Thiên Chúa và Trần Thế Hồng y Joseph Ratzinger Đgh bênêđictô XVI bản dịch của Phạm Hồng Lam



tải về 1.72 Mb.
trang16/22
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.72 Mb.
#3938
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   22

TÍN ĐIỀU

Liên quan tới Maria, nhiều người tỏ ra chống đối và sợ hãi, cái sợ hãi nhiều khi khoác áo diễu cợt. Hãy nhìn lại vài tín điều để hiểu thêm Maria. Ta bắt đầu với tín điều khó hiểu, khiêu khích nhất, đó là tín điều đồng trinh, hình thành năm 553. Đó là một câu chuyện sinh học? Hay phải hiểu nó như thế nào?

Về chuyện anh chị em của Đức Giê-su, Tin Mừng cho biết Đức Ki-tô không có anh chị em ruột nào cả, và mẹ Maria cũng chẳng sinh ai thêm. Trái lại, Ngài có một tương quan đặc thù và duy nhất với mẹ Maria quá rõ, đến nỗi người ta chỉ có thể hiểu là anh chị em họ mà thôi, chứ không phải anh chị em ruột. Maria là của Giê-su mà thôi chứ không là của ai khác nữa.



Tại sao không?

Là bởi việc sinh ra này không do liên hệ với một người đàn ông, mà do chính sự can thiệp của Chúa. Ngày nay có người bảo: không, việc Chúa sinh ra không thể dính dáng tới sinh học được, vì đó là chuyện bất xứng đối với Thiên Chúa, và rồi gạt nó qua một bên. Quan niệm như thế là họ đang ngã theo thuyết Ma-ni-kê, chối bỏ nhân tính của Đức Ki-tô.Con người cũng là sinh học. Và khi ta không nhìn nhận mặt thân xác, mặt sinh học nơi con người, thì một cách nào đó, vật chất sẽ bị khinh miệt và bị đẩy ra ngoài, và rồi như thế rốt cuộc ta cũng sẽ coi việc nhập thể là chuyện giả tạo. Vì vậy tôi chống lại lối lập luận trên. Đây là một con người thật, toàn diện - Câu trả lời cho vấn nạn trên là đó. Thiên Chúa cũng đã nắm lấy sự sống – cả sự sống thể lí, sinh lí lẫn vật chất – và đặt để vào đó một dấu chỉ.Về sự kiện này, tôi cho rằng các giáo phụ đã tìm ra được một hình ảnh đẹp. Tiên tri Ê-sê-ki-en, chương 40, viễn kiến về một đền thờ mới, trong đó có một “cánh cửa phía đông” chỉ dành cho nhà vua bước vào mà thôi. Các giáo phụ coi đó là một biểu tượng. Trước hết các ngài xem đó là một đền thờ sống động: Giáo Hội sống động. Cánh cửa, qua đó không ai ngoài Đức Giê-su đi vào, nếu không phải là mẹ Maria thì còn ai hay cái gì vào đó? Vì thế, không thể kéo Mẹ, người sinh ra Thiên Chúa, xuống hạng tầm thường được. Ngài là cánh cửa dành riêng cho nhà vua. Và như vậy chính ngài trở thành cánh cửa thật của lịch sử, qua đó vị mà cả nhân loại trông đợi bước vào.



Nghĩa là trước sau vẫn là: Sinh con mà vẫn đồng trinh?

Vâng.


Tín điều vô nhiễm nguyên tội năm 1854 muốn nói lên điều gì ?

Hậu cảnh của tín điều đó là giáo huấn về tội tổ tông. Giáo huấn này dạy rằng, mỗi chúng ta thoạt tiên sinh ra từ một liên hệ tội lỗi – chúng ta gọi đó là “rối loạn tương quan” -, và do rối loạn này mà ngay từ đầu tương quan giữa ta với Chúa đã bị sứt mẻ. Trong quá trình phát triển giáo huấn đó dần dần đã nẩy ra một suy nghĩ trong thế giới Ki-tô giáo, là Maria không thể rơi vào tương quan sứt mẻ đó được, vì ngay từ đầu ngài là cánh cửa của Thiên Chúa, cánh cửa đã được đặc biệt tạo ra để Chúa bước vào.

Về điểm này, đã có một cuộc tranh cãi lớn trong thời trung cổ. Một bên là các tu sĩ đa-minh. Họ bảo rằng Maria là một con người bình thường như những người khác, nghĩa là ngài cũng mắc tội tổ tông. Phía bên kia là các tu sĩ phan-sinh, lí luận ngược lại. Tóm lại, qua cuộc tranh cãi dai dẳng đó, lần hồi một quan điểm đã kết tinh, bảo rằng sự lệ thuộc của Maria vào Đức Ki-tô mạnh hơn sự lệ thuộc của ngài vào Adam. Và quan điểm đó cũng bảo rằng Maria đã được Thiên Chúa chuẩn bị cho Đức Ki-tô từ trước rồi, và chính đó là đặc điểm của đời ngài. Vì Maria là nguồn của một khởi đầu mới, nên ngài không thể thuộc vào tương quan tội lỗi kia được: Tương quan giữa ngài và Chúa không bị sứt mẻ, ngay từ đầu ngài đã được Chúa bảo bọc một cách đặc biệt, Chúa đã “đoái xem” ngài (Magnificat) và đã để ngài hướng lên với Chúa.

Hơn nữa, vì Maria thuộc về Đức Ki-tô một cách đặc biệt, nên tương quan này đã đặt ngài hoàn toàn trong tình trạng đầy ơn phúc Thiên Chúa. Lời chào thoạt tiên xem ra đơn giản của thiên thần “Cô đầy ơn phước” như vậy có thể hiểu là ơn phước đó bao trùm cả cuộc đời của Maria. Đây rốt cuộc không hẳn đơn giản chỉ là một đặc ân của Maria, mà còn là một hi vọng cho tất cả chúng ta.

Vấn đề càng khiêu khích hơn: Mẹ hồn xác lên trời. Tín điều này muốn nói gì? Nó được hình thành khá trễ, vào năm 1950. Chuyện quái lạ, là ngay từ đầu, chúng ta chẳng thấy một vết tích gì về Maria được để lại, chẳng có mồ mà cũng chẳng còn hạnh tích nào.

Hẳn nhiên tìn điều này thật khó hiểu đối với tất cả chúng ta, bởi vì ta không mường tượng được trời là gì. Lại càng khó hiểu khi mường tượng cả một thân xác được đưa lên. Xem thế, tín điều này đặt ra cho trí óc ta một bài toán lớn, đó là phải hiểu trời và xác như thế nào, phải hiểu về chính con người và tương lai của nó ra sao…



Và cá nhân ngài đã giải bài toán đó như thế nào?

Tôi đã nhờ thần học về phép rửa của thánh Phao-lô để hiểu, khi thánh nhân nói: “Thiên Chúa đã cho ta sống lại với Đức Giê-su và cho ta cùng ngồi trên nước trời trong Đức Ki-tô Giê-su” (Ê-phê-sô 2,6). Có nghĩa là, khi lãnh phép rửa, tương lai của chúng ta đã được báo trước rồi.

Như vậy, tín điều chỉ nói lên điều này, là hệ quả của phép rửa : - được ở (“ngồi”) bên Chúa (Chúa là nước trời!)- đã ứng nghiệm đầy đủ nơi Maria. Phép rửa (cùng ngồi với Đức Ki-tô) đã đạt được đầy đủ hiệu năng cuả nó. Nơi chúng ta, việc cùng ngồi với Đức Ki-tô, việc được sống lại với Ngài còn bất cập, còn rất mong manh. Nhưng nơi Maria thì khác. Ngài không thiếu gì nữa. Ngài đã bước vào cộng đoàn toàn đầy với Đức Ki-tô. Và một khi ở trong cộng đoàn này thì ngài cũng có một cuộc sống thân xác mới, mà chúng ta không thể mường tượng được nó như thế nào.

Tóm lại, căn bản của tín điều là Maria đã hoàn toàn ở bên Chúa, hoàn toàn bên Đức Ki-tô, hoàn toàn là một “tín hữu ki-tô”.



Hơn một triệu tín hữu đòi Giáo Hội công giáo nâng Maria lên thành “đấng cùng cứu độ”. Yêu cầu đó sẽ được thoả mãn – hay đó là một lạc tín?

Không phải một, mà hiện có nhiều triệu người yêu cầu điều đó. Nhưng tôi tin đòi hỏi này sẽ không được đáp ứng trong tương lai gần. Câu trả lời của Bộ giáo lýđức tin: vai trò cùng cứu độ đó đã thể hiện khá rõ ràng trong các tước hiệu khác của mẹ Maria rồi, còn danh hiệu “đấng cùng cứu độ” đi quá xa Kinh Thánh và các giáo phụ, nên sẽ gây ra hiểu lầm.

Đâu là cái đúng trong đó? Đúng, là Đức Ki-tô không đứng ngoài hay bên cạnh chúng ta, mà Ngài cùng với chúng ta xây dựng một cộng đoàn mới và thiết thân. Những gì của Ngài là của ta và những gì của ta Ngài đều nhận vào mình, để trở thành của Ngài: Sự trao đổi lớn lao đó là nội dung của cứu độ, là sự mở toang cái tôi và bước vào cộng đoàn với Chúa. Vì Maria đã thể hiện Giáo Hội đích thực nơi mình, có thể nói ngài là Giáo Hội bằng xương thịt, nên sự “đồng cứu độ” đó đã được thể hiện một cách mẫu mực. Nhưng trên cái “đồng” đó ta không được quên cái “trước tiên” của Đức Ki-tô: Mọi sự đều đến từ Ngài, như đã được đề cập một cách đặc biệt trong thư gởi giáo đoàn Ê-phê-sô và Kô-lô-xê; và tất cả những gì nơi Maria đều cũng đến từ Đức Ki-tô.

Chữ “đấng cùng cứu độ” có thể sẽ làm lu mờ cái nguồn cội đó. Một ý hướng đúng được diễn tả bằng một từ ngữ sai. Chính trong vấn đề đức tin ta không được đứt đoạn với ngôn ngữ Kinh Thánh và của các giáo phụ; không được chế biến ngôn ngữ đó một cách tuỳ hứng.



CÁC PHÉP LẠ

Không ai trong Giáo Hội được tôn kính như Mẹ Thiên Chúa, với vô số nhà thờ, bàn thánh, với bao nhiêu bài hát, kinh cầu, lễ kính và cuộc hành hương. Hàng ngàn địa điểm hành hương đức Mẹ trở thành như một mạng lưới tế bào thần kinh toả khắp thế giới.

Và xem ra không ai làm nhiều phép lạ như Mẹ. Những nơi hiện ra treo đầy chứng tích và tài liệu về những biến cố không giải thích được. Bernard ở Clairveaux*, chẳng hạn, gán cho đức Mẹ một năng lực khó tin: “Cứ cầu Mẹ, và anh / chị chẳng bao giờ mất hi vọng”. Thưa Hồng Y, tất cả đều là phép lạ thật?

Không thể kiểm chứng được hết mọi biến cố. Thường đó là những chuyện xẩy ra lạ lùng, nhưng có lẽ không nên coi tất cả là phép lạ theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, tất cả những cái đó nói lên lòng tín thác đặc biệt của con người nơi Maria. Qua Mẹ, họ nhìn ra khuôn mặt của Chúa và Đức Ki-tô, và nhờ đó mà họ có thể hiểu được Thiên Chúa.

Những dữ kiện mà anh vừa kể, một lần nữa cho thấy là qua Mẹ, con người hiểu được một cách đặc biệt những bí ẩn của Con Chúa và của Thiên Chúa. Đó là lí do nói lên lòng tin sâu xa của con người đối với Mẹ.

Maria là cánh cửa mở đưa tới Thiên Chúa. Người ta có thể nói với Mẹ một cách thoải mái, có thể cầu khẩn ngài với ngôn ngữ và lòng tin con trẻ, những chuyện mà ta thường ngại làm trước mặt Đức Ki-tô. Đó là ngôn ngữ của trái tim. Ngôn ngữ đó, hiện diện ở khắp các địa điểm hành hương, càng cho thấy việc Mẹ đã đánh động sâu xa trái tim con người như thế nào. Đó là thứ đức tin mà Đức Ki-tô bảo là có thể dời non chuyển núi.

Phải chăng các phép lạ thật đã xẩy ra? đó lại là một chuyện khác. Quan trọng là người ta có lòng tín thác sâu xa, và lòng tín thác đó cũng đã được đáp trả. Qua sự tín thác đó đức tin trở nên thật sống động, đến nỗi nó có thể thấm vào được trong cái vật lí, vào được trong cái hàng ngày, và qua đó ta nhận ra được bàn tay nhân lành của Chúa qua sức mạnh từ ái của Mẹ.

Lấy thí dụ Fatima: Ngày 13.05.2000 giáo chủ Gio-an Phao-lô II phong ba trẻ đã nhìn thấy Mẹ lên hàng chân phước. Chính ngài bảo, ngài thoát chết trong cuộc ám sát ngày 13.05.1981 là do ơn lạ của Mẹ. Và ngài còn nói, biến cố phép lạ đó đã ấn dấu sâu đậm lên toàn bộ nhiệm kì giáo chủ của ngài.



Việc gì đã xẩy ra? Gần giữa trưa ngày 13.05.1917 ba em chăn thú tại một miền quê hẻo lánh Bồ-đào-nha là Lucia (10) cùng hai anh em Jacinta (7) và Francisco (9) đã có một thị kiến lạ lùng. Các em kể, một lằn sáng chói chang xuất hiện trên gốc sồi đá chiếu toả vào “một bà tuyệt đẹp”. Bà ấy bảo “Các con đừng sợ”, và bà nói rằng, bà mang đến một sứ điệp hoà bình cho con người. Thoạt tiên câu chuyện đã là trò cười và diễu cợt cho mọi người. Nhưng vào ngày 13.10 năm đó có khoảng 70 ngàn người đã tuôn về để được chứng kiến tận mắt cảnh tượng.

Người ta kể, sự lạ xuất hiện vào khoảng giữa trưa. Trời bỗng dưng ngừng hẳn mưa. Màn mây xé ra và mặt trời bắt đầu xoay tít quanh nó như một bánh xe quay. Cây cối và con người bổng như chìm vào trong ánh sáng huyền diệu đó. Đám đông la thét, vì tưởng như sắp bị mặt trời sa xuống đè bẹp.

Chuyện gì thuần khoa học tự nhiên đã xẩy ra hoặc không xẩy ra ngày 13 tháng 10, ta không thể kiểm chứng. Quan trọng là con người đã bị đánh động bởi biến cố có một không hai lúc đó. Họ đã có thể cảm nhận có một chuyện gì xẩy ra. Và một cách nào đó, mặt trời đối với họ đã trở thành dấu chỉ ẩn chứa một bí mật nào đó.

Sách Khải-huyền nói về một bà bận áo mặt trời chân đạp mặt trăng. Thoạt tiên, điều đó muốn ám chỉ dân Thiên Chúa trong toàn bộ giao ước cũ và mới, nhưng nó cũng ám chỉ đặc biệt Maria. Áo mặt trời của bà ám chỉ Đức Ki-tô là ánh sáng thật cho thế gian. Hình ảnh đó như vậy nói lên sự gắn bó cội rễ với Đức Ki-tô. Mặt trăng – hình ảnh của sự chóng qua – bị bà dẫm dưới chân. Hình ảnh dẫm đạp đó một mặt nói lên chiều kích lớn lao có thể làm ta khiếp sợ, nhưng mặt khác cũng cho thấy đó là một sức mạnh ủi an. Và những ai tới Fatima, Lộ-đức hay Guadeloupe đều cảm thấy cái lớn lao cũng như lực ủi an và cứu độ đó.

Nói tới Fatima tất phải nói tới những “bí mật Fatima”. Đó là những sứ điệp mà ba em đã nhận được vào năm 1917. “Bí mật” thứ nhất cho thấy hoả ngục (Các con đã thấy hoả ngục, nơi những người tội lỗi đáng thương đang sa chân vào). Bí mật thứ hai tiên báo việc chấm dứt thế chiến thứ nhất, nhưng (“Nếu người ta cứ tiếp tục thoá mạ Thiên Chúa”) một cuộc chiến “khốc liệt hơn nữa” sẽ xẩy ra. Bí mật đó cũng báo trước về cuộc trở lại của Nga-sô. Nhưng chuyện này chỉ xẩy ra sau khi Gio-an Phao-lô II dâng nước Nga cho đức Mẹ; và một năm sau ngày dâng đó, Gorbachow đã mở ra chương trình tái tổ chức và bức màn sắt đã sập đổ sau đó mười năm.



Về bí mật thứ ba, đã có nhiều phỏng đoán từ nhiều chục năm nay, đặc biệt phỏng đoán về cuộc tận thế hay ít ra là một cuộc sụp đổ của Giáo Hội. Người ta bảo, bí mật này chỉ liên quan tới cá nhân giáo chủ Rô-ma mà thôi, nên không được công bố. Trong kì viếng Fatima lần thứ ba, chính Giáo chủ đã hé lộ cho thiên hạ biết về bí mật đó. Hồng Y Sodano đã được uỷ thác thông báo tóm tắt nội dung sứ điệp, ngài cho hay ba trẻ đã có thị kiến về “một giám mục mặc áo trắng” đã bị trúng đạn và ngã chết dưới đất”, và theo Hồng Y, sứ điệp này là một tiên đoán về vụ mưu sát giáo chủ Gio-an Phao-lô II.

Về cơ bản, sứ điệp Fatima không phức tạp lắm, mà trái lại. Ba trẻ đã diễn tả sứ điệp đó như vầy: “Ta là bà dịu hiền của chuỗi mân côi. Ta đến để con người được tốt hơn. Con người hãy chấm dứt việc thoá mạ Thiên Chúa”.

Trên thực tế, sứ điệp rất đơn giản. Và chị Lucia, người duy nhất còn sống (năm 2000), vẫn luôn coi trọng sự giản đơn đó, và chị nói, đừng để ý đến những chuyện gì khác mà người ta đã tường thuật, tất cả chung quy lại chỉ là đức tin, hi vọng và tình yêu. Tôi cũng đã được nói chuyện vắn tắt với chị. Chị nhấn mạnh với tôi là hãy kể tiếp chuyện này cho mọi người nghe.

Chị nói : Thoạt tiên thiên thần hiện ra với chúng con, các ngài dạy cho chúng con tin, cậy, mến; và nội dung của toàn bộ sứ điệp kia là chúng ta hãy học lấy những nhân đức đó. Đó là những gì Mẹ Thiên Chúa tập cho ta, và nhờ đó giúp ta tinh luyện và trở về với Chúa. Sám hối chính là sự thay đổi cuộc sống, là việc bước ra khỏi khuynh hướng thời thượng, một khuynh hướng đẩy ta rời xa Thiên Chúa và chỉ biết nghĩ tới mình mà thôi. Sám hối là quay về, là đi ra khỏi mình, là cho mình đi; cho mình đi tức là tình yêu, và rồi tình yêu đòi buộc phải có đức tin như là điều kiện, và tình yêu làm nẩy mầm hi vọng.

Tôi tin rằng, tất cả những cuộc hiện ra đó, nếu quả có thật, không phải là một cái gì bên lề Tin Mừng. Đó không phải là những thoả mãn cho tính hiếu kì và thích chuyện giật gân của ta, nhưng chúng đưa ta trở về với cái giản đơn và cơ bản, mà ta thường rất ít để ý đến. Chính ngày hôm nay, với bao phức tạp của cuộc sống, đạo của chúng ta lại thường trở nên quá rắc rối, khiến ta nhiều khi chỉ thấy cây mà chẳng còn nhận ra rừng. Vấn đề lúc này là quay trở về cái tâm điểm đơn giản, chẳng phải đi đâu khác, mà là trở về với tin, cậy và mến.

Bộ giáo lýđức tin đã tổ chức một cuộc họp báo ngày 26.06.2000 để trình bày với báo giới toàn bộ bản văn liên quan tới cái gọi là bí mật thứ ba của Fatima. Song song Bộ cũng ra một tài liệu bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có chụp lại bản văn viết tay của chị Lucia về bí mật trên, để người ta hết phải bàn tán về sự trung thực và đầy đủ của bản văn. Tài liệu trình bày cẩn thận diễn tiến các thị kiến, các trình thuật bằng văn bản của chị Lucia cũng như biên bản về bí mật thứ ba. Cả cái thông báo của Hồng Y Sodano cũng được in lại trong đó; chính tôi trong đó cũng có viết một bài thử phân tích các bản văn. Vì cuốn sách được phổ biến rộng rãi, nên tôi xin được tóm tắt đôi dòng về nội dung.

Thị kiến cho thấy con đường gian nan của một giám mục bận áo trắng (mà chính ba trẻ nhận ra là giáo chủ Rô-ma) đang khó nhọc leo lên một ngọn núi có dựng một cây thánh giá; con đường dẫn xuyên qua một thành phố nửa đổ nát. Các giám mục, linh mục, giáo dân và cuối cùng cả giáo chủ cũng bị giết. Nhưng máu của những nạn nhân đã được thiên thần hứng lấy, và máu đó đã làm cho thế giới sinh hoa kết quả. Ta có thể xem đó là hình ảnh biểu trưng cho Giáo Hội tử đạo trong thế kỷ20; giáo sư Riccardo (chủ tịch cộng đoàn Thánh Egidio) mới đây vừa cho ra một cuốn sách về các vị tử đạo dưới các chế độ độc tài trong thế kỷchúng ta, cuốn sách đã cụ thể hoá một cách hùng hồn những hình ảnh thị kiến. Đọc qua ba phần của bí mật, ta thấy rõ tâm điểm của sứ điệp là lời kêu gọi sám hối, đồng thời sứ điệp còn nói lên tính tự do của lịch sử, nghĩa là lịch sử không hoàn toàn bất biến theo tiền định, mà có thể thay đổi đường đi nhờ vào việc sám hối.

Toàn bộ bí mật là lời thảm thiết kêu gọi tự do con người hãy sửa mình, và nhờ đó sửa lại vận hội thế giới; nội dung bản văn cũng giống như sách Khải-huyền. Sự kiện Giáo chủ thoát chết có thể được hiểu như là một dấu chỉ cho thấy lịch sử có thể diễn tiến khác đi nhờ lời cầu nguyện.

Giờ hãy ghé viếng Lộ-đức. Điểm hành hương lớn nhất thế giới, còn lớn hơn cả Mec-ca nữa, nằm ẩn khuất trong dãy Pyrenée nước Pháp. Người ta bảo nơi đây từ tháng hai tới tháng bảy năm 1858 Mẹ đã hiện ra tất cả 18 lần với Bernadette, và càng ngày càng có đông người hơn được cùng cô gái xay bột chiêm ngưỡng sự biến hình của Mẹ. Bernadette thuật lại: “Bà bận áo trắng, đội khăn trắng, thắt giải khăn xanh và dưới chân có một bông hồng vàng”. Và theo lệnh Bà, Bernadette đã lấy tay moi đất và một mạch nước thiêng từ đó phun lên, hiện nay mỗi ngày phun tới 122 ngàn lít nước.

Nhà văn Do-thái Franz Werfel, khi còn nằm trong tù Quốc-xã, đã hứa nếu sống sót, sẽ viết về Bernadette, và ông đã thực hiện điều đó. Lúc này đây người ta chẳng còn nhắc gì tới Bernadette nữa. Trước khi mất, chị nói: “Hẳn quý vị cũng thấy là lịch sử của tôi rất đơn giản. Đức trinh nữ đã dùng đời tôi cho ngài. Xong việc thì người ta đẩy tôi vào một góc. Đó là chỗ của tôi, nơi tôi trú ngụ đầy hạnh phúc”.

Câu chuyện Lộ-đức, đối với cá nhân tôi, quả thật cảm động. Và cũng như nhiều người khác, nhờ cuốn sách của Werfel mà tôi hiểu được thêm sự kiện. Qua cuốn sách, tôi thấy tâm ông Werfel rất gần gũi với Bernadette. Vì muốn liên đới với dân tộc do-thái, ông đã không vào công giáo, nhưng dù vậy tâm ông đã cùng với Bernadette nhìn thấy đức Mẹ thật, đã tin và đã tín thác vào ngài.

Có lẽ ta chẳng phải dài dòng luận bàn về câu chuyện. Cô gái đơn sơ kia, chẳng có gì ngoài một tâm hồn tinh khiết lớn lao, đã có thể mang bộ mặt Mẹ Chúa Trời – cho dù ngay bước đầu đã gặp phải sự ngờ vực hữu lí của giáo quyền - vào một thế giới lạnh lùng và có xu hướng đông lạnh tinh thần trong thế kỷcủa chủ nghĩa duy lí này, một thứ duy lí thô lỗ và cả nhuốm màu chống giáo sĩ. Và với mạch nước ban sự sống và cứu độ ở Lộ-đức, Bernadette đồng thời đã minh chứng nơi Mẹ có lực cứu độ của tạo dựng, tạo dựng được Mẹ cho sống lại một cách mới.

Quả là một dấu chỉ đầy ý nghĩa, khi chính trong khung cảnh duy lí này mà một tâm hồn đơn sơ –đơn sơ nên mới có thể nhìn thấy - đã giúp con người tái nhận ra được Ki-tô giáo là một tôn giáo của tâm hồn và là một thực tại có lực cứu rỗi. Và vì vậy ở Lộ-đức con người thường dễ dàng nhìn ra được nét bí ẩn nơi Đức Ki-tô. Và đấy là một điểm khá tích cực. Mạch nước cứu độ ở Lộ-đức nhắc nhở con người về nước rửa tội, đây mới thật là nguồn nước mới Đức Ki-tô đã ban tặng cho ta.

LÒNG NHÂN ÁI

Tin Mừng viết: “Này anh chị em, có ích gì chăng, khi một người bảo, tôi có đức tin, nhưng lại không làm gì cả. Đức tin như thế có cứu người đó được không?” Mat-thêu ghi: vì công lí nước trời, Con Người sẽ mở một trương mục và có ngày cũng sẽ kết toán sổ sách. Vì “Cái gì ngươi đã làm cho người anh em bé mọn nhất, thì chính là ngươi đã làm cho ta”. Vì đức tin không có việc làm là đức tin chết, nên Giáo Hội đã đưa ra bảy mối thương người, gồm:
Cho kẻ đói ăn
Cho kẻ khát uống
Cho kẻ trần truồng áo mặc
Cho khách đỗ nhà
Chuộc người tù
Thăm người bệnh
Chôn kẻ chết

Câu đầu trích từ thư thánh Gia-cô-bê, thư mang nặng truyền thống ki-tô gốc Do-thái. Thánh Gia-cô-bê là giám mục thành Giê-ru-sa-lem. Trong lịch sử Giáo Hội, ngài là người đại biểu cho loại Ki-tô giáo chủ trương đức tin phải nhập thể vào đời sống, đức tin phải tạo nên hoa trái, phải thể hiện ra hành động.

Câu thứ hai là của chính Tin Mừng. Câu này mô tả dụ ngôn cuộc phán xét, trong đó Chúa tự đồng hoá với người thiếu thốn và nói: “Các ngươi gặp người thiếu thốn là gặp chính tôi”. Đây là một tư tưởng luôn đốt lên những ngọn lửa mới trong lịch sử Giáo Hội. Nhận ra Đức Ki-tô trong con người, nhất là khi ta đứng trước những người bị khinh bỉ, những người đau khổ, những kẻ nghèo. Trong dụ ngôn, chính Chúa rốt cuộc nói tới nhiều hình thức thương người: “Tôi trần truồng, ông đã cho tôi mặc; tôi đau, bà đã giúp đỡ; tôi bị tù, chị đã tới thăm…” Như thế Ngài đã vẽ ra những loại người thiếu thốn, họ đại biểu cho Chúa trong thế giới.

Ta hãy nhìn kĩ hơn vào một trong những mối kia: “Cho kẻ trần truồng áo mặc”. Với câu này, hẳn Chúa không ám chỉ việc quyên góp quần áo cũ?

Câu đó hẳn nhiên mang nghĩa bao quát hơn. Việc quyên góp đồ cũ, nếu làm với thiện tâm, cũng mang ít nhiều giá trị; cũng không nên khinh thường những việc nhỏ nhặt. Nhưng ở đây không chỉ có thế. Một mặt, nó đề cập tới điều thực tế. Là người, ta không chỉ yêu trên nguyên tắc và thỉnh thoảng gởi cho tí tiền, nhưng phải mở mắt ra để thấy chỗ nào người khác cần đến mình trong cuộc sống. Và ta sẽ thấy là điều này thường không dễ, chẳng thoải mái. Hãy nhớ lại câu chuyện ông linh mục và các thầy tư tế gặp người bị trấn lột trên đường. Họ đã không dừng lại, có lẽ vì sợ bị lỡ cái hẹn quan trọng, hay sợ bị nguy hiểm vì đoạn đường đó heo hút. Lí do thì lúc nào cũng có.Trái lại, dụ ngôn toà án của Đức Giê-su, cũng như các mối thương người, nói lên điều rất cụ thể: Không những ta phải thương người một cách chung chung, mà còn phải giúp đỡ cụ thể những kẻ thiếu thốn mình gặp, cả lúc không thuận tiện, không có giờ hay không sẵn phương tiện. Ta phải nghĩ đến từng trường hợp riêng lẻ, chứ không phải chỉ có những chiến dịch lớn mà thôi.

Đòi hỏi tình yêu nơi Ki-tô giáo và nơi cộng sản cũng khác nhau. Tình yêu cộng sản chỉ nhắm tới kế hoạch lớn, tới việc cải tổ cơ cấu và bỏ qua trường hợp cá thể. Dĩ nhiên cũng cần những kế hoạch lớn, nhưng không được bỏ qua việc bác ái cá nhân, là công tác rất quan trọng, và nhất là làm sao giúp cho những người đó có được những khả thể tốt hơn. Vì vậy trong Giáo Hội đã có những bệnh viện, những trường học cho người nghèo, và nhiều thứ khác nữa. Tắt lại, phải quan tâm tới cả hai: không bỏ sót người bên cạnh ta trong những chương trình lớn, cũng như phải làm sao thay đổi cơ cấu bất công và trợ giúp cụ thể cho những ai gọi là trần truồng cần áo mặc.

Bên cạnh bảy mối thương thân xác còn có bảy mối thương linh hồn:
Lấy lời lẽ mà khuyên kẻ hoài nghi
Mở dạy kẻ mê muội
Răn bảo kẻ có tội
Yên ủi kẻ âu lo
Tha thứ kẻ tạo bất công cho mình
Nhịn kẻ mất lòng ta
Cầu nguyện cho kẻ sống lẫn người đã qua đời.

Việc nhân ái không được đóng khung trong khía cạnh vật chất mà thôi, đó là điểm quan trọng. Nếu chỉ lo chuyện vật chất mà thôi thì thật quá ít. Vì vậy, trong viện trợ phát triển, càng ngày ta càng thấy rõ tầm quan trọng của việc giúp con người có được kiến thức và học vấn, để họ đủ khả năng tự giải quyết lấy chuyện của mình. Chỉ khi ta giúp cho trí tuệ, giúp cho con người toàn diện, lúc đó ta mới thực sự giúp. Vì thế, đưa Chúa đến cho con người lại càng là chuyện quan trọng. Giúp tạo nên những tiêu chuẩn luân lí quả là công tác nhân ái hàng đầu.



Thử lấy ra một mối: “Mở dạy kẻ mê muội”. Tôi nghĩ, ít khi người được dạy bảo coi đó là hành vi nhân ái.

Hãy nhìn vào thí dụ viện trợ phát triển ở châu Mĩ la-tinh. Ở đây, Giáo Hội cũng như các nhóm tả đều coi công tác chống mù chữ là yếu tố chính trong hoạt động của mình. Tại sao? Là vì bao lâu con người còn u minh, bấy lâu họ còn tiếp tục bị lệ thuộc. Họ không thể tự thân thoát ra được tình trạng có thể nói là nô lệ đó. Chỉ khi họ tiếp cận được với sản phẩm giáo dục, lúc đó họ mới có thể trở nên ngang hang, và lúc đó xã hội, đất nước họ mới thật sự phát triển. Và như vậy, việc dạy bảo kẻ u minh ở đây được người ta hiểu là phương cách giúp họ đi vào được thế giới trí tuệ, giúp họ có được chìa khoá để hiểu những gì đang chuyển động thế giới ngày nay.

Cũng vậy, nếu ta nhìn lại các phong trào trước đây ở Âu châu, như việc mở trường dạy học cho kẻ nghèo ở Pháp của Jean la Salle*, ta thấy người nghèo, mà bao nhiêu thế hệ đã bị kìm giữ trong lệ thuộc, đã có được vận hội học hành thật lớn. Học là chìa khoá nền tảng mở tung các cánh cửa trí tuệ, là công tác sơ đẳng của nhân ái tinh thần. Dĩ nhiên với điều kiện không chỉ dạy cho người ta biết đọc mà thôi, mà việc đọc này cũng đưa họ vào một liên hệ tinh thần có ý nghĩa, có nghĩa là không phải dạy cho họ một ý thứchệ, nhưng cũng là mở ra cho họ con đường dẫn tới đức tin.

CHUỖI MÂN CÔI (MAI KHÔI)

Giáo Hội đã đặt ra một lời kinh đặc biệt có liên quan trực tiếp với bí ẩn của đức Maria, đó là chuỗi mân côi. Đó là một thứ kinh cầu đọc theo chuỗi từng hạt một: bắt đầu với dấu thánh giá (giáo huấn đức tin); tiếp theo là kinh Kính mừng nói lên ba đức hạnh thiên chúa: tin, cậy, mến (giáo huấn sống); bộ chuỗi gồm ba sự vui, thương, mừng; mỗi sự suy gẫm về năm “bí mật” của đức Mẹ với Đức Giê-su, đây là những công thức tóm gọn toàn bộ nội dung Tân Ước.

Những nhà tư tưởng và thần bí lớn mọi thời đều trân trọng bộ chuỗi, coi đó là nguồn sức mạnh tinh thần và là cánh cửa mở ra bao nhiêu khả thể khác. Ngày nay, một đàng chuỗi được xem là một thứ gì lỗi thời khó chịu, đàng khác, nó được coi là một hứa hẹn thiêng liêng có thể nâng đỡ người ta trong cuộc sống thường nhật và giúp họ có được ý thứcsống tốt hơn. Tôi chưa có kinh nghiệm, nhưng có lẽ mình phải bỏ nhiều thì giờ tập làm quen, rồi mới dần nhận ra được khả năng suy niệm với nó, như các nhà sư Tây-tạng vẫn làm. Có lẽ phải lần hàng trăm, hàng trăm và hàng trăm chuỗi rồi mình mới ngộ ra được; và ngược lại, mình cũng bắt đầu phải tập hiểu mình hơn và nhận ra đâu là tâm điểm của con người mình. Theo Hồng Y, đâu là cái bí ẩn của bộ chuỗi?



Nguồn gốc lịch sử bộ chuỗi có từ thời trung cổ. Thời đó, kinh cầu hàng ngày là các Thánh Vịnh. Nhưng hầu hết dân thời đó mù chữ nên không thể đọc được Thánh Vịnh của Kinh Thánh. Vì vậy phải có một Thánh Vịnh thích hợp cho họ, và người ta đã gặp được kinh Kính mừng, trong đó chứa đựng những bí ẩn về cuộc đời Đức Giê-su Ki-tô, và người ta đã xếp lời kinh đó tiếp nhau như xâu chuỗi. Những lời kinh này, khi đọc đi lặp lại trong tinh thần suy niệm, có tác dụng làm con người an tâm, và càng bám vào lời kinh khi đọc, nhất là bám vào hình ảnh Mẹ và hình ảnh Đức Ki-tô trong đó, tâm hồn con người tìm được nỗi yên tĩnh và giải thoát và hướng được lòng lên cùng Chúa.

Trên thực tế, chuỗi mân côi nối ta vào cái hiểu biết và kinh nghiệm cội nguồn, đó là sự lặp đi lặp lại. Lặp đi lặp lại là một phần của cầu nguyện và suy niệm, và nó cũng là một thứ nhịp điệu đưa ta vào yên tĩnh, nghỉ ngơi. Không nhất thiết phải suy nghĩ từng chữ khi đọc, nhưng trái lại cứ thả hồn đi vào nhịp đều đều, đọc qua đối lại của lời kinh. Lại nữa, lời kinh cũng đâu phải là không có nghĩa. Nó làm hiện ra trước mắt và tâm ta những hình ảnh và viễn kiến lớn, nhất là hình ảnh của Maria, và qua Mẹ, là hình ảnh của Chúa Con.

Người dân thời đó phải làm lụng nặng nhọc, họ không thể vận dụng trí tuệ nhiều khi cầu nguyện. Trái lại, họ cần một lối cầu kinh giúp họ an tâm, và cũng giúp họ quên đi những âu lo, và mang lại an ủi và ơn lành cho họ. Tôi nghĩ, cái kinh nghiệm cội nguồn của lịch sử tôn giáo đó: kinh nghiệm về sự lặp đi lặp lại, về nhịp điệu và về lời kinh tiếng hát đọc chung này có tác dụng ủi an và giải thoát. Lời kinh đọc chung lan toả đầy không gian, nâng tôi lên, nó không làm cho tôi khó chịu, nhưng đưa tôi vào lắng đọng tâm hồn. Kinh nghiệm cội nguồn đó đã trở nên một thứ gì hoàn toàn Ki-tô giáo, khi, trong khung cảnh mẹ Maria và với hình ảnh Đức Ki-tô này, nó giúp con người cầu nguyện một cách thật đơn giản, nhưng dù vậy, lời kinh vẫn thấm được vào hồn – nó vượt lên trên vòng trí thức, vọng vào hồn và toát ra bằng lời.

Ngài có lối lần chuỗi nào khác lạ không?

Tôi lần cách rất đơn giản, giống i như cha mẹ tôi đã làm. Cha mẹ tôi rất thích lần chuỗi. Về già, ông bà lại càng thích lần hạt. Càng về già, người ta càng ít khả năng làm những chuyện trí óc lớn, càng cần một nơi trú ẩn tâm hồn, và nhất là càng muốn được hoà chung vào lời cầu của Giáo Hội. Và tôi đã cầu nguyện giống i như ông bà đã làm.



Nhưng cầu thế nào? Ngài đọc một hay cả ba chuỗi?

Không, ba chuỗi thì nhiều quá, tôi là người vọng động, nên dễ bị chia trí. Tôi chỉ đọc một, hoặc thường là hai hay ba chục thôi, vì rồi có thể lại làm một cái gì khác để khỏi chia trí, để được yên tĩnh, lấy lại tỉnh táo đầu óc. Vì thế, cả chuỗi thì nhiều quá.



Câu hỏi cuối của phần này: Phải cần bao nhiêu thời gian người ta mới có thể hiểu được đôi chút về những bí ẩn của đức tin, và cả về nghệ thuật tin?

Mỗi người mỗi khác. Có những người rất dễ lắng đọng tâm hồn. Có những kẻ khác khó hơn. Nhưng quan trọng là không được bỏ cuộc, phải kiên trì. Và rồi người ta từ từ sẽ thấy mình lớn lên trong đó.

Dĩ nhiên có những thời điểm thuận lợi, mà cũng có những lúc khô khan. Có những lúc mình thật dễ bị đánh động và bắt đầu thấy được đôi chút – nhưng rồi lại có những lúc rất khó khăn.

Điều quan trọng trong tiến trình lớn lên của tinh thần này, là không phải chỉ biết cầu nguyện và để tâm vào đức tin những khi mình muốn và cảm thấy thuận lợi mà thôi, nhưng phải giữ kỉ luật. Guardini đã luôn nhấn mạnh điểm này. Nếu chỉ biết cầu nguyện theo hứng thôi, thì đức tin có thể mất. Đức tin cũng cần kỉ luật trong thời hạn hán, có như thế nó mới âm thầm đâm rễ. Cũng giống như cây cỏ vẫn âm thầm tăng trưởng trong cánh đồng mùa đông. “Bánh mì mọc giữa mùa đông”, nhà văn nữ Ida Friedericke Görres đã nói như thế.



Và người ta nên bắt đầu cầu nguyện bằng gì? Bằng các câu hỏi?

Chẳng bao giờ nên chỉ bằng suy tư mà thôi. Bởi vì nếu ta nhìn Chúa qua ống nghiệm suy nghĩ và muốn hiểu Ngài bằng thuần lí thuyết, thì ta sẽ thất bại. Phải luôn liên kết câu hỏi với hành động. Pascal có lần nói với một người bạn không tin: Trước hết, hãy làm theo những gì người có đức tin làm, cho dù những cái đó xem ra vô lí đối với bạn.

Tôi nghĩ, ở điểm này mỗi người có cách riêng của mình. Lịch sử cho thấy, có nhiều người nhìn ra cánh cửa đức tin từ nơi Maria. Nhiều người khác đã thấy được điểm khởi đầu nơi Đức Ki-tô, qua việc đọc Tin Mừng. Tôi cho rằng, đọc Tin Mừng luôn luôn là một cách để bước vào niềm tin. Nhưng không phải đọc như kiểu mấy nhà sử đọc, họ chẻ bản văn ra để tìm xem câu này bắt nguồn từ đâu, í kia từ đâu, nhưng đọc trong tinh thần hướng về Đức Ki-tô, bằng cách luôn biết chuyển vào cầu nguyện khi đọc.

Tôi cho rằng có một tương quan qua lại trong các nhịp bước – đôi khi cũng là bước vấp ngã – giữa sống đạo thực hành và việc tìm kiếm trong suy tư. Đức tin không bao giờ đứng trơ trọi một mình, nhưng luôn đi tới với những người tin; những người này hiểu tôi, có thể họ cùng ở trong một hoàn cảnh với tôi, và nhờ thế một càch nào đó có thể giúp đỡ, dẫn dắt tôi. Đức tin luôn lớn lên trong cái chúng-ta. Ai chỉ muốn tin một mình, thì người đó đã bước sai ngay từ đầu.



14 THÁNH GIÁ

Thường người ta có thói quen trốn chạy đau khổ bằng mọi cách. Và không có gì gây bực tức cho xã hội mạnh hơn, là quan điểm Ki-tô giáo cho rằng phải chấp nhận, chịu đựng và ngay cả sẵn sàng đón nhận đau khổ, để nhờ đó thắng vượt nó. Giáo chủ Gio-an Phao-lô II tin rằng “đau khổ là một ẩn số của con người”. Tại sao?

Nhân loại ngày nay đang tìm cách đẩy đau khổ ra khỏi thế gian. Đối với từng cá nhân, điều đó có nghĩa là phải làm sao tránh bị đau khổ. Nhưng người ta cũng phải thấy rằng, như vậy thì thế giới sẽ hoá ra rất lạnh lẽo, rất khó sống. Đau khổ là một thành tố của kiếp người. Và ai thực sự muốn diệt đau khổ, người đó tất cũng phải huỷ tình yêu; không có đau khổ thì chẳng có tình yêu, bởi vì tình yêu luôn đòi hỏi từ bỏ một phần chính mình, bởi vì tình yêu, tuỳ theo tâm tính mỗi người và mức độ tình huống, cũng luôn kéo theo với nó sự từ bỏ và đau khổ.

Nếu ta biết con đường tình yêu – cuộc xuất hành, ra đi khỏi mình – là con đường thật để thành người, thì ta cũng hiểu rằng đau khổ là tiến trình trưởng thành. Ai sẵn sàng chấp nhận đau khổ, người đó trưởng thành hơn, hiểu người khác hơn, là người hơn. Ai trốn tránh đau khổ, kẻ đó không hiểu tha nhân, sẽ trở nên vị kỉ, tàn bạo.

Chính tình yêu là một cực hình, một chịu đựng. Thoạt tiên tôi cảm nghiệm được trong nó nỗi sung sướng, tôi kinh nghiệm được hạnh phúc thật. Mặt khác, đối lại, tôi cũng phải bước ra khỏi sự yên lành thoải mái của tôi, và phải chấp nhận mình thay hình đổi dạng. Nếu ta bảo, đau khổ là mặt trái của tình yêu, thì ta cũng hiểu được việc học đau khổ quan trọng là dường nào – và ngược lại, cũng hiểu được tại sao việc tránh đau khổ làm cho con người mất khả năng sống. Trường hợp này, đời ta chỉ còn là trống rỗng, rồi có thể chỉ còn lại bực tức, khước từ, hết còn trưởng thành, hết còn biết sẵn sàng chấp nhận.



Việc gì sẽ xẩy ra, nếu Đức Ki-tô không xuất hiện và không chết trên thánh giá? Không có Ngài thì thế gian đã ra tiêu tan từ lâu rồi phải không?

Điều đó không thể nói được. Nhưng ta có thể nói được, là nếu không có Ngài, con người không thể đến được với Thiên Chúa. Con người lúc đó chỉ còn biết tìm Ngài trong lần mò đứt đoạn. Và rốt cuộc họ chẳng còn biết Thiên Chúa là ai hay là gì nữa.

Dĩ nhiên, cũng có đôi chút ánh sáng thiên chúa loé lên trong các tôn giáo lớn, song đấy cũng chỉ là những đốm sáng rời rạc hay cũng chỉ là những câu hỏi. Vả, nếu như câu hỏi về Thiên Chúa không có câu trả lời, nếu con đường dẫn tới Ngài bị tắc nghẽn, nếu không có sự thứ tha – sự thứ tha do chính Thiên chúa uỷ quyền -, thì cuộc sống con người trở thành một cuộc thí nghiệm vô nghĩa. Như vậy là chính Chúa đã kéo mây đen ra khỏi một khoảnh bầu trời, Ngài thắp lên ánh sáng, rọi chiếu mở ra cho ta một con đường, con đường chân lí, con đường giúp ta sống, và đường đó chính là sự sống.

INRI – CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA KI-TÔ

Một người như Đức Giê-su hẳn đã khiến cho dư luận lưu tâm ghê gớm và đã khiêu khích mọi tập thể. Vị tiên tri ở Na-da-ret đó không chỉ được người đương thời hoan hô, mà còn bị nhạo báng và truy nã. Giới cầm quyền coi Ngài và giáo huấn của Ngài là mối nguy cho quyền lực họ, phía Pha-ri-sêu và và các thượng tế bắt đầu tìm cách giết Ngài. Rõ ràng cuộc khổ nạn đã là một phần của sứ điệp Ngài, bởi vì chính Đức Ki-tô đã cho các môn đồ biết trước về khổ nạn và cái chết đó. Ngài nói thế này vào ngày lễ vượt qua, trong hai ngày nữa “Con Người sẽ bị nộp và bị treo trên thánh giá”.

Đức Giê-su đã chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ, để họ hiểu rằng, đấng Thiên Sai sẽ không xuất hiện như một kẻ giải phóng, hay như một kẻ uy quyền vinh quang sẽ đưa Is-ra-el trở lại với quyền lực huy hoàng của thời xưa cũ. Ngài đã không tự gọi mình là Thiên Sai, nhưng là Con Người. Con đường của Ngài, trái lại, chỉ là con đường vô quyền và chấp nhận cái chết, bị nộp cho người ngoài đạo, như Ngài đã nói, và bị họ treo lên thánh giá. Ngài muốn các môn đệ phải hiểu Nước Chúa sẽ đi vào trần gian bằng con đường đó, chứ không bằng con đường nào khác.



Bức họa nổi tiếng của Leonardo da Vinci*, Bữa Tiệc Li, vẽ lại cảnh bữa ăn chia tay giữa Đức Giê-su và các tông đồ. Trong chiều tối hôm đó, Ngài đã làm cho các tông đồ ngỡ ngàng thất vọng, khi Ngài cho hay sẽ có sự phản trắc. Sau đó Ngài lập ra phép Thánh thể, phép mà từ đó tới nay đã gần hai ngàn năm vẫn được ki-tô hữu cử hành mỗi ngày.

Tin Mừng viết, “Trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh và đọc lời chúc tụng; rồi Ngài bẻ bánh, đưa cho các tông đồ và nói: Hãy cầm lấy mà ăn; đây là mình thầy. Rồi Ngài cầm chén rượu, dâng lời ca tụng, đưa cho các tông đồ và nói: “Hãy cầm lấy mà uống, đây là máu thày, máu của giao ước mới, sẽ đổ ra để anh em và nhiều người được tha tội. Hãy làm việc này để nhớ đến thày”. Có lẽ đây là những câu cho tới ngày nay được lặp đi lặp lại nhiều nhất trong lịch sử. Chúng xem ra như một công thức thánh.

Chúng là một công thức thánh. Nghĩa là những câu nói vượt ra hẳn ngoài mọi sự thường tình, mọi chờ đợi, mọi suy tính. Đó là những câu chứa đựng kho tàng vô giá và ý nghĩa thâm sâu. Muốn biết Đức Ki-tô, tốt nhất nên suy niệm những câu đó và cùng cử hành sự hiện diện của chúng, những lời đã trở thành bí tích. Phép Thánh thể là một tổng kết về Đức Ki-tô.

Ở đây, Đức Ki-tô lấy lại những sợi chỉ nền tảng của Cựu Ước. Một mặt, Ngài dựa vào việc lập Giao ước cũ ở núi Si-nai, và cho thấy rõ rằng, sự việc khởi đầu ở Si-nai giờ đây lại xẩy ra một cách mới: Giao ước mà Thiên Chúa đã lập với con người, giờ đây đã thật sự hoàn thành. Bữa tiệc li là biến cố thành lập Giao ước mới. Khi Ngài giao mình cho con người, lúc đó một cộng đoàn máu mủ giữa Thiên Chúa và con người thành hình.

Mặt khác, ở đây lời của tiên tri Jê-rê-mi-a tiên báo về việc lập Giao ước mới cũng được nhắc tới. Cả hai vòng cựu ước (lề luật và tiên tri) tan biến vào trong sự thống nhất này và đồng thời hình thành nên một hành vi bí tích. Trong đó thập giá đã được hé mở cho thấy trước. Bởi vì nếu như Đức Ki-tô cho đi thịt máu Ngài, cho đi chính Ngài, thì điều kiện đặt ra là Ngài phải cho thực sự. Như vậy thì những lời trên cũng là hành động nội tại của thập giá, hành động đó nói lên rằng, Chúa đã biến bạo lực bên ngoài đối với Ngài thành ra một hành động tự tặng mình cho nhân loại.

Và ở đây, có một điểm nữa cũng đã được nói ra trước, đó là phục sinh. Không thể cho người ta ăn thịt chết, thân xác chết. Chỉ vì Ngài sẽ phục sinh, nên thịt và máu của Ngài trở nên mới. Và không phải ăn uống kiểu con người, nhưng là sự kết hợp với Đấng Phục Sinh hằng sống.

Xem thế, chỉ trong mấy lời trên, ta thấy chứa đựng cả một tổng hợp lịch sử tôn giáo, một tổng hợp lịch sử đức tin của Is-ra-en cũng như chính cuộc sống và công trình của Đức Giê-su, và cuộc sống và công trình của Ngài này cuối cùng đã trở thành bí tích và hiện diện luôn mãi.



Các môn đệ cùng Ngài lên núi Cây dầu. Tại đây, Phê-rô khẳng định sẽ chẳng bao giờ phản bội thầy mình. Đức Giê-su muốn vào vườn Giệt-sê-ma-ni để cầu nguyện. Ngài bị cảm kích mạnh và bị cám dỗ tấn công. Buồn và sợ xâm chiếm Ngài. “Tâm hồn thầy lo buồn đến chết”, Ngài nói với hai môn đệ, “hãy ở lại và thức với thầy”. Hai môn đệ vừa bước khỏi mấy bước thì Ngài sấp mình xuống đất. Ngài cầu nguyện và có lẽ cũng khóc thầm. Hai môn đệ nghe tiếng Ngài “Cha ơi, nếu được thì xin cất chén này khỏi con. Nhưng không theo í con, mà tuỳ í Cha muốn”.

Đây là một trong những đoạn cảm động và gây xúc động nhất của Tân Ước. Bí ẩn về cơn lo sợ của Chúa Ki-tô luôn là nội dung mới mẻ để ta suy gẫm, cũng như các bậc thánh lớn đã hằng suy gẫm.

Ở đây, tôi thấy như có một cuộc vật lộn giữa tâm hồn con người và tâm hồn thiên chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Ngài thấy toàn bộ vực thẳm xấu xa và kinh hãi của kiếp người, mà Ngài phải mang trên mình và phải trải qua. Ngài thấy nỗi kinh hoàng của gánh nặng đang tới với Ngài. Không chỉ cái sợ của giờ phút bị hành hình mà thôi, mà đó là cuộc đối diện với toàn bộ kinh hoàng và vực thẳm của vận mạng con người mà Ngài gánh trên mình. Cảm nhận đó của Ngài vượt xa những gì ta có thể cảm nhận. Cả ta nữa cũng có thể khiếp hãi, lúc đứng trước nỗi kinh hoàng của lịch sử con người, lúc nhìn vào vực thẳm huỷ diệt con người khi họ chối từ Thiên Chúa.

Nhà thần học người Hi-lạp Maximus Confessor đã có một lối diễn tả biến cố cầu nguyện trên núi cây dầu thật đặc biệt. Ông bảo, đã có một “phản ứng hoá học về hiện hữu”. Nghĩa là, lúc đó í muốn của Đức Giê-su đã trở thành một với í muốn của Chúa Con, và như vậy làm một với í muốn của Chúa Cha. Toàn bộ sự đối kháng của bản tính con người chống lại sự chết và những gì khiếp hãi, đã toát lên trong lời cầu nguyện. Đức Giê-su phải thắng vượt bản tính đối kháng của con người chống lại Thiên Chúa. Ngài phải thắng vượt cơn cám dỗ làm trái ý Thiên Chúa. Ở đây, cơn cám dỗ đã đạt tới cao điểm, và rồi nó sẽ bị bẻ gẫy để đưa tới tiếng xin vâng. Cuối cùng, í Chúa và í người hoà tan vào nhau làm bật lên lời xin: “Nhưng đừng theo í con, mà theo í Cha”.



Các môn đệ xem ra mệt mỏi. Khi thầy trở lại, thì các ông đã ngủ. Đức Giê-su thất vọng: “Các anh không thể thức với thầy được một giờ sao”?

Vâng, Ngài thất vọng. Và ki-tô hữu mọi thời đều thấy câu nói của Đức Giê-su trong giây phút đó đã vang vọng vào dọc dài lịch sử Giáo Hội. Các môn đệ của Ngài luôn ngủ. Luôn luôn xẩy ra chuyện con cái Ngài ngủ, khi việc nhà Chúa đang ở trong tình thế nguy kịch. Ngài đưa họ tới gần Ngài, để họ chia sẻ bớt gánh nặng cô đơn của Ngài, nhưng rõ ràng đã chẳng ai cảm được nỗi kinh hoàng của giây phút đó.



Và Đức Ki-tô còn nói: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để đừng bị sa chước cám dỗ. Tâm trí thì sẵn sàng, nhưng xác thịt thì yếu đuối”.

Câu đó làm ta liên tưởng tới lời Chúa nói sau cơn hồng thuỷ: “Ta thấy chúng chỉ là xác thịt, yếu đuối, cần được tha thứ và thương xót”. Như vậy, cuối cùng, nỗi thất vọng của Ngài đã tan biến vào lòng thương xót.



Giu-đa dẫn theo một đám đông lính võ trang. Ông bước tới Đức Giê-su và hôn Ngài. Đó là mật hiệu. Quân lính vừa xấn tới Đức Giê-su thì Phê-rô bước ra, rút gươm và chém đứt tai một anh tay sai của thượng tế. Đức Giê-su chỉ Phê-rô nói: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì ai dùng gươm thì sẽ chết vì gươm”.

Phê-rô muốn minh chứng điều mình đã hứa là thật, ông sẵn sàng chết với Thầy. Dĩ nhiên Phê-rô rồi cũng phải hiểu ra rằng kiểu can đảm kia chẳng đi tới đâu cả, vì nó chẳng giải quyết được gì.

Nhưng đây là điều Đức Giê-su cũng muốn nói cho toàn bộ lịch sử. Ngài cảnh cáo: Việc nhà Chúa không thể bảo vệ được bằng gươm giáo, như người ta, tiếc thay, vẫn luôn cố làm. Ai muốn dùng bạo lực để bảo vệ Chúa, người đó chống lại Ngài.

Sau khi Thầy bị bắt, các môn đệ bỏ chạy hết, không sót một ai. Người ta dẫn Ngài tới thượng tế Cai-pha để tra khảo. Nhưng bản luận tội của Cai-pha thiếu thuyết phục, các lời chứng đều là chuyện bịa đặt. Cuối cùng họ đã tìm ra được một tội: Nhạo báng Thiên Chúa. Thượng tế ép Ngài: “Ngươi hãy thề trước Thiên Chúa hằng sống, có phải ngươi là Thiên Sai, là Con Thiên Chúa không”? Và Đức Giê-su đã thẳng thắn trả lời: “Đúng như điều ông nói”.

Là thầy cả thượng tế, Cai-pha có trách nhiệm về mặt đức tin cho cả Is-ra-en. Hẳn nhiên Cai-pha thật sự không muốn ra án tử cho Con Thiên Chúa. Ông biết Giê-su là người tin vào một Thiên Chúa duy nhất, đây là tâm điểm đức tin của giáo lýdo-thái giáo; cái tội của Giê-su, theo ông, là đã dám xưng mình là Con Thiên Chúa. Dĩ nhiên ông đã không nhìn ra được gì khác, vì đức tin nơi ông đã bị bó rọ trong công thức. Song ta cũng không nên phán xét ông một cách hời hợt, vì dù sao thì ông cũng phải hành động theo trách nhiệm tôn giáo của mình.



Cuộc khổ nạn bắt đầu. Các thầy luật và trưởng lão là những người đầu tiên nhổ vào mặt Đức Giê-su. Họ lấy khăn chụp vào đầu Ngài và vả Ngài: “Mày là Thiên Sai, là tiên tri, hãy nói cho chúng tao biết ai đánh mày?” Phê-rô lúc đó đang luẩn quẩn trong sân, ông bị nhận diện và đã chối Thầy. Nhưng khi ông nhận ra hành động mình, ông bỏ ra ngoài, bật khóc cay đắng. Cả Giu-đa cũng chẳng sung sướng gì về việc làm của mình, ông rất hối hận. Ông vứt tiền vào Đền thờ và tự tử.

Ở đây,ta thấy con người yếu đuối một cách thảm hại:Thoạt tiên Phê-rô chạy trốn, nhưng rồi quay lại để xem chuyện gì xẩy ra.Theo cái nhìn của ông, việc chối Thầy chỉ là một lời nói dối nhỏ nhặt, chẳng qua để khỏi bị nhận diện để được gần Thầy mà thôi.Nhưng dưới cái nhìn của Đức Giê-su, đó là một hành vi hèn nhát bỏ cuộc.

Cái thích thú đối với tôi là phản ứng khác nhau của hai kẻ có tội. Một người nhận ra con đường ăn năn và nhờ đó được đón nhận lại. Người đó sẵn sàng nhận thứ tha, không thất vọng, i đau khổ, quay ra ăn năn và trở về. Người kia quá hoảng hốt về việc phản bội của mình và chẳng còn tin vào sự tha thứ nữa.

Khác biệt là đó. Hai loại ăn năn, tự lên án mình. Người này không rơi vào hư vô, nhưng để mình được đón nhận trở lại. Người kia chẳng còn tin vào sự tha thứ, để mình tự hủy diệt và vì thế không còn chấp nhận con đường đổi mới đang mở ra.

Tôi tin đây là một bài học đầy ý nghĩa cho những ai bị vấp ngã, cho mọi thứ ý thứctội lỗi và mọi cách vượt thắng tội lỗi. Sự tự lên án quá đà và sai lầm, để cuối cùng dẫn đến việc chối bỏ mình hoàn toàn, không phải là phương cách đúng đắn để giải quyết tội lỗi mình.

Đức Giê-su bị lôi tới tổng trấn người Rô-ma tên là Pontius Pilatus. Pilatus nhạo Ngài: “Ông là vua dân Do-thái? Đức Giê-su trả lời: “Vâng, tôi là vua, nhưng vương quốc của tôi không ở trong thế giới này. Tôi được sinh ra để làm vua và có mặt trong thế gian này để làm chứng cho sự thật. Ai ở trong sự thật, kẻ đó nghe tiếng tôi”. Pilatus không thể hiểu được câu trả lời, nhưng hỏi lại Đức Giê-su một cách nghi hoặc: “Sự thật là gì”?

Thoạt tiên Đức Giê-su bị xét xử và kết án trước toà án do-thái. Nhưng không hiểu tại sao các thế lực do thái lại không thi hành bản án, mà lại chuyển sang toà án của chính quyền Rô-ma. Tại đây, người ta chẳng còn tố Ngài bổ báng Thiên Chúa nữa, mà kết tội Ngài là một tay chính trị muốn lật đổ nền cai trị của Rô-ma, nghĩa là từ án tôn giáo biến thành án chính trị. Pilatus có lẽ chẳng thích thú gì về việc luận tội này.

Bản án không vững, và ông quan toà Rô-ma này là một người vô liêm sĩ, lúc đầu ông chẳng thú vị gì làm anh đao phủ cho người Do-thái. Hình ảnh Pilatus này xem ra thật tân thời. Khi Đức Giê-su nói về chân lí, câu trả lời của ông đúng là của một kẻ hoài nghi chính hiệu: Như thế là sự thật ư? Vậy thì tay này quả đúng là người gàn, hắn ta quả quyết mình là chứng nhân cho sự thật và sẵn sàng chết cho sự thật đó.

Ông toàn quyền Rô-ma tuyên bố với đám đông, ông thấy Giê-su không có tội gì. Nhưng theo thói quen tha tội nhân vào những dịp lễ lớn, ông để cho họ chọn giữa Giê-su và tay bạo hành Barabas. Đám đông nhao lên: “Tha Barabas!” “Còn Giê-su?” “Đóng đinh vào thập giá”! Pilatus trao vật tế cho đám đông, nhưng rửa tay trước mặt họ để nói lên sự vô tội của mình.

Đoạn này cũng cho ta một bài học về đám đông. Trong đám đông có lẽ cũng có những người trước đó vô hại, những người đã mến và hoan hô Giê-su. Ta thấy đám đông có thể huỷ hoại lương tâm đến thế nào. Nó có thể làm cho chính con người trở nên vong thân và biến họ thành dụng cụ của sự dữ.



Như trước đó các thầy cả đã làm, giờ đây các tay lính cũng bỡn cợt với tù nhân. Họ lột áo, khoác lên mình Ngài một tấm vải đỏ và đội lên đầu Ngài một mũ gai. Đưa cho Ngài một cây gậy thay vương trượng, và rồi cả đám quỳ xuống mà rằng: “Này vua Do-thái, hãy tự cứu mày đi”. Rồi họ nhổ vào mặt Ngài, giật gậy và đánh vào đầu Ngài. Cũng lại là Pilatus, trước cảnh tượng đó, ông đã kêu gọi lòng thương hại: “Ecce homo – hãy xem, một người như thế”.

Tất cả những đoạn đó rất thâm sâu. Chúng dẫn ta bằng nhiều lối tới cả một chuỗi sự kiện, từ nỗi tầm thường của sự dữ cho tới nét khiêm tốn của quyền lực và của tình yêu thiên chúa. Trước hết, ta thấy sự vô tri của đám đao phủ, đối với họ độc ác đã trở thành chuyện thường tình. Nhưng có lẽ còn có cái gì thẳm sâu hơn nữa đàng sau những diễu cợt kia. Bởi vì chính kẻ đội vương miện bị nhạo báng đó là vua thật của thế giới. Kẻ đội vương miện bằng gai kia, nghĩa là đội lấy nỗi đau đớn của thế giới, là vua thật. Câu nói của Pilatus vô tình chứa đựng một nội dung vượt lên trên nghĩa chữ. Một cách nào đó ông đã nói: “Vâng, cái đó là người”, một con bọ thảm thương. Đồng thời ông chỉ vào con người thật, con người mang hình ảnh Chúa trong đau khổ.



Đám lính dẫn kẻ nhục hình với mũ gai trên đầu về Gôn-gô-ta, đến “núi sọ”. Đức Giê-su vác thập giá nặng, Ngài đổ mồ hôi máu. Ba lần Ngài gục ngã vì gánh nặng. Chị Vê-rô-ni-ca trao cho Ngài tấm khăn để lau mặt tạm, những phụ nữ khác khóc, nhưng tuyệt đối không có ai đứng hai bên đường sẵn sàng vác đỡ cho Ngài. Có lẽ vì sợ Ngài chết dọc đường không đến được nơi hành hình, đám lính đã bắt một người tên là Si-mê-on ở Xi-rê-nê vác đỡ cho Ngài một đoạn.

Lòng sùng mộ Ki-tô giáo đã lấy con đường thánh giá, con đường ngày nay ta có thể đi lại ở Giê-ru-sa-lem, làm nguyên biểu tượng cho bước đường đau khổ của con người. Một số biến cố trong đó đã trở thành nội dung suy gẫm, chẳng hạn như ba lần Chúa ngã hay hình tượng Vê-rô-ni-ca. Đó là những cảm nhận của con tim khi bước theo con đường đó. Đường thánh giá và chuỗi mân côi là kinh cầu quan trọng được hình thành do lòng sùng mộ của tín hữu phương tây trong thời trung cổ. Đó không những là chứng liệu quan trọng về sự trưởng thành tâm hồn và về lòng đạo đức, nhưng thực tế là một trường học của nội tâm và của những an ủi. Đó cũng là trường học dạy ta xét mình, giúp ta trở về, giúp tâm hồn biến đổi và dạy ta cách cùng đau khổ với tha nhân – không phải chỉ cảm nhận cái đau khổ của người mà thôi, mà đó còn là một cái gì thôi thúc ta phải nhận chân con người mình và sửa mình nên tốt hơn.

Hình ảnh Xi-mê-on dĩ nhiên cũng quan trọng không kém. Thế giới ki-tô hữu nhìn thấy trong đó một nhiệm vụ không bao giờ dứt. Có thể nói Đức Ki-tô vác thập giá đi suốt toàn bộ lịch sử. Ngài mong chờ những bàn tay của Vê-rô-ni-ca hay của Xi-mê-on sẵn sàng chia sẻ gánh nặng thánh giá.

Không thể tưởng tượng được việc đám lính hành hạ Đức Giê-su. Tất cả những thù hận, những gì muông thú, xấu xa nhất mà con người có thể gây cho nhau, đều được chúng đổ lên đầu Ngài.

Đức Giê-su là một nạn nhân điển hình của bạo lực. Chúng ta vừa chứng kiến con người trong thế kỷ20 đã có thể man rợ tới chừng nào; họ đã tự sỉ nhục và phá huỷ chính khuôn mặt mình, qua việc phá huỷ bộ mặt tha nhân. Trước sự kiện con “Chiên Thiên Chúa” đã phải gánh thay vào mình tất cả những nhục nhã đó, chúng ta một mặt phải rúng động về sự dã man của con người, phải đặt lại vấn đề với chính mình về việc đã tỏ ra hèn nhát hay câm lặng đứng nhìn, cũng như chính mình đã đồng loã với tội ác. Mặt khác chúng ta phải sửa đổi mình để Chúa được vui. Chúa đã đứng về phía những người vô tội và những người đau khổ, và Ngài cũng muốn thấy ta cùng đứng ở phía đó.



Trên thập giá Đức Giê-su còn bị chế nhạo. Lính đưa cho Ngài rượu có trộn mật đắng. Họ còn treo trên thập giá tấm bảng viết: Giê-su Na-da-ret, vua Do-thái (INRI). Các thượng tế và thầy luật la lên: “Mày muốn phá Đền thờ rồi xây lại trong ba ngày ư? Nếu là con Thiên Chúa thì hãy cứu mình và xuống khỏi thập giá đi.” Nhưng Đức Giê-su đã không rời thập giá. Ngài chẳng nói gì. Chẳng nói gì cả. Từ giờ thứ sáu tới giờ thứ chín trời đất bỗng tối sầm. Vào khoảng giờ thứ chín Ngài kêu lên: “Eli, Eli, lema sabachtani”. Một câu thật lạ, vì nó mang nghĩa: “Chúa ơi, Chúa ơi, sao Ngài bỏ con?”

Về việc trao thức uống, Tin Mừng kể lại hai cách. Mat-thêu nói đó là rượu trộn mật đắng, và người ta trao cho Ngài lúc bắt đầu đóng đinh, có lẽ đó là một thứ thuốc tê. Nhưng Ngài đã từ chối, vì Ngài muốn chịu đựng nỗi đau với tất cả cảm giác. Mac-cô, Lu-ca và rõ hơn Gio-an bảo đó là giấm, và người ta đã trao cho Ngài khi sắp tắt thở. Rõ ràng các thánh sử muốn liên tưởng tới câu Thánh Vịnh: “Thay vì của ăn chúng đưa cho tôi thuốc độc và giấm” (Tv 69,22). Một vài chỗ trong sách tiên tri cũng viết: Ta đã trồng một vườn nho và nó đã đưa cho ta giấm – một lời than trách vẫn luôn đúng cho hoàn vũ Ki-tô giáo.

Rồi ta nghe những nhạo báng đổ lên Đức Giê-su. Sách Khôn ngoan trong Cựu Ước có viết: “Những kẻ bất lương nhạo báng người công chính”. Chúng đưa Ngài tới chỗ chết và nói: Này là lúc hãy tỏ cho chúng tao thấy mày có phải Thiên Chúa hay không. Đó là lối thử nghiệm của họ. Đó là giây phút chiến thắng, mà những người pha-ri-sêu, có thể một số trong họ trước đó đã bị cắn rứt lương tâm, giờ đây thấy mình có lí và quay ra nhạo báng Ngài. Như vậy là họ thông đồng với nỗi tầm thường của sự dữ, như nó đã được thể hiện nơi đám binh lính.

Tin Mừng cho hay Đức Giê-su trên thập giá đã thốt ra bảy lời tất cả. Lời nhắc đến trên kia có tầm quan trọng bản lề. Đó và câu đầu của Thánh Vịnh 21, bài bi ca lớn của dân Is-ra-en, cho thấy trong lịch sử, cứ mỗi lần dân này bị áp bức và bị dồn vào đường cùng, đều kêu lên: “Chúa ơi, Chúa ơi, sao Ngài bỏ rơi tôi?”. Dùng Thánh Vịnh 21 để cầu nguyện, là Đức Giê-su muốn đồng hoá mình với dân tộc đau khổ Is-ra-en, và muốn nhận vào Ngài số phận của dân này.

Nhưng ta không được quên, đó cũng là một lời cầu nguyện. Trong tiếng la nguy kịch đó Ngài đã hướng về Thiên Chúa. Đức Giê-su chết như một người cầu nguyện, như một người làm theo lời dạy của điều răn thứ nhất, là luôn cầu nguyện với Thiên Chúa. Thánh Vịnh đưa ta vào một nỗi tín thác lớn, nó tiên tri về phép Mình Thánh và chấm dứt với câu: “Người nghèo được ăn uống no nê”. Từ thập giá tuôn ra Manna mới làm cho kẻ nghèo được no nê.

Khi Ngài tắt thở, khăn Đền thờ bị xé đôi. Động đất, đá tảng vỡ ra, ta còn đọc thấy là mồ mả mở tung. Bao nhiêu thế kỉ, các nghệ sĩ cố gắng bằng mọi cách diễn tả cảnh tượng đó. Tôi nhớ đặc biệt tới một tấm hình: Kẻ bị đóng đinh gục đầu hơi nghiêng về một bên vai, mắt nhìn thẳng vào người xem. Mũ gai ấn mạnh vào sọ. Máu tuôn đầy người. Nước mắt Ngài chảy ra. Nhưng dù bị khổ nạn, ánh mắt hé mở và không bị hây hấn gì của Ngài vẫn toát ra nét bình an. Dù có đủ lí do để than thở, nhưng kẻ bị nạn vẫn mỉm cười với người xem. Chẳng có một nét gì gọi là trách cứ trên khuôn mặt đó, Đức Giê-su trông như đã được giải thoát và hoàn toàn thanh thoải. Càng nhìn Ngài lâu, quái lạ ta càng nhận ra rõ nét an ủi bên cạnh nét u sầu.

Chỉ trong suy niệm, chỉ khi hồn ta qua cầu nguyện đồng hoá làm một với Đức Ki-tô chịu đóng đinh, khi đó ta mới có được những hình ảnh chịu nạn đích thực, lớn và thuần khiết. Chúng vừa nói lên nỗi khát khao, cơn túng quẫn, nỗi đau đớn và sự tra tấn man rợ nhất, nhưng đồng thời cũng cho thấy sự bình an trong câu nói cuối cùng: “Con phó linh hồn trong tay Cha. Sự việc đã hoàn tất”.

Đức Giê-su gục đầu và tắt thở. Ngài trút tinh thần và trao nó lại cho Cha Ngài, và sự bình an đã chói rạng lên từ câu nói cuối cùng của Ngài. Hình chịu nạn không bao giờ được phép chỉ nói lên khía cạnh man rợ mà thôi, vì như thế chúng không diễn tả hết được cái bí ẩn của Đức Ki-tô. Nếu chúng chỉ muốn nhắm tới việc thoá mạ con người không thôi, thì chính chúng lại trở nên đích cho người ta diễu cợt.

PHỤC SINH

Trong vòng 24 tiếng đồng hồ, khắp Giê-ru-sa-lem nhận ra sự kiện phục sinh. Người trong thành sáng hôm đó ai nấy đều sửng sốt. Lại có động đất, cuộc động đất hai ngày trước đó đã làm rung chuyển Đền thờ, rồi suốt trong ba giờ liền bão cát nổi lên, tiếp đó lại động đất. Khi các bà là những người đầu tiên tri hô lên không còn thấy xác, người nghe coi đó là chuyện nhảm. Nhưng đến chiều tối thì chẳng còn ai ngờ gì nữa, nhất là trong đám môn đệ. Đức Giê-su đã hiện ra với hai trong số các môn đệ trên đường đi Ê-mau và đã tỏ mình cho họ biết. Lịch sử đạo Ki-tô như là lịch sử của một niềm tin khởi đầu từ giây phút này.

Giê-ru-sa-lem đã biết đến sự kiện sớm hay muộn, ta không rõ. Ta chỉ biết qua kết luận của Mat-thêu rằng, cả sau cuộc hiện ra cuối cùng của Chúa trên núi Si-nai – Đấng bị đóng đinh đã sống lại và nói: “Mọi quyền năng đã được trao cho Ta” – thì vẫn còn có những kẻ không tin. Sứ điệp phục sinh luôn gặp phải ngờ vực và chối bỏ, cho dù nó là một sứ điệp chiến thắng, sứ điệp vượt thắng hoài nghi.

Đức Ki-tô đã ra khỏi thế gian và ra khỏi cuộc sống thế gian để mặc lấy một thân xác mới. Thân xác này không còn bị lệ thuộc bởi các quy luật vật lí; nó thuộc về thế giới thiên chúa, từ thế giới đó Ngài tỏ mình ra cho con người và mở lòng họ, để họ nhận ra và đụng chạm được Ngài. Chúng ta luôn được mời gọi, cùng với “tông đồ không tin” Tô-ma, sờ vào Ngài và nhận ra cái hiện tại sống động mà Ngài luôn tỏ mình ra một cách mới trong lịch sử.

Biến cố phục sinh là một cái gì mới đi vào trần thế, và từ đó Giáo Hội đã có thể hình thành. Và trong thực tế, phục sinh là cộng đoàn của những người tin vào Đức Ki-tô, cộng đoàn của Dân thiên chúa mới.



Thập giá, biểu tượng linh thiêng nhất của vũ trụ, như Guardini đã nói, đã trở thành dấu chỉ của ki-tô hữu. Thập giá với một người bị đóng đinh – là một biểu tượng gây khó chịu, tạo chống đối. Ngay Phao-lô đã phải cảnh giác: Đừng làm cho thập giá trở nên vô nghĩa, đừng đặt ngang hay dựng đứng nó, đừng biến cái hơn của Chúa ra cái kém của thế giới.

Thật ra đó là một câu chuyện có một không hai. Thập giá không những là nơi kết thúc sứ điệp và chính thân xác thịt máu của Đức Giê-su. Chính nó đã trở thành biểu tượng cứu độ, biểu tượng không phải của sự chết, mà là sự sống. “Gỗ của sự sống thật” thánh An-rê ở Giê-ru-sa-lem đã hát lên như thế. Điều trớ trêu: Qua thập giá tới cứu độ.

Những bức ảnh chịu nạn xưa mô tả người bị đóng đinh đồng thời cũng là kẻ sống lại, là vua. Hình người trên đó mở mắt, để cho thấy bản chất không chết của Thiên Chúa, nhưng Ngài sống mãi và trao tiếp sự sống. Như vậy, từ một công cụ hành hình xấu xa của người Rô-ma, thập giá đã trở nên dấu chỉ chiến thắng của Con Người. Dấu chỉ đó sẽ không chỉ đến với ta trong ngày sau hết, nhưng nó đã tới, qua việc Ngài đến với ta như một kẻ chiến thắng và mang ta đi. Cùng với Ngài ta lên đường tiến về Thiên Chúa hằng sống; qua nỗi đau khổ của Ngài ta thấy niềm an ủi của tình yêu thiên chúa, tình yêu này mạnh hơn đau khổ.

Như vậy, thập giá thật sự đã trở thành một dấu chỉ cứu độ, dấu chỉ vắn gọn của Đức Giê-su Ki-tô, qua đó chúng ta nối kết với Ngài.

Các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem quả đã bị một cú xốc lớn: Đấng Thiên Sai, Đấng đã có thể chữa lành người mù và khiến kẻ chết sống lại, bỗng dưng hiện thân như một kẻ bị sỉ nhục, bị dày đạp và bị đám tay sai quyền lực treo lên thập giá. Điều tuyệt đối không thể giải thích được: Tại sao Thiên Chúa lại phải đau đớn và chết, mới cứu được tạo vật của Ngài?

Đó là bí ẩn của Thiên Chúa: Ngài không đi vào trần thế để cải tạo công bằng xã hội bằng quyền lực. Ngài đã vì ta hạ mình và để cùng đau khổ với ta.

Ta sẽ không bao giờ hiểu hết được bí ẩn đó. Và dù vậy, cái tích cực nhất mà ta biết được về Chúa, là Ngài không đơn giản cai trị bằng quyền lực. Thiên Chúa có lối sử dụng quyền lực riêng, không như lối của con người. Quyền lực của Ngài là sức mạnh cùng yêu và cùng khổ, và khuôn mặt thật của Ngài tỏ lộ ra chính trong đau khổ. Thiên Chúa mang nỗi bất công của thế giới trong đau khổ, nhờ đó chính trong những giờ phút đen tối ta có thể chạy tới cùng Ngài là kẻ gần với ta nhất.

Thiên Chúa trở nên bé nhỏ, để ta có thể nắm bắt được Ngài. Để cho con người học được nguyên tắc sống chống lại thói kiêu căng và muốn làm trời của họ. Ngài tới như một người sờ đúng trái tim ta.






[1] Händel (1685 – 1759): nhạc sĩ sáng tác người Đức, đặc biệt nổi tiếng với nhiều vở nhạc kịnh, trong đó có vở „Messias“.

[2] Edith Stein (1891 – 1942): người Đức gốc Do thái, triết gia, môn sinh của nhà hiện tượng học Edmund Husserl. Vào đạo công giáo, sau khi đọc cuốn sách tự thuật của thánh Teresa ờ Avila, và trở thành nữ tu dòng. Chết trong lò thiêu của Quốc-xã Đức. Năm 1998 được giáo chủ Gio-an Phao-lô II nâng lên bàn thánh.

[3] Karl Jaspers (1883 – 1969): Triết gia và nhà phân tâm người Đức. Vì vợ là người Do-thái, nên bị Quốc-xã cấm dạy học, và đã di cư sang Thụy-sĩ sống, dạy học.

[4] Patrick (khoảng 385 – 461): Thánh bổn mạng của Ái-nhĩ-lan. Dân Ái-nhĩ-lan tôn ngài là „tông đồ“, vì ngài đã đưa đạo tới cho họ.


Каталог: KHANG

tải về 1.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương