết Ngài từ đáy sâu tâm hồn, và biết Ngài qua trao đổi giữa Ngài với Cha Ngài, những người đó mới thực sự biết Ngài. Có như thế, họ mới bước được ra khỏi khuôn mẫu thường tình, và khám phá ra đặc tính duy nhất và có một không hai của khuôn mặt kia: đó là đấng được xức dầu của Chúa, là Con của Thiên Chúa hằng sống. Cảnh này được ba thánh sử trình bày cách khác nhau, nhưng đó chính là mốc khởi đầu của đức tin Ki-tô giáo. Có thể nói, Phê-rô là người xướng đầu lời tuyên tín đó, và vì vậy ngài cũng được giao một trọng trách đặc biệt.



Các bậc thầy của Hội thánh nói về Đức Giê-su: „Thiên Chúa từ Thiên Chúa, ánh sáng từ ánh sáng, Thiên Chúa thật từ Thiên Chúa thật, đồng một bản thể với Cha“.

Có so sánh ba Tin Mừng, ta mới thấy được sự lớn lên từ từ của lời tuyên tín, và thấy được việc nó cắm rễ theo tiến trình kinh nghiệm của các môn đồ và của đức tin. Thoạt tiên, ta đọc được nơi Mác-cô: „Thầy là người được xức dầu“; rồi ở Lu-ca: „người được xức dầu của Thiên Chúa“; rồi tới Mát-thêu: „người được xức dầu, Con của Thiên Chúa hằng sống“.

Điều đó muốn nói lên gì? Nó từ từ cho thấy Đức Giê-su không chỉ là một người được xức dầu, như vị mà dân Do-thái đang trông chờ, nhưng trong Ngài hai điểm trông chờ đã qui vào làm một. Một đàng, người ta trông chờ một Đa-vít mới hay một Mai-sen mới, là vị vua tối cao, vị ra luật lớn, là bạn và là người môi giới của Chúa, như Đa-vít và Mai-sen xưa đã làm. Đàng khác, người ta trông đợi chính Thiên Chúa sẽ hành động và đưa tay ra nắm lấy vận mệnh của thế giới. Hai nỗi chờ mong trên đã nhập vào nhau trong Đức Ki-tô. Ngài là một con người, nhưng chính Chúa đã bước vào trong con người đó.

Mệnh đề „Con Thiên Chúa, ánh sáng từ ánh sáng, Thiên Chúa thật từ Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành“, là kết quả của tất cả những gặp gỡ với Đức Giê-su, bắt đầu từ bài giảng ở Ga-li-lê, qua sứ điệp của Ngài, qua phiên toà của người Do-thái, trong đó Ngài trả lời câu hỏi có phải mình thật là Thiên Chúa không, qua thập giá cho tới qua những cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh. Ngay các vị đầu lãnh Do-thái cũng đã ngửi được việc Ngài tự xưng mình là Chúa là một điều gì vượt quá con người, nên họ cho đó – có lẽ họ phải cho đó - là phạm thượng. Và như vậy thì họ đã hiểu Ngài đúng. Đức Giê-su cũng đã bảo là họ nói đúng. Ngài bảo, vâng, tôi là kẻ đúng như các ông nói!



BA NGÔI

Nước Ái-nhĩ-lan (Irland) dùng chiếc lá có ba khía làm biểu tượng cho quốc gia, bởi vì ngày xưa thánh Patrick[4] dùng lá đó để cắt nghĩa về Chúa ba ngôi. Đối với một người thường, hay ít nhất không phải là dân Ái-nhĩ-lan, thì điều này quả khó hiểu: Cha, Con và rồi thêm một Thánh Thần nữa – ba vị, nhưng lại vẫn là một bản thể. Và chuyện lại càng rắc rối hơn đối với các thánh. Hoạ sĩ Pinturicchio có một bức hoạ, trên đó ông vẽ một giám mục ngồi bên bờ biển, giơ hai tay lên trời như vẻ thắc mắc, mắt như nhìn vào quãng không. Tên bức hình: „Thánh An-tịnh ngồi bên bờ biển suy tư về mầu nhiệm ba ngôi“. Có phải giáo lýba ngôi chỉ là kết quả của một phỏng đoán về Thiên Chúa?

Tôi muốn dừng lại một lát nơi thánh An-tịnh. Trên huy hiệu của tôi có in hình vỏ sò nói lên câu chuyện bên bờ biển của ngài. Tôi làm thế, để nói lên khuynh hướng muốn theo gương An-tịnh của tôi. 

Thánh An-tịnh đã viết cuốn sách dày về ba ngôi, đó là cả một cuộc vật lộn tri thức, nhưng cuối cùng chính ngài cũng phải nhận rằng mình thất bại. Từ cuộc vật lộn đó, nẩy sinh truyền tụng về chuyện ngài gặp một chú bé bên bờ biển đang lấy tay moi một cái lỗ trên cát, và cầm vỏ sò múc nước biển đổ vào lỗ. Nhìn thấy cảnh đó, ngài chợt nghĩ: Làm sao đổ hết nước biển vào lỗ đó được, làm sao trí tuệ hạn hữu của mình lại có thể hiểu được hết bí mật của Thiên Chúa. Tôi tin rằng câu chuyện trên là một diễn tả rất đúng về sự hữu hạn của ta. Đại dương làm sao đổ vào được trí tuệ vỏ sò của ta, cho dù trí tuệ đó được căng lớn ra. Ta không thể hiểu được tất cả những gì khác của Thiên chúa.

Không phải chỉ người thường, mà cả bậc thông minh xuất chúng, cũng không thể hiểu được bí ẩn này: Thiên Chúa thật ra là một, nhưng Ngài lại ở trong ba người, Ngài hiện hữu trong tương quan tình yêu tay ba này, chuyện quả thật không thể giải nổi. Điểm quan trọng cần nhớ, là Ki-tô giáo vững tin vào hai điều này: Thiên Chúa là đấng duy nhất và là một hợp nhất tối cao. Nhưng rồi sự hợp nhất tối cao này không còn là hợp nhất của những cái bất khả phân, nhưng là sự hợp nhất được hình thành qua đối thoại tình yêu. Thiên Chúa, đấng duy nhất, đồng thời cũng là một tương quan với chính Ngài, và vì vậy Ngài cũng có thể tạo ra tương quan. Một cách nào đó, chúng ta thấy đây là điểm hợp lí, mặc dầu ta không lí giải được.



Như vậy giáo lýba ngôi từ đâu mà có?

Qua sự tiếp cận với Đức Ki-tô. Qua sự kiện Ngài gọi Thiên Chúa là Cha và tự xưng mình là Con - Đức Ki-tô không tự xưng mình là „một Con Thiên Chúa“ –, qua việc Ngài tỏ ra mình với Thiên Chúa là một.

Từ hệ quả đó nẩy ra nhiều câu hỏi: Như vậy nghĩa là thế nào? Phải chăng Đức Ki-tô là một Thiên Chúa? Có hai Thiên Chúa? Đức Kitô là một ai hoàn toàn khác? Phải chăng Ngài đã tự nâng mình cao quá lẽ? Những điều Ngài nói có thật là chân lí không? Cứ như thế. Nhưng có một điểm mốc giúp ta hiểu được điều trên là cuộc đối thoại giữa Ngài với Cha Ngài, và từ cuộc đối thoại đó, có thêm yêu sách của Ngài đối với người nghe. Nhờ đó, một đàng ta nhận ra sự bình đẳng, tính hợp nhất và bản tính thiên chúa trong sự duy nhất của Thiên Chúa, đàng khác ta cũng nhận ra được sự khác biệt, sự phân biệt.

Thêm nữa, chính Đức Ki-tô còn nói đến tinh thần của Cha, mà đồng thời cũng là tinh thần của Ngài. Đã có hai vị là Cha và Con rồi, giờ thêm một vị nữa, Thánh Thần, quả lại càng thêm khó hiểu. Đức Ki-tô là một nhân vật ta có thể khả giác được. Thánh Thần có thể nói hiện hữu như là một tác động, chứ như là một người thì quả khó hiểu đối với ta. Vì thế mà đã có những tranh luận dài dài về bản tính người của Ngài. Nhưng nếu Đức Ki-tô nói về Tinh (Thánh) thần như là một trạng sư, một vị an ủi (Parakleten) mà Ngài ban tặng cho ta, thì như vậy rõ ràng Ngài và Tinh thần đó cùng thuộc vào một cấp ngang nhau, và như vậy rõ ràng bản chất tương quan trong Thiên Chúa này được thể hiện qua ba ngôi vị : Cha - Con - Thánh Thần.

Thần học đã luôn tìm cách diễn tả một cách ấn tượng sự phù hợp nội tâm đó, với lí luận rằng, chỉ có ba ngôi vị mới tạo ra được tương quan đầy đủ nhất. Ở đây, các nhà thần học đã cho ta một phương tiện suy tư nền tảng, để giúp trí óc ao tù của ta có thể mường tượng được chút gì về đại dương bao la. Như vậy, điều quan trọng là giáo lýba ngôi không phải do ai nghĩ ra, mà đó là kết quả của kinh nghiệm. Nó hình thành từ việc gặp gỡ lời nói và việc làm của Đức Ki-tô, và đã được diễn tả ra dần dần qua quá trình suy tư và lòng tin vào những lời nói và việc làm đó. Ở đây, ta cũng nên nhớ, là nghi thức rửa tội khởi đầu bằng câu: Tôi rửa … nhân danh Cha, Con và Thánh Thần. Công thức này khởi đi từ sứ mạng của chính Đấng Phục Sinh. Cho dù ta chưa nắm được chiều sâu của câu này, nhưng nó ngay từ đầu đã ấn dấu lên cấu trúc của việc cầu nguyện và của đức tin Ki-tô giáo.

Tại sao Bạn không cướp nhà băng, nếu Bạn biết chắc sẽ không bị bắt? Do đâu Bạn tin chắc rằng, rồi đây trên giường bệnh Bạn sẽ không bị người ta chích thuốc cho chết? Có thể trường hợp bệnh lí rắc rối của Bạn sẽ tạo ra quá nhiều tốn kém và khó nhọc cho việc chữa trị và chăm sóc, và vì thế xã hội sẽ không lo xuể. Tại sao người ta không vứt xác chết vào bãi rác và dẹp nghĩa trang đi để xây nhà trẻ? Do đâu Bạn biết chồng Bạn trung thành? Do đâu Bạn biết bào thai vợ đang mang là con của Bạn? Và đây là câu hỏi nghiêm chỉnh: Cái gì minh chứng cho sự hiện hữu hay không hiện hữu của Thiên Chúa? Là vì “nếu không có Thiên Chúa, thì mọi chuyện đều được phép làm” (Dostoiewski, Anh em nhà Karamazov). Hay không phải vậy?

Một cuốn sách viết về Thiên Chúa, muốn được con người thời nay nghiêm chỉnh đón nhận, phải nêu bật lên được những câu hỏi từ cuộc sống cụ thể, những câu hỏi mà bất cứ một anh, một chị, một em bé nào cũng phải đối diện. Bởi vì rõ ràng: Ai thật sự tin Chúa, người đó sống khác hơn kẻ không tin Chúa. Tuy vậy, con người vẫn chẳng bao giờ sống và nghĩ cho đến nơi đến chốn. Những người vô thần nướng thời giờ quý báu cho những suy tư vô lí, và họ sống đôi khi như là có Thiên Chúa thật. Còn kẻ tin vào Thiên Chúa thì sống hoang phí đa phần thời gian đời mình như là chẳng có Thiên Chúa. Nếu chúng ta tin rằng, mỗi thời khắc cuộc sống qua đi sẽ không bao giờ trở lại, thì cuộc sống của cả hai hạng trên quả là bất hạnh. Người ta tiêu phí thời gian cuộc sống bất khả hồi cho một Thiên Chúa không hề có; hay hoàn toàn ngược lại, người ta đã để mất cơ hội sống mà lẽ ra phải dùng nó để chuẩn bị cho sự sống đời đời bên Chúa. (THIÊN CHÚA, Manfred Lutz, Dẫn Nhập)


Каталог: KHANG

tải về 1.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương