Thiên Chúa và Trần Thế Hồng y Joseph Ratzinger Đgh bênêđictô XVI bản dịch của Phạm Hồng Lam


NHỮNG LO LẮNG ĐÚNG CHỖ VÀ KHÔNG ĐÚNG CHỖ



tải về 1.72 Mb.
trang15/22
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.72 Mb.
#3938
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   22

NHỮNG LO LẮNG ĐÚNG CHỖ VÀ KHÔNG ĐÚNG CHỖ

Ta hãy đi vào một vài “quy chế thực hành” của bài giảng. Trong đó có nói tới những âu lo đúng chỗ và những âu lo không đúng chỗ. Đức Giê-su nói, ta không nên lo cơm ăn áo mặc, bởi chưng cuộc sống quan trọng hơn cơm áo. Chỉ những dân ngoại mới lo các thứ đó. Cha trên trời đã biết con mình cần những thứ gì rồi. Ngài khuyên: ” Hãy xem chim trời, chúng không gieo gặt và lượm lặt của ăn vào kho lẫm; Cha trên trời nuôi chúng. Anh chị em không giá trị nhiều hơn chúng sao?”

Nghe hay thật, nhưng cứ theo lời đó, rồi thì chỉ biết gặm cỏ thay cơm.

Trong một thế giới được xây dựng hướng về tương lai và luôn phải lo làm sao cho mình mỗi ngày được tốt đẹp hơn, thì hiển nhiên chẳng ai hiểu được ý nghĩa của câu trên. Tôi nghĩ, ta phải đọc thật kĩ bản văn. Rồi sẽ tìm thấy chìa khoá trong đó. Đức Giê-su cũng từng nói: Trước hết hãy tìm nước Thiên Chúa, rồi anh chị em sẽ nhận được thêm điều khác. Điều đó có nghĩa là có một thứ tự ưu tiên. Nếu ta bỏ ra ngoài ưu tiên về sự hiện hữu của Chúa trong thế giới, thì nhiều chuyện ta làm, dù hữu ích, có thể một cách nào đó rồi cũng sẽ đổ vỡ trong tầm tay. Và ta cũng sẽ nhận ra còn thiếu một cái gì đó. Các nỗ lực cải tiến kĩ thuật của thế giới có làm giảm đi nhiều gánh nặng đấy, nhưng trên một số phương diện chúng đồng thời làm cho cuộc sống nặng nề và đen tối hơn.

Tôi tin rằng phải đặt việc tìm nước Thiên Chúa lên hàng ưu tiên. Đó phải là âu lo nền tảng. Và rồi từ trong nước Chúa, âu lo này sẽ cấu trúc các âu lo khác. Hiển nhiên điều này không dễ đối với ta. Ta còn phải lo cho ngày mai, phải lo làm sao thế giới tiếp tục đi đúng hướng. Tuy nhiên, những âu lo đó sẽ giảm bớt và nhẹ gánh, nếu chúng ta gắn chúng vào cái ưu tiên kia. Và ngược lại, nếu con người hoàn toàn không còn thấy gì trong ưu tiên kia nữa, thì các âu lo sẽ làm họ hao mòn và rồi nuốt trửng họ.

XÉT ĐOÁN

Một lần, từ trên núi, Đức Ki-tô nói: “Đừng xét đoán, kẻo bị xét đoán! Bởi anh chị em xét đoán thế nào, thì cũng bị xét đoán như vậy, và sẽ bị xét xử theo tiêu chuẩn mà anh chị em đã dùng để xét xử kẻ khác”. Nghe thì dễ thật. Nhưng cả xét đoán nữa mình cũng không buộc phải làm?

Đúng vậy. Theo Mát-thêu câu 18, chính Đức Giê-su đã đưa ra một quy chế cộng đoàn, khi Ngài bảo rằng, trước hết, ta nên cảnh cáo nhau giữa hai người mặt đối mặt, sau đó mới đưa ra tập thể lớn hơn, và cứ thế đi lên. Trật tự và luật pháp cần cho con người. Nhưng ở đây, vấn đề nằm trên một bình diện khác, đó là ta không làm như kiểu toà án thế gian, nghĩa là ta phải giữ bí mật của người khác trong khi kết án họ. Cả khi vì kỉ luật mà toà phải kết án – dĩ nhiên chẳng bao giờ kết án một con người, nhưng là kết án một hành động nào đó, và án này là câu trả lời cho hành động đó -, thì ta cũng phải giữ bí mật, vì đó là cái gì riêng tư, chỉ có Chúa mới có quyền phán xét nó mà thôi.

Đoạn thứ hai câu trên nhắc ta phải coi chừng, vì ta cũng sẽ bị xét xử theo tiêu chuẩn mình đã áp dụng cho người khác. Như vậy, nó cảnh cáo ta phải có tiêu chuẩn đúng, giới hạn đúng và phải có lòng kính trọng đúng đắn đối với người khác. Như thế, Đức Giê-su đã ra cho ta một tiêu chuẩn nội tại áp dụng cho tình thế buộc phải xét xử. Tiêu chuẩn đó là việc công nhận quyền quyết định tối hậu của Chúa.

HAI CON ĐƯỜNG

Đức Giê-su nói: “Hãy đi qua cửa hẹp! Vì cửa rộng đưa tới hư hỏng, và vì cửa đó rộng nên nhiều người bước vào. Song cửa dẫn vào sự sống thì hẹp, và vì cửa đó hẹp nên ít người tìm ra nó”.

Có lẽ vì vậy mà người ta cho rằng hoả ngục đầy người, trong khi thiên đàng vắng tanh. Hẳn nhiên, đây không có nghĩa như thế. Nhưng chỗ khác Chúa cũng nói – một lần nữa nên nhớ luôn cần phải đọc lời Chúa trong toàn văn –, là nhiều người từ đông sang tây sẽ đến, và họ sẽ ngồi vào bàn chung với Ab-ra-ham, I-sa-ac, Gia-cóp. Sách Khải-huyền vẽ cho ta thấy trước cảnh đoàn lũ người quây quần bên ngai con chiên. Đây quả là một lời cảnh cáo thực tiễn: Nếu ta làm theo những gì người khác và thiên hạ làm, nếu ta chọn con đường rộng, nghĩa là con đường dễ dãi, lúc này đây xem ra quả dễ chịu hơn, thì như vậy là ta đang xa rời con đường thật. Câu trên muốn nói rằng, con đường hẹp và khó khăn cũng như cánh cửa hẹp mà ta cố ép mình bước qua chính là quyết định đúng.

Ở đây, ta có một hình ảnh đượm màu quyết liệt đông phương, nói lên nguyên tắc nền tảng cho việc xử trí hàng ngày. Nếu cứ để thả mặc, cứ buông trôi theo giòng rồi chìm đi trong đám đông, thì rốt cuộc mình sẽ luôn lặn ngụp trong đám đông đó, và kết cuộc sẽ kết thúc trong trống rỗng. Chính sự can đảm đi lên, can đảm chấp nhận khó nhọc sẽ đưa ta vào con đường đúng.

CÁC TIÊN TRI GIẢ

Đức Ki-tô nói: “Hãy coi chừng các tiên tri giả; họ tới với anh chị em như những con cừu (ngoan), nhưng thật ra là những chú sói dữ. Cứ nhìn vào kết quả tất sẽ nhận ra được họ. Có thế nào thu hoạch được nho từ bụi gai hay được vả từ cỏ gai? Cây tốt sinh trái tốt, cây xấu sinh trái xấu”. Nghe như một mệnh lệnh chống lại các giáo phái hoặc bè rối.

Cũng có thể như vậy. Trước hết, đó cũng là một quy luật đơn giản. Đó chính là thời của những triết gia lang thang, những lang băm, những nhà cứu tinh. Họ ai nấy đều hứa hẹn cứu khổ và vẽ ra con đường đúng, họ muốn làm đẹp con người, và xem ra muốn mang lại điều tốt cũng như điều đúng đắn, nhưng thật ra thường chỉ vì tư lợi. Họ là sói dữ, phá hoại.

Đức Giê-su cảnh cáo ta trước những “lang băm cứu độ” đó. Ngài chỉ ra tiêu chuẩn để nhận định: Hãy xem chính các lang băm đó sống như thế nào? Họ thật sự là ai? Đâu là hoa trái họ tạo ra nơi họ và chung quanh họ? Cứ nhìn vào họ tất sẽ biết sự thật ra sao. Tiêu chuẩn thực dụng thời đó cũng đúng cho lịch sử ngày nay. Hãy nghĩ tới các nhà thuyết giảng cứu độ trong thế kỷvừa qua, từ Hitler cho tới các tay tổ cộng sản, họ xuất hiện và nói, đây là lúc chúng tôi mang tới cho các bạn điều thật sự đúng. Trong một cái nhìn nào đó, họ xuất hiện như những chú cừu ngoan, nhưng rốt cuộc là những tay phá hoại có tầm cỡ.

Nhưng không chỉ những tay tổ đó, mà cả những nhà thuyết giảng nhỏ, những tiên tri giả nữa. Họ mách với người ta là họ nắm chìa khoá trong tay, cứ việc làm theo, thì rồi bạn sẽ thành đạt nhanh, giàu nhanh, sẽ có ngay hạnh phúc. Đức Giê-su yêu cầu ta phải biết phân biệt, phải coi chừng những lời hứa hẹn đó. Đừng để bị rơi vào tròng, nhưng hãy giữ đầu óc tỉnh táo, sáng suốt, đừng để rơi vào những phong trào xem ra tốt đẹp, nhưng rốt cuộc chỉ là trống rỗng hoặc phá hoại. Nhất là Ngài muốn chúng ta luôn phải tự hỏi, đâu là hằng số của lời Chúa, đâu là hoa trái thật.



Lời khuyên kia cũng đúng cho các phong trào trong Giáo Hội?

Hoa trái luôn là tiêu chuẩn để nhận định. Trong Giáo Hội, ta phải để ý xem có phải người đó chỉ muốn rao giảng về họ, chỉ muốn ép ta theo quan điểm của họ mà thôi hay không. Hay họ là người khiêm nhu, muốn phục vụ đức tin của Giáo Hội, muốn trở thành kẻ phục vụ lợi ích chung, phục vụ lời Chúa.



Bài giảng trên núi còn có nhiều lời khuyên thiết thực khác. Tôi muốn nêu lên đây câu cuối cùng của bài giảng. Đức Giê-su nói điều sau đây thật khó hiểu và lại càng khó theo: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những ai bách hại mình”. Và thêm, Thiên Chúa để cho “mặt trời chiếu sáng trên kẻ xấu và người lành, và Ngài để mưa xuống trên người công chính cũng như trên kẻ bất lương”.

Yêu kẻ thù quả thật là một bước mới và lớn. Ở đây, chẳng còn chuyện trả thù nữa. Ta cần nhìn ra khía cạnh người nơi kẻ thù, nhìn ra nơi họ khía cạnh thụ tạo của Chúa. Điều này không có nghĩa là khoanh tay mặc cho sự dữ tới với mình. Nhưng ta phải biết kính trọng con người trong chính hành động của mình. Nghĩa là cố gắng làm điều tốt cho cả kẻ thù, cố gắng đưa họ về đàng lành, rốt cuộc đưa họ hướng về Đức Ki-tô. Trong ý nghĩa đó, cầu nguyện cho họ vốn là một việc làm nền tảng, đó là một cách làm tốt cho họ. Khi ta muốn điều tích cực cho kẻ thù trước mặt Chúa, khi ta cố gắng cầu cho họ không còn là kẻ thù nữa, nhưng cho họ được thoát ra khỏi tư thế thù địch, thì lúc đó ta đã thay đổi từ thâm tâm cái nhìn về họ.

Trong thời cổ, người ta đã nói đến một Thiên Chúa độ lượng, Ngài muốn phân phát cho ngay cả kẻ xấu những món quà của tạo dựng. Nhưng thời đó người ta dùng hình ảnh này để nói lên phần nào sự dửng dưng của Thiên Chúa trước chuyện thiện ác. Và Đức Giê-su đã nâng nó lên một bình diện khác, khi Ngài qua đó chỉ ra lòng tốt hải hà của Thiên Chúa là đấng muốn đưa mọi người vào đường thiện, muốn trao cho họ những cơ hội, muốn chăm sóc họ bằng điều tốt lành. Và cả khi Thiên Chúa có thể nói là trừng phạt ta đi nữa, thì Ngài cũng chỉ muốn cho ta trở nên quan tâm lắng nghe. Là Tạo hoá, Ngài không thể làm gì khác hơn là yêu thương những tạo vật của Ngài, và muốn cho chúng tìm ra con đường ngay lành. Mọi loại trả thù đều hoàn toàn xa lạ với suy nghĩ của Thiên Chúa.

Sau khi giảng dạy và khuyên răn, và người nghe dù đôi chút thấm mệt nhưng cũng cảm thấy hạnh phúc, vì hiểu rằng nguồn gốc và cùng đích cuộc đời mình không phải là thế gian này và cũng không dừng lại ở đây, Đức Giê-su còn đưa ra bảo đảm cho những điều Ngài nói: “Ai nghe lời tôi dạy và làm theo, kẻ đó là người khôn, biết xây nhà trên đá”.

Còn những người khác xây nhà trên cát, và khi lũ lụt tới, chúng sẽ cuốn trôi tất cả. Nhà xây trên nền đá mới chắc chắn. Chỗ này cũng giống như đoạn phúc âm Gio-an mà ta đã nghe: Ai sống theo Tin Mừng, ai dám thử nghiệm theo nó, ai thật sự xây nhà trên lời Chúa, kẻ đó biết rằng mình đã chọn được một nền chắc chắn.

Tuy nhiên, ở đây còn có thêm một liên tưởng khác. Hình ảnh xây nhà trên đá làm ta nhớ đến lời Đức Ki-tô nói với Phê-rô, là Ngài sẽ xây nhà – Giáo Hội của Ngài – trên đá. Như thế, lời đó có thể đưa ta tới ý nghĩrằng ta không nên xây một mình. Ai chỉ muốn xây cuộc đời mình như là một chỗ trú ẩn riêng, thì người đó đã xa lìa nền đá. Xây dựng cuộc đời luôn có nghĩa là cùng xây. Cùng xây chung một căn nhà Chúa, dựa trên nền lời Ngài, và như vậy căn nhà sẽ chắc chắn tồn tại.

Có thể nói không cùng về cuộc đời, về chuyện nên nhìn đời ra sao, làm sao cho cuộc sống đơm hoa, được sống tự do, thoải mái và hứng thú. Nhà soạn kịch người Anh William Shakespeare, một tín đồ công giáo, đã sống cuộc đời ông hết mình. Tên các vở kịch của ông nghe ra như một bản lí lịch đầy biểu tượng, nào là “Ồn ào vô ích”, nào là “Chừng mực” cho tới “Kết cuộc tốt là mọi chuyện tốt”. Là nhà giáo dục giỏi, ông cuối cùng đã đưa ra một lời khuyên, xem ra như đây là kết tinh mọi nhận thức trần thế của ông: “Buy terms divine in selling hours of dross”, “Hãy mua lấy thời giờ của Chúa bằng cách bán đi những giờ u tối trần gian”.

Đó là một lời khôn ngoan mà người ta có thể chờ đợi nơi một nhân vật lớn. Thời giờ đã được sử dụng một cách tốt nhất là thời giờ đã biến thành cái tồn tại; là thời giờ ta nhận được từ Chúa và trả lại cho Ngài. Còn thời giờ không dính dáng gì tới Chúa chỉ là thứ thời gian vô bổ và chóng qua.



VÔ THẦN LÀ GÌ ?

Không nhận diện thật chính xác, thì không thể chống lại vô thần đang đầy dẫy ở mọi lãnh vực, phạm trù từ tinh thần đến vật chất, để bảo vệ chính bản thân, chứ đừng mong hướng dẫn, bảo vệ những người mình có trách nhiệm. Cuốn THIÊN CHÚA của tác giả Manfred Lutz, do Phạm Hồng Lam dịch, giúp chúng ta trả lời khá sâu sắc các vấn đề liên quan đến vô thần.

Vô thần, theo nghĩa chung chung ngày nay, là phủ nhận có sự hiện hữu của một Đấng tạo dựng trời đất toàn năng, vị này tiếp tục giữ gìn tạo vật trong tay, và đến “ngày sau cùng” sẽ phán xét con người, tách biệt người lành kẻ dữ, người lành sẽ được thưởng phúc thiên đàng, kẻ dữ bị luận phạt hoả ngục. Đi ngược trở lại lịch sử của ý niệmnày, ta thấy lắm hiện tượng khá rối trí. Vì không chịu thờ thần linh nhà nước và thờ hoàng đế thiên tử, các ki-tô hữu xưa bị coi là vô thần. Cả Sokrates cũng phải chết vì tội vô thần, vì ông dám coi đám thần linh lúc nhúc trong bầu trời Hi-lạp chẳng ra gì, và, với suy nghĩ của một triết gia, ông đã lên đường tìm về một Thiên Chúa duy nhất.

Nếu lấy ý niệmThiên Chúa theo lối hiểu Ki-tô giáo ngày nay để thăm dò cổ thời nhân loại, ta sẽ thấy đầy dẫy “Vô thần”. Bởi vì làm sao người thời đó hiểu được Thiên Chúa như ta hiểu ngày nay? Mặt khác, toàn bộ lịch sử nhân loại lại đầy dẫy những niềm tin muôn màu vào thần linh và vào Thiên Chúa. Vì vậy, phải cẩn thận, đừng để rơi vào chủ nghĩa đế quốc tinh thần do những mánh khoé lạm dụng ý niệmtạo ra, và qua đó kéo dãn vương quốc vô thần hay vương quốc niềm tin Thiên Chúa ra quá rộng một cách không thích đáng. Dù sao, ý niệmVô thần khá mơ hồ, và có lẽ nó càng rõ nghĩa hơn, khi ta càng tiến gần vào thời Hiện đại.

Nhưng thời nay cũng không dễ có được những đối lập đơn giản. Nhà thần học Karl Rahner gọi thái độ của những người tự coi là vô thần, nhưng sống một cuộc sống như có Thiên Chúa, là “vô thần vì kính trọng Thiên Chúa”. Họ chấp nhận thà là “vô thần”, còn hơn phải sống với một thứ Thiên Chúa bề ngoài của mấy ông bà “đạo đức” môi miệng. Thiên Chúa này không hợp với kinh nghiệm tôn giáo bề sâu của họ.

Vì thế, ta vẫn phải chấp nhận phần nào tính mơ hồ của ý niệmVô thần, nhất là để khỏi phải loại trừ ra bất cứ hiện tượng quan trọng nào. Sử gia người Pháp Georges Minois cũng công nhận như thế. Năm 2000 Georges Minois cho phát hành cuốn sách nổi tiếng của ông, ấn bản tiếng Đức 700 trang Lịch Sử Vô Thần Từ Khởi Thuỷ Tới Hiện Nay, cuốn sách thật đầy đủ và hấp dẫn, đúng là chỉ có sử gia Pháp mới viết được những cuốn như thế. Sách ông đã giúp tôi viết chương này. Minois có cảm tình với quan điểm vô thần, dù vậy, ông đã không đứng về một phía nào khi viết, và sách ông nói chung đã thành công nhờ thái độ khách quan đó.

Ông phân biệt ra Vô thần thực hành và Vô thần lí thuyết. Người vô thần thực hành sống như không có Thiên Chúa, dù họ có bảo mình tin gì đi nữa. Ngay chính trong những thời hoàng kim của Ki-tô giáo, thái độ sống này cũng rất phổ biến nơi các tầng lớp dân chúng. Người vô thần lí thuyết tuyên xưng rõ ràng sự Vô thần của mình và thường đưa ra những biện minh cho quan điểm mình.

Minois nói nhiều tới loại Vô thần phản kháng, nghĩa là loại người chống lại quan điểm đức tin nhiều ít cứng nhắc trong những giai đoạn nào đó. Thái độ này được coi là ngang ngạnh, can đảm hay cũng chỉ là một thứ tình cảm quá độ. Và như thế, tùy theo mỗi giai đoạn, Vô thần mang những nét hoàn toàn khác nhau.



13. MẸ THIÊN CHÚA

Lịch sử công nguyên khởi đầu với một phụ nữ. Tin Mừng kể “Và thiên thần Chúa đã mang tới cho Maria một sứ điệp”. Đó là một cô gái từ chốn hẻo lánh không ai biết tới Na-da-ret, và cô chẳng hiểu chuyện gì sẽ xẩy đến cho mình.

Người ta chỉ nhận ra được tầm vóc lớn lao của biến cố đó qua dòng thời gian. Trước hết là sự xuất hiện của thiên sứ, vị này đột ngột trao cho Maria một sứ điệp bất thường: Cô đầy ơn phúc, cô đã được chọn để làm mẹ Thiên Chúa. Hẳn lúc đó Maria hốt hoảng.



Một con người làm mẹ Thiên Chúa!

Quả là một mâu thuẫn lớn. Thiên Chúa trở nên bé nhỏ. Ngài trở thành người, như vậy cũng mặc lấy điều kiện đầu thai và sinh ra của con người. Ngài có một người mẹ, và bằng cách đó, Ngài đã thật sự được dệt vào tấm thảm của lịch sử loài người, đến nỗi một phụ nữ đã có thể thật sự nói được với đứa con mình sinh ra: Chúa tể trần gian ở trong con.

Người ta đã tranh cãi nhau rất lâu về chữ Mẹ Thiên Chúa. Nhóm Nestorius* bảo Mẹ không sinh ra Thiên Chúa, mà chỉ sinh ra một con người Giê-su mà thôi. Như vậy, ngài là mẹ của Đức Ki-tô, nhưng không thể gọi là mẹ Thiên Chúa được. Câu hỏi căn bản là sự hoà quyện hai bản tính thiên chúa và con người trong Đức Giê-su Ki-tô sâu xa tới đâu, tới độ nào để có thể nói được đứa trẻ sinh ra đó là Chúa, và như vậy Maria là mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa không phải trong ý nghĩa Mẹ là người sinh ra Thiên Chúa. Nhưng trong nghĩa Mẹ đã sinh ra một con người, và con người đó hoàn toàn kết hiệp làm một với Thiên Chúa. Với cách đó, mẹ Maria đã hoàn toàn kết hiệp một cách lạ lùng với Thiên Chúa.

Maria được kính thờ như Nữ vương thiên đình, như Nguyên ảnh của Giáo Hội, hay cũng như Mẹ của lòng nhân ái. Lực toả sáng của người nữ đó, đấng vẫn luôn dấy động tâm can hàng triệu con người, không thể nào đong đo bằng tiêu chuẩn thường tình được.

Trong lịch sử, biến cố mẹ Maria càng ngày cũng được hiểu như là nét vẻ vang của phụ nữ. Bản chất nguyên thuỷ của phụ nữ được biểu hiện nơi Maria, ngài là hiện thân sự tinh tuyền của nhân loại và Giáo Hội. Và trong khi Eva - người phụ nữ đầu tiên và là “nguyên mẫu”, như người ta vẫn nói, và là người mẹ của mọi loài sống động - được sinh ra trên căn bản để chết, thì Maria – nhờ sinh ra đấng cứu thế, đấng đã phục sinh và mang lại sự sống – thật sự được coi như là sự thể hiện tinh tuyền hai yếu tố hàm chứa trong chữ Eva, đó là niềm hứa hẹn và khả năng sinh sản của người nữ. Maria trở thành mẹ của sự sống, của những gì trao ban sự sống và của mọi loài sống động.



KÍNH CHÀO ĐỨC MARIA

Lời chào của thiên sứ đã trở thành một lời kinh nền tảng của Giáo Hội công giáo. Một vài thiên tài lớn nhất của nhân loại như Mozart*, Rossini* và những người khác, đã dệt Ave Maria thành nhạc: “Kính chào Maria, đầy ơn phúc! Thiên Chúa ở cùng cô. Cô là người trong những người nữ được chúc phúc. Và Giê-su, con trong lòng cô cũng được chúc phúc”. Và thiên sứ còn nói: “Cô đừng sợ”. Và Maria đã trả lời thế nào?

“Này tôi là tôi tớ của Thiên Chúa”. Vâng, ngài đã học được cách chẳng sợ. Bởi vì như ta thấy trong dọc dài Kinh Thánh, bất luận nơi mục đồng hay nơi các tông đồ: Mỗi khi con người khám phá ra mình ở gần Thiên Chúa là họ cảm thấy sợ hãi. Họ nhận ra sự bé bỏng của mình và giật mình trước vinh quang và thánh thiêng kì vĩ của Thiên Chúa, bởi họ thấy mình không thể nào sánh nổi. Đây là một trong những chỗ đầu tiên trong Tân Ước xuất hiện chữ “Đừng sợ”. Thiên Chúa không đến để gây sợ hãi nơi ta, nhưng Ngài trở nên bé nhỏ trong sự lớn lao của mình, Ngài cởi bỏ đi nét gây sợ, bởi Ngài tới để đem ơn cứu độ.

Giáo chủ Gio-an Phao-lô II đã nhắc lại câu “Đừng sợ, anh chị em đừng sợ Chúa Ki-tô” trong bài diễn văn đầu tiên ngày nhận chức. Tôi muốn nói rằng, giờ đây cả hoàn vũ Ki-tô giáo nên để cho lời đó luôn thấm nhập mình. Chúng ta không cần phải sợ Chúa, không sợ Ngài sẽ lấy mất gì của mình hay đe doạ mình, nhưng Ngài đến để đem chở che, giúp ta thắng vượt cả sự chết.

Kinh Kính mừng của Giáo Hội gồm hai phần. Phần đầu là lời chào của thiên thần, phần sau là lời Ê-li-sa-bét thốt lên khi Maria tới thăm mình: “Con trong lòng em cũng được chúc phúc”. Và Ê-li-sa-bét tiếp: “Em là người có phúc hơn mọi người nữ”. Với câu này, Ê-li-sa-bét cũng đã tiên đoán về sự tôn kính Maria. Thánh Thần đã giúp bà tiên tri nói lên điều đó. Nói cách khác: Ki-tô hữu cũng sẽ ca ngợi Thiên Chúa, bằng cách họ vui mừng chào đón những con người, mà qua đó Chúa tỏ cho thấy sự lớn lao và lòng tốt của Ngài.



Mẹ Maria có ý nghĩa nào đối với cá nhân ngài?

Ngài tượng trưng cho sự gần gũi với Thiên Chúa. Nhờ ngài, ta mới hiểu ra việc nhập thể. Tôi rất cảm động việc Con Thiên Chúa có một người mẹ, và người mẹ đó được tất cả chúng ta tín thác. Lời đấng bị đóng đinh trao mẹ mình lại cho Gio-an đã từ giây phút đó đi vào suốt chiều dài lịch sử. Nhờ lời trối trăn đó mà khi cầu nguyện cùng Mẹ, ta có được niềm tin tưởng đặc biệt, cảm thấy được gần gũi và nhất là có được quan hệ với Chúa. Cá nhân tôi trước đây bám chặt vào phong trào phụng vụ duy ki-tô, quan điểm đó càng được đẩy mạnh qua việc đối thoại với các bạn tin lành. Nhưng càng ngày, qua việc sùng kính Maria với các ngày lễ của Mẹ, các buổi chầu tháng năm, các chuỗi mân côi tháng mười, Mẹ càng có ý nghĩa đối với tôi. Và càng về già, tôi càng cảm thấy gần Mẹ Thiên Chúa hơn.



Các Tin Mừng ít đề cập tới Maria. Ngài hoàn toàn vắng mặt trong những giai đoạn cuộc đời quan trọng của Đức Giê-su, hoặc nếu có, thì cũng xuất hiện dưới dáng tiêu cực hoặc chẳng phải là một người mẹ đáng yêu.

Đúng là truyền thống tin mừng không quan tâm gì tới Maria. Mẹ hầu như chẳng có vai trò gì trong Mát-thêu. Trong Mát-thêu, thời niên thiếu của Đức Giê-su gắn liền với cha Giu-se. Lúc này đây tôi có thể nói, rõ ràng người ta đã muốn tránh nói tới Mẹ, bao lâu Mẹ còn sống. Và cả chính Mẹ cũng muốn giữ kín đáo.

Đức Giê-su kiến tạo một gia đình mới, và ở đâu người ta ca tụng bà mẹ nào đã cưu mang Ngài và vú nào đã cho Ngài bú, thì Ngài liền sửa ngay cái hình ảnh lúc đó về quan hệ gia đình. Đối với Ngài, quan trọng là: “Phúc thay những ai nghe và tuân giữ lời Chúa”. Đó là tính chất mới về gia đình và về người mẹ. Ngài diễn tả như vầy: Ai làm theo í của tôi, là anh em, mẹ, chị em tôi. Như vậy, Ngài nâng khái niệm gia đình mà con người vẫn hiểu lên thành một loại gia đình lớn mới, gia đình cộng đoàn trong í muốn Thiên Chúa, và đó là điểm quan trọng. Lu-ca cho ta hay về chuyện cải chính trên, nhưng ngài đã nối sự việc đó một cách văn hoa với cuộc đời niên thiếu của Đức Giê-su và với câu chuyện gặp gỡ bà Ê-li-sa-bet. Trong Lu-ca, Maria xuất hiện không những như một người mẹ xác phàm, mà cả như một người lắng nghe, một kẻ tin, một kẻ đứng trong cộng đoàn của Chúa. Theo Lu-ca, Mẹ là điển hình của những ai lắng nghe và tuân giữ lời Chúa.

Đức Giê-su có nhiều tình cảm và gần gũi hơn với những phụ nữ khác. Còn đối với mẹ mình thì Ngài nhiều khi tỏ ra cộc cằn. Chẳng hạn trong tiệc cưới Ca-na, khi mẹ yêu cầu phải làm gì để giúp người ta có đủ rượu cho khách, Ngài đã thô lỗ: “Này bà, có chi liên quan tới tôi và bà đâu!” Có thật Ngài đã xử tệ với mẹ như thế không? Có lẽ đôi lúc Ngài đã cắt đứt liên hệ với mẹ mình?

Anh đang đề cập tới một đoạn trong Tin Mừng Gio-an. Thánh Gio-an đưa ra một môn Maria học hoàn toàn đặc biệt. Trong bản Tin Mừng xuất hiện tương đối trễ này vai trò của Mẹ đã được diễn đạt rõ hơn, không như trong Mat-thêu. Chẳng hạn, bất cứ chỗ nào Đức Giê-su nói với Mẹ, Gio-an đều dùng từ “Bà”. Ta có thể nhìn ra ý nghĩa thần học trong từ xưng hô đó. Bởi vì, nếu giờ đây Maria đơn thuần được gọi là “bà” (gynae), nếu từ tiệc cưới Ca-na cho tới núi Sọ Maria cũng bước vào một vai trò vượt lên trên vai trò cá nhân, thì hình ảnh của Eva mới đã sáng tỏ. Ta phải đọc các màn / cảnh trong mối liên hệ chung của chúng, trong trường hợp này là cảnh thánh giá núi Sọ với cảnh tiệc cưới Ca-na, để thấy rằng, thoạt tiên Đức Giê-su bước ra khỏi gia đình Ngài, cho tới khi một gia đình mới xuất hiện trong giờ của Ngài – trên thánh giá -, và trong gia đình mới này Maria có một vị trí mới quan trọng.

Nhưng cả trong Ca-na, câu nói xem ra thô lỗ và mang vẻ từ chối kia cũng rất nhiều nghĩa. Với lời đó, Đức Giê-su muốn nói là Ngài bị trói buộc bởi giờ của Ngài. Có thể nói, Ngài không thể ưu tiên thoả mãn những nhu cầu gia đình được. Nhưng dù vậy, Ngài đã làm phép lạ và có thể nói đã hé lộ ra trước giờ của Ngài vì lời yêu cầu của Mẹ. Thoạt tiên bị từ chối, có nghĩa là Maria chỉ được trả lại chỗ cũ của mình – và rồi lúc này đây, Mẹ đồng thời lại xuất hiện như một phụ nữ đơn thuần, như là nguyên ảnh của Giáo Hội khẩn cầu, và rồi Giáo Hội, cũng như chính Maria, có thể xin tham dự trước giờ của Đức Ki-tô. Như vậy, đây là một bản văn rất sâu xa, người ta có thể còn suy nghĩ và nói nhiều về nó.

Hãy tạm rời tầng thần học cao sâu trở về với thực tại, tôi muốn nhắc lại một kinh nghiệm gặp được qua hình ảnh Maria. Có lần tôi tới thăm điểm hành hương Altötting ở Bayern. Trời lạnh, rảo qua công trường rộng, tôi bước vào căn Nhà Nguyện Ơn Lành nổi tiếng. Căn phòng chật cứng. Tứ phía đều có nến cháy, khung cảnh hơi âm u. Trong nhà nguyện toàn chỉ các bà. Họ cầu chung với nhau, và dĩ nhiên hát với nhau những bài ngọt ngào về đức Mẹ, như Ave Maria, Mater misericordiae, Ôi nữ vương thiên đàng, Mẹ nhân ái.

Thoạt tiên tôi cảm thấy hơi xa lạ và giữ khoảng cách, nhưng những bài hát dễ thương quá: “Chúng con khóc lóc kêu cầu danh Mẹ từ thung lũng nước mắt”. Và lạ lùng thay, bổng nhiên tôi cảm thông được với các bà. Có một cái gì rất thật, rất đẹp, tôi như bắt gặp được một chìa khoá mở tung tim mình ra để cảm giác hạnh phúc tràn vào. Có một cái gì như sức mạnh cứu độ toát ra từ những lời kinh cầu cổ xưa. Những cảm giác đẹp đó nói cho tôi hay là tôi không cô đơn, có ai đó đang ở bên tôi, người đó biết tôi, người đó mến tôi, người đó hiểu tôi. Và trong mọi tình huống khó khăn, người đó luôn ở bên tôi.

Tóm lại, tôi có cảm giác đó là một thứ ngôn ngữ không những trực tiếp đánh đúng vào chỗ yếu của mình, mà đồng thời, như người ta nói, có sức cứu độ. Và có lẽ việc tôn kính Maria cũng là một phản ứng chống lại cái tiến trình tục hoá trong Giáo Hội, với khuynh hướng muốn vứt hay đã vứt đi rồi một phần lớn khía cạnh linh thánh và thần bí của đức tin. Phải chăng đây là thái độ và hành động của những con người đơn sơ chống lại thứ tôn giáo của các vị giáo sư?

Tôi tin mình có thể nói được như thế. Hình ảnh Maria đã làm trái tim con người xúc động một cách đặc biệt. Không những đánh động trái tim phụ nữ, là những người hiểu và gần gũi Mẹ hơn, mà còn cả trái tim của những ông còn giữ cho mình hình ảnh về Mẹ và đức Trinh nữ. Môn thánh mẫu học đã tạo nên tiếng nói con tim của thế giới Ki-tô giáo. Ở đây, con người có thể cảm nghiệm một cách trực tiếp Ki-tô giáo như là một tôn giáo của lòng tin, lòng cậy. Và những lời kinh cổ, đơn giản kia, những lời lớn lên từ lòng sùng kính dân gian và không bao giờ mất tính chất tươi mát và lỗi thời, đã giữ con người ở lại trong niềm tin của họ, bởi vì nhờ những lời kinh gắn bó với đức Mẹ mà họ cảm thấy gần gũi với Chúa, họ cảm thấy đạo không phải là một gánh nặng, nhưng đạo là tin cậy và đỡ nâng giúp họ vượt qua mọi chông gai cuộc sống. Và ta cũng hãy nghĩ tới những lời kinh khác, chẳng hạn “Mẹ rất nhân ái, hãy nâng đỡ con”, nó gợi lên bao nhiêu là tín thác.

Thật ra, mặt khác, cũng có một thứ chủ nghĩa tinh lọc Ki-tô giáo, một thứ hữu lí hoá đã làm cho đạo bị đôi chút đông lạnh. Dĩ nhiên tình cảm luôn cần phải được kiểm soát và thanh lọc - ở đây ta cần phải công nhận vai trò của các giáo sư. Không được để cho mọi chuyện biến thành chỉ còn là tình cảm sướt mướt, khiến ta mất nền thực tế, làm cho ta không còn nhận ra được cái cao cả của Chúa nữa. Nhưng từ thời Ánh sáng trở đi – ngày nay ta cũng lại đang ở trong một thời Ánh sáng mới - ta chứng kiến một tiến trình hữu lí hoá và tinh lọc rất mạnh, khiến cho tâm con người phải chống lại nó và bám chặt vào thánh mẫu học.

Vị Hồng Y vĩ đại người Anh John Henry Newman* viết: “Người không công giáo có thói quen coi việc tôn kính Maria có hại cho Đức Giê-su”. Và ngày nay những người hoài nghi cũng xem việc tôn sùng Maria một cách quá đà khiến cho tâm điểm nền tảng của đạo, nghĩa là chính sứ điệp của Đức Ki-tô, bị lu mờ.

Ta không được phép quên điều này: Trong quá trình truyền giáo, Mẹ là khuôn mặt đánh động con người nhất và giúp họ hiểu được Chúa Ki-tô. Điều này đặc biệt đúng cho Nam Mĩ. Nơi đây Ki-tô giáo đã tới bằng gươm giáo của người Tây-ban-nha và có lúc vô cùng nghiệt ngã. Ở Mễ-tây-cơ, thoạt tiên Ki-tô giáo đã chẳng làm được gì – cho tới khi xẩy ra biến cố Guadeloupe, và qua Mẹ mà bỗng chốc người ta tới gần được với Chúa Con.



Biến cố đó là việc gặp được tượng đức Mẹ một cách lạ lùng. Người ta có thể nói, biến cố đó đã tạo nên một trang sử tuyệt đối mới, nếu không có nó thì việc truyền bá Ki-tô giáo trên lục địa này đã không thể xẩy ra.

Đúng, và bỗng chốc đạo Chúa không còn mang khuôn mặt hung ác của những tay thực dân nữa, mà là khuôn mặt dịu dàng của Mẹ.

Cho tới ngày hôm nay, ở Nam Mĩ có hai điểm sùng mộ: Yêu đức Mẹ và việc đồng hoá với Chúa Ki-tô chịu đau khổ. Đức tin của họ biểu tỏ qua hai khuôn dạng đó, và nhờ đó họ không còn xem Thiên Chúa là Chúa của những kẻ xâm lăng, nhưng là Thiên Chúa thật và cũng là đấng cứu độ. Vì thế đặc biệt dân công giáo ở châu Mĩ la-tinh rất trân quý đức Mẹ. Và ta không nên đứng từ quan điểm thuần lí của ta mà chê bai họ đã làm sai lệch Ki-tô giáo. Chính chỗ này họ đã nhận ra đúng đắn: Thiên Chúa là đấng muốn cứu độ ta, chứ không phải là Chúa của những người chiếm đóng. Nhờ vậy, họ đã có thể trở thành ki-tô hữu qua quá trình thấy và hiểu của chính họ, chứ không phải là phải chấp nhận chịu đựng đạo của kẻ xâm lăng.

Người tin lành xem ra từ lâu đã đẩy được đức Mẹ ra khỏi niềm tin của họ. Mẹ không còn quê hương nơi họ nữa, cho dù chính Luther trước đây chưa bao giò bỏ lòng tôn sùng đức Mẹ của ông. Đối với Giáo Hội công giáo, huyền thoại Maria chẳng phải là trò ảo thuật mà cũng chẳng phải là chuyện bên lề. Chính ngài đã thuộc vào cốt lõi của đức tin. Các bí mật của ngài còn được đóng ấn tín điều như là những sự thật không hề sai.

Phải nói thêm về chữ huyền thoại. Nếu nó muốn ám chỉ một chuyện vượt trên sự kiện thực tế, thì ta có thể dùng từ đó. Vấn đề quan trọng ở đây là ta đang có một câu chuyện thật, chứ chẳng phải là chuyện bịa đặt nào cả.

Một ghi chú về người tin lành: Đúng là đã có một khuynh hướng tinh lọc nơi họ. Ban đầu, người ta sợ rằng đức Mẹ có thể lấy mất đi một chút gì đó nơi Đức Giê-su. Và trong quá trình thanh lọc đó quan điểm “duy Ki-tô” đã dần trở nên quá khích đến nỗi người ta tin là có một tương quan cạnh tranh giữa hai vị, thay vì nhận ra rằng, qua khuôn mặt Mẹ, chính khuôn mặt của Đức Ki-tô hiện ra và lời đích thực của Ngài được sáng tỏ, như ta đã thấy qua thí dụ ở Nam Mĩ.

Ngày nay, có những nỗ lực dè dặt tìm về lại với mẹ Maria nơi người tin lành. Họ nhận ra việc xoá yếu tố nữ ra khỏi sứ điệp ki-tô cũng là một thiếu sót về mặt nhân chủng. Một người nữ hiện diện nơi tâm điểm Ki-tô giáo, xét về mặt thần học và nhân chủng học, là điều quan trọng. Qua Maria và các thánh nữ khác, yếu tố nữ đã đi vào tâm của đạo Ki-tô. Chẳng có chuyện cạnh tranh giữa hai khuôn mặt mẹ con, vì hai vị khác nhau trên nền tàng. Đức Giê-su đã trao Mẹ cho tất cả chúng ta qua Gio-an. Không phải cạnh tranh, nhưng là một thứ gần gũi sâu xa hơn. Đức Mẹ và đức Trinh nữ có chỗ đứng quan trọng trong nhân sinh quan Ki-tô giáo.



Каталог: KHANG

tải về 1.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương