Thiên Chúa và Trần Thế Hồng y Joseph Ratzinger Đgh bênêđictô XVI bản dịch của Phạm Hồng Lam



tải về 1.72 Mb.
trang2/22
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.72 Mb.
#3938
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22

KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN 

Thưa Hồng Y, chưa bao giờ trên thế giới người ta tìm về niềm tin Ki-tô giáo nhiều như vậy. Trong vòng 50 năm qua, số người công giáo đã tăng lên gấp đôi, trên một tỉ tín hữu. Nhưng trong nhiều nước thuộc vùng gọi là cựu thế giới, ta tiếp tục chứng kiến tiến trình tục hoá. Xem ra một phần lớn xã hội trong các quốc gia Âu châu hoàn toàn muốn chia tay với gia sản tinh thần mình. Những kẻ chống lại đức tin chửi Ki-tô giáo là „vô phúc“, và tìm cách thoát ra khỏi nó. Trong cuốn „Muối Cho Đời“ trước đây, chúng ta đã bàn kĩ vấn đề này rồi. Nhiều người sẵn sàng nhắm mắt đi theo trào lưu chống Đạo và chống Giáo Hội này. Lí do thường là vì con người đã đánh mất nội dung và dấu chỉ của đức tin. Ta không còn hiểu ý nghĩa của những gì trong đạo nữa. Giáo Hội chẳng còn gì để nói nữa sao?

Hẳn chúng ta đang sống trong một không gian lịch sử, trong đó cơn cám dỗ gạt bỏ Thiên Chúa đã trở nên rất mạnh. Văn minh kĩ thuật và mức sống phồn thịnh đưa ta tới khẳng định, là mọi chuyện có thể tự tay ta làm được. Khi nghĩ như vậy, đương nhiên ta hạn chế cuộc sống vào cái chúng ta có thể làm, có thể tạo ra, và có thể chứng minh được mà thôi. Như vậy, vấn đề Thiên Chúa chằng cần đặt ra nữa.

Nếu ta tổng quát hoá nhận định đó – lối nghĩ trên có sức quyến rũ rất mạnh, bởi vì việc nhìn lên Chúa quả thật đòi hỏi mình phải vươn lên một bình diện khác hơn, khả năng này xem ra trước đây dễ có hơn bây giờ -, thì rõ ràng ta chỉ còn có việc nói: Cái gì mà chúng tôi không làm được, thì cái đó cũng chẳng có. 

Hiện nay có khá nhiều nỗ lực xây dựng những nền đạo đức bất cần tới Thiên Chúa.

Đúng, ý hướng của những nỗ lực trên là đi tìm cái gì xem ra tối ưu cho nhân loại. Mặt khác, người ta cũng có những nỗ lực tìm cách bào chế hạnh phúc, nghĩa là xem việc đáp ứng nhu cầu nội tâm của con người như một sản phẩm có thể chế biến. Hoặc bằng qua các loại hình tôn giáo xem ra chẳng cần đức tin, đó là các phong trào huyền bí (Esoterik), mà chung qui lại, thường không gì khác hơn là những kĩ thuật tạo hạnh phúc.

Tất cả những hình thức muốn giữ thế giới cân bằng và muốn tự giải quyết cuộc đời mình nói trên rất gần với lối sống và sinh hoạt của thời đại chúng ta hiện nay. Các lời dạy của Giáo Hội, trái lại, bị xem là cổ lỗ, người ta cho rằng chúng đúng cho xưa mà không còn đúng cho nay nữa, hoặc vì chúng xuất phát từ một lối sống khác, xem ra hoàn toàn xa lạ với lối sống hiện tại. Giáo Hội rõ ràng chưa nhảy được cả hai chân vào thời hiện tại. Một công tác lớn đang chờ chúng ta, là phải làm sao đổ đầy kinh nghiệm sống vào những lời dạy quan trọng, tuy cũ nhưng còn giá trị, một cách cho người ta dễ đón nhận. Trước mắt chúng ta còn khối công việc phải làm. 

Hình ảnh về Thiên Chúa mà phong trào huyền bí đang quảng bá càng ngày càng lìa xa hình ảnh Thiên Chúa trong đạo Ki-tô và Do-thái. Họ bảo, các giáo trưởng (Rabbi) và linh mục, thậm chí cả Kinh Thánh, không phải là nguồn sứ điệp của Chúa. Vì thế, tốt hơn, con người nên nghe theo cảm quan mình. Họ nên thoát ra khỏi những trói buộc cổ hủ của các tôn giáo và tránh xa giới linh mục đam mê quyền lực, để trở về với cái hạnh phúc và cái toàn diện, như chúng đã được trù định ngay từ ban đầu cho con người. Nhiều điều nghe ra thật đầy hứa hẹn.

Quan điểm đó đánh trúng vào nhu cầu hiện tại của ta về tôn giáo và cả vào nhu cầu của ta muốn đơn giản hoá mọi thứ. Vì thế, tự nó có sức toả sáng và hứa hẹn thành công. Nhưng ta cũng phải hỏi: Sứ điệp đó được ai hay cái gì hợp thức hoá? Phải chăng vì nó xem ra dễ hiểu và có lí đối với ta nên nó được hợp thức hoá?  Dễ hiểu và có lí phải chăng là tiêu chuẩn đủ để ta chấp nhận một sứ điệp về Thiên Chúa? Hay cái dễ hiểu, có lí đó có thể là một cám dỗ đang mơn trớn ta? Nó chỉ cho ta lối đi đơn giản thật đấy, nhưng cũng ngăn cản ta nhìn ra thực tại.

Cuối cùng thì, theo sứ điệp trên, cảm quan chính là thước đo để ta ấn định ai là Thiên Chúa và ta phải sống thế nào cho nên. Nhưng cảm quan luôn thay đổi, và như vậy chính ta sẽ sớm nhận ra rằng mình đang xây nhà trên cát. Thoạt tiên, nó xem ra quyến rũ thật,nhưng cái đó rốt cuộc cũng chỉ là những ý nghĩkhả nghi của con người.

Cơ bản đức tin của chúng ta thì lại khác. Ở đây, không phải ta gặp một cái gì do mình tự nghĩ ra, nhưng là đón nhận một cái gì lớn lao đang tới với ta, lớn hơn những thứ do con người có thể nghĩ ra. 



Khoan: Đó là chuyện Giáo Hội dạy!

Cái đó được chứng thực qua lịch sử, và lịch sử đã lớn lên từ đó. Cũng có thể nói là Thiên Chúa đã tự thể hiện đi thể hiện lại trong lịch sử, và Ngài vẫn tiếp tục thể hiện trong đó. Tôi nghĩ, trong tập sách này, rồi ta sẽ biết thêm nhiều điều liên quan tới điểm này.

Rốt cuộc thì những điều Chúa nói với ta hay những gì ta nghĩ về Ngài đều không đủ đối với ta. Mà chuyện quan trọng là Ngài đã làm gì cho ta, đó là điều ta cần và là cái nền để ta có thể xác lập cuộc đời trên đó. Ở đây, ta có thể nhận ra, là không những chỉ có lời viết về Chúa, mà còn có một thực tế về Ngài. Không những chỉ có điều do con người nghĩ ra, mà còn có một cái gì đã xẩy ra; xẩy ra trong nghĩa chữ một cuộc khổ hình. Thực tế đó lớn hơn mọi từ ngữ, cho dù nó khó hiểu hơn. 

Đối với nhiều người, việc coi một kẻ bị án tử ở Palestin khoảng năm 30 là người “được xức dầu“, „được Thiên Chúa chọn“, là „Ki-tô“, và bảo người đó là tâm điểm của toàn bộ lịch sử, không những đó là chuyện khó tin, mà còn là một khiêu khích quái gỡ.

Có hàng trăm nhà thần học ở Á châu bảo rằng, Thiên Chúa quá lớn và quá bao trùm, không thể chỉ hiện thân trong một cá nhân được. Và quả thực, nếu việc cứu độ toàn thế giới chỉ hướng vào một điểm duy nhất mà thôi, thì đức tin có vì thế mà bị bó hẹp đi không?

Kinh nghiệm tôn giáo ở Á châu, một đàng coi Thiên Chúa quá lớn lao, đàng khác cho rằng khả năng hiểu biết con người lại quá hữu hạn, nên Thiên Chúa, theo họ, chỉ có thể trình bày bằng muôn vàn hình ảnh phản chiếu mà thôi. Và như thế, Đức Ki-tô có thể là một khuôn mặt biểu trưng đặc biệt của Thiên Chúa, một nét phản chiếu của Ngài, chứ hoàn toàn không phải là toàn thể bộ mặt của Ngài.

Xem ra đó là thái độ khiêm tốn của con người đối với Thiên Chúa. Người ta đã không tưởng tượng được Thiên Chúa lại có thể đi vào một cá nhân. Và với khả năng suy tư của con người, chúng ta có lẽ chẳng trông mong gì hơn, ngoài việc chỉ có thể cảm nhận được Ngài như một tia sóng nào đó, hay chỉ thấy được một phần nhỏ nhoi nào đó bộ mặt của Ngài mà thôi.   

Nghe không phải là không có lí.

Vâng. Đúng lí ra ta phải nói Thiên Chúa quá lớn, không thể đi vào một con người nhỏ nhoi. Ngài quá lớn để không một tư tưởng hay ngôn từ nào có thể diễn tả được. Ta chỉ có thể thấy và hiểu Ngài qua những kinh nghiệm đa dạng và mâu thuẫn. Mặt khác, sự khiêm tốn sẽ trở thành kiêu ngạo, nếu như ta không cho phép Ngài được tự do và có quyền lực yêu thương để trở nên bé nhỏ.

Đức tin Ki-tô giáo mang lại cho ta an ủi, là Thiên Chúa rất lớn, nhưng lại có thể trở nên bé nhỏ. Và chính việc Ngài có thể trở nên bé nhỏ, có thể cúi mình xuống, đã thực sự đi vào một con người, đã mặc lấy xác phàm nhân – không phải mặc như mặc một chiếc áo rồi lại cởi ra – và đã trở nên chính con người đó, đối với tôi, lại là một chiều kích hoàn toàn không ngờ về sự lớn lao của Thiên Chúa. Chính qua điều đó ta mới thấy chiều kích vô biên thật sự của Ngài, bởi vì nó dữ dội hơn, ngoài sức tưởng tượng hơn, và đồng thời cứu độ hơn mọi thứ khác.

Trong trường hợp khác, có lẽ chúng ta cũng phải luôn sống với nhiều điều không phải sự thật. Những mảng mâu thuẫn hàm chứa trong Phật giáo và Ấn giáo quả đã khiến họ đề ra giải-pháp thần bí phủ định (negative Mystik). Mà như thế thì Thiên Chúa trở nên phủ định – và như vậy, rốt cuộc Ngài cũng chẳng có gì để nói cho thế giới này trong chiều hướng tích cực và xây dựng cả. Thiên Chúa độc nhất mà ta tin, trái lại, là đấng có quyền thực hiện tình yêu bằng cách đi vào một con người. Ngài trở nên hiện diện và tỏ mình ra cho ta biết, bằng cách nhận ta vào chung bàn với Ngài. Và chính đó là điều chúng ta cần, để ta không phải sống và kết thúc đời mình trong những mảnh vụn, trong những chân lí nửa vời.  Điều này không có nghĩa là ta không còn học được gì nơi các tôn giáo khác. Cũng chẳng có nghĩa là đức tin Ki-tô giáo đã được đóng khuôn hoàn tất, chẳng còn có thể phát triển thêm. Đức tin Ki-tô giáo là cuộc phiêu lưu luôn gặp cái mới. Và sở dĩ đức tin đó vô tận, chính là vì chúng ta công nhận Thiên Chúa này có những khả năng bất tận.



Trên nguyên tắc, đức tin luôn nằm sẵn trong mỗi con người?

Nhìn vào lịch sử nhân loại cho mãi tới tận thời nguyên sử xưa nhất, mà ta biết được qua việc đào bới mộ cổ, ta có thể xác định rằng, tư tưởng về một Thiên Chúa đã luôn luôn hiện diện nơi con người. Người mác-xít tiên đoán tôn giáo sẽ chết. Họ bảo, hết đàn áp, thì người ta cũng chẳng cần tới liều thuốc thượng đế nữa. Nhưng chính họ cũng đã phải hiểu rằng, tôn giáo chẳng bao giờ chết, bởi vì nó có mặt thật sự trong tâm mỗi người.

Nhưng bộ phận cảm ứng nội tâm dành cho Chúa trong ta không đương nhiên hoạt động như một cái máy kĩ thuật. Mà nó là một thứ gì sống động, hoặc là cùng lớn lên với con người, hay là bị tê chai đến độ có thể gần như chết khô. Nếu nội tâm ta luôn làm việc với bộ cảm ứng đó, nó càng ngày càng trở nên sắc bén, sống động và nhạy cảm hơn – bằng không, nó sẽ teo lại và như bị vùi chôn dưới ảnh hưởng của thuốc tê. Tuy vậy, dù không tin, con người thế nào cũng phải trăn trở với một câu hỏi còn lại: có lẽ phải có một cái gì chứ. Không có bộ cảm ứng thâm sâu đó, không thể hiểu được lịch sử con người.     

Mặt khác, có hàng núi sách và bao nhiêu lí thuyết vững chãi tìm cách phủ nhận cái đức tin đó. Xem ra như có một đức tin chống lại đức tin, và đức tin phản chứng đó lại được rao truyền mạnh mẽ. Những cuộc thí nghiệm con người lớn nhất trong lịch sử cho tới nay, như chủ nghĩa quốc-xã, chủ nghĩa cộng sản, đã coi việc tin vào Thiên Chúa là chuyện nhảm nhí, và họ cố lôi niềm tin đó ra khỏi lòng người. Và đó chẳng phải là những nỗ lực cuối cùng.

Đức tin vào Thiên Chúa không phải là một kiến thức, mà tôi có thể học được, như tôi học toán hay hoá học. Mà nó vẫn là đức tin. Nghĩa là đức tin có một cấu trúc luận lí, ta sẽ bàn chuyện này sau. Đức tin không đơn giản là một thứ gì mờ mờ ảo ảo, mà tôi chỉ việc cứ yên tâm thả mình vào đó. Đức tin mang tới cho tôi nhận thức. Và có đủ lí do phải lẽ để ta bám vào nó. Nhưng nó không bao giờ là một kiến thức thuần tuý. Bởi đức tin đòi hỏi toàn lực đời sống - ý chí, tình yêu, bước ra khỏi mình - nên nó luôn vươn lên trên cái kiến thức thuần tuý, trên cái chứng minh cần thiết. Mà cũng vì thế mà tôi cũng luôn có thể lìa xa nó, và xem ra có đủ lí do để chống lại nó.

Có đủ thứ lí do chống lại đức tin, như anh biết. Ta chỉ cần nhìn nỗi đau khổ ghê gớm trên thế giới. Chỉ riêng cảnh này cũng đủ để phản chứng Thiên Chúa. Hoặc xem sự bé mọn của Ngài. Với người có đức tin, thì đó chính là nét cao cả, nhưng với người không thể và không muốn tin, thì đó lại là lí do để chống Ngài. Người ta cũng có thể tháo gỡ cái toàn thể ra thành những tiểu tiết. Có thể gạt bỏ những đoạn những câu trong Kinh Thánh, trong Tân Ước để chỉ còn lại vài chỗ, và một học giả giờ đây có thể nói: phục sinh là chuyện người ta mới thêm thắt về sau này, mọi thứ đều là bịa đặt, hoàn toàn chẳng đáng tin.

Vâng, mọi chuyện đều có thể. Bởi vì lịch sử và đức tin đều là những thứ mang tính người. Do đó, cuộc cãi vã về đức tin chẳng bao giờ chấm dứt. Cuộc cãi vã đó cũng chính là cuộc vật lộn của con người với chính mình và với Thiên Chúa, nó sẽ kéo dài mãi tới tận hoàng hôn của lịch sử. 



Xã hội tân thời không tin có một chân lí duy nhất. Vì khăng khăng ôm giữ yêu sách chân lí nên Giáo Hội bị thử thách nặng. Chính ngài cũng có lần nói, cơn khủng hoảng Ki-tô giáo nặng nề ở Âu châu hiện nay chủ yếu là một khủng hoảng về yêu sách chân lí. Tại sao?

Tại vì chẳng còn ai dám nói những gì đức tin dạy là đúng. Người ta sợ như thế là mình thiếu khoan dung, thiếu khoan dung cả đối với các tôn giáo hoặc niềm tin khác. Còn những ki-tô hữu thì kháo với nhau, không biết yêu sách chân lí của mình có cao quá không. Lối nghĩ đó, một mặt, có tác dụng chữa lành. Bởi vì, nếu ta vội vàng và dễ dàng chấp nhận chân lí và yên chí dựa vào đó, ta sẽ không những có thể trở nên độc đoán, mà còn dễ dàng gán nhãn hiệu chân lí cho những cái thuộc thứ yếu hoặc tạm bợ.

Cẩn thận trong việc tuyên xưng chân lí là đúng. Nhưng không được vì thế mà bỏ luôn niềm tin đó. Vì nếu như thế, ta chỉ còn lần mò trong các khuôn mẫu truyền thống khác nhau mà thôi. 

Dù sao, biên cương không còn thật rõ nét nữa. Nhiều người mơ về một thứ tôn giáo tổng hợp, trong đó mỗi người có quyền thêm bớt gia vị cho hợp khẩu mình. Càng ngày càng có sự phân biệt giữa tôn giáo „xấu“ và tôn giáo „tốt“.

Ý niệm Tôn giáo, lạ thay, gần như đã bị thay thế bởi ý niệmTruyền thống – và ý niệm Chân lí cũng bị kéo theo khuynh hướng này. Mỗi tôn giáo được xem là một truyền thống. Các truyền thống đều „đáng trọng“, „đẹp“, và người ta nói, ai đứng trong truyền thống nào thì nên coi trọng truyền thống đó và nên trọng truyền thống kẻ khác. Nhưng, nếu chỉ còn lại các truyền thống mà thôi, thì chân lí đương nhiên sẽ mất. Và, tới một lúc nào đó, người ta sẽ tự hỏi, tại sao lại phải có truyền thống. Và như vậy, người ta sẽ có lí do chống lại truyền thống.

Tôi luôn nghĩ tới câu của Tertullian*: Đức Ki-tô không nói, tôi là thói quen, nhưng : tôi là sự thật. Nói thế, Ngài không kết án thói quen, nhưng trái lại, Ngài bước ra từ những thói quen. Ngài muốn một cuộc lên đường, Ngài yêu cầu ta đi tìm cái gì là thật, cái gì dẫn ta đi vào thực tại của đấng Sáng tạo, của đấng Cứu chuộc, của chính sự hiện hữu của ta. Như vậy, ta phải coi sự cẩn trọng trước yêu sách chân lí như là một nhiệm vụ lớn, nhưng đồng thời cũng can đảm không để mất chân lí, cố vươn mình tới nó và khiêm tốn nhận lãnh với lòng biết ơn, khi được Chúa trao tặng nó cho ta.

HOÀI NGHI 

Có lần ngài đã kể lại câu chuyện của Martin Buber* về một giáo trưởng do-thái. Chuyện kể, hôm đó, có một nhà thông thái tới thăm vị giáo trưởng. Ông ta muốn chứng minh với giáo trưởng rằng không có chân lí đức tin, và việc tin vào chân lí là chuyện lạc hậu, đó chỉ là một thứ cặn bã sót lại của thời quá khứ. Nhà thông thái bước vào phòng giáo trưởng, thấy vị này tay cầm cuốn sách đi lại trong phòng đầy vẻ suy tư. Chủ nhà không để ý tới sự có mặt của khách. Sau một lúc, ông dừng lại, lén nhìn khách và nói: „Nhưng mà có lẽ điều đó có thật“. Thế là đủ. Chân nhà thông thái run bắn lên và ông phóng ra khỏi phòng như chạy trốn. Một câu chuyện hay, tuy nhiên: Hiện các linh mục vẫn không ngớt bỏ Giáo Hội, không ngớt nhà tu rời tu viện. Chính ngài có lần đã nói tới cái „sức mạnh o ép của không tin“.

Đức tin chẳng bao giờ là một cái gì sẵn có đó, để rồi một lúc nào đó, tôi có thể nói: tôi có đức tin, những kẻ khác không có. Chúng ta đã nói chuyện này rồi. Đức tin là một thứ gì sống động, nó kéo theo toàn bộ con người - lí trí, ý chí, cảm giác – trong hết mọi chiều kích. Nó có thể càng ngày càng cắm rễ sâu, đến nỗi cuộc sống tôi có thể ngày càng trở nên làm một với đức tin mình, nhưng dù vậy, nó chẳng bao giờ là một tài sản. Con người vẫn luôn có khả năng đi theo một hướng khác và vấp ngã.

Đức tin là một con đường. Bao lâu còn sống, ta còn trên đường, và vì vậy, đức tin vẫn luôn bị đe doạ và bị chèn ép. Mà cũng may là nó không trở thành một ý hệ có thể cầm lấy sử dụng. Cũng may nó không xơ cứng, khiến tôi mất đi khả năng đồng nghĩ đồng cảm với người bạn đang thắc mắc, hoài nghi bên cạnh. Đức tin chỉ có thể trưởng thành, khi trong mọi giai đoạn cuộc sống nó đủ sức chấp nhận và chịu đựng sức mạnh cũng như sự o ép của không tin, cuối cùng thắng vượt chúng, để lại bước đi tiếp trên một đoạn đường mới. 

Kinh nghiệm của ngài như thế nào? Cá nhân ngài cũng đã trải qua cái „sức mạnh o ép của không tin“?

Dĩ nhiên. Nhất là, khi với tư cách một giáo sư hay một thầy dạy đức tin trong tình trạng hoang mang tinh thần của thế kỷnày, mình phải chạm trán với nhiều câu hỏi thật nặng óc, phải đối diện với những kiểu sống đầy hứa hẹn thay thế đức tin, hay có thể đẩy đức tin ra rìa. Xem như thế, chuyện phải đón nhận những vấn nạn, phải chấp nhận những o ép của những gì chống lại đức tin và chuyện giữ vững tinh thần, là môt phần việc quan trọng trong nhiệm vụ của tôi.

Ngay cả khi mình chẳng muốn, thì những vấn nạn kia vẫn tới, chúng thông qua những tin tức, những sự kiện, qua tất cả những gì mở ra cho kinh nghiệm sống của một người. Một mặt, tất cả những thứ đó làm bước đường đức tin mình thêm vất vả. Nhưng rồi, khi thấy lại được ánh sáng, mình cảm thấy như đang leo núi, và cứ như vậy càng lúc càng thấy gần Thầy mình hơn. 

Tới một lúc nào đó mọi chuyện sẽ qua đi hết?

Không, chẳng bao giờ qua đi hết. 



Có khi nào ngay cả một giáo chủ cũng rơi vào hoài nghi hay không tin không? 

Không tin thì không, nhưng phải khổ sở vì những câu hỏi đè nặng lên đức tin thì có. Khi còn làm phó xứ ở München, tôi có một cuộc gặp gỡ khó quên. Linh mục chính xứ của tôi lúc đó là Blumscheid làm bạn với một mục sư của giáo xứ tin lành gần bên. Ngày nọ, giáo sư Romano Guardini* tới thuyết trình và hai ông quản xứ có dịp nói chuyện với ông. Không biết câu chuyện giữa ba người diễn ra như thế nào. Nhưng linh mục chính xứ sau đó chẳng thú vị gì kể cho tôi hay rằng giáo sư Guardini bảo, càng về già người ta càng gặp khó khăn hơn với đức tin, chứ không phải ngược lại. Guardini lúc đó khoảng 65, 70 tuổi. Dĩ nhiên, đó là kinh nghiệm đặc thù của một người mang nhiều u sầu và đã trải qua nhiều đau khổ. Nhưng, như tôi đã nói, chẳng bao giờ hết thử thách cả. Mặt khác, cuộc sống đâu đó cũng xem ra dễ hơn, khi ngọn lửa sống trong ta nhỏ lại theo tuổi tác. Song, bao lâu còn trên  đường, thì mình vẫn là trên đường. 



Có phải Giáo Hội công giáo biết tuyệt đối chắc chắn Thiên Chúa thật sự như thế nào, Ngài thật sự đã nói những gì, và thật sự Ngài muốn gì nơi con người?

Giáo Hội công giáo biết trong đức tin điều mà Thiên Chúa đã nói ra trong lịch sử mạc khải. Dĩ nhiên cái hiểu của ta – và cả của Giáo Hội – về Lời Ngài bao giờ cũng giới hạn. Vì thế mới có sự phát triển của đức tin. Mỗi thế hệ có thể khám phá ra từ hoàn cảnh sống mình những chiều kích mới, chiều kích mà ngay cả Giáo Hội trước đó cũng đã không biết đến. Chính Ngài cũng đã nói trước trong Tin Mừng Gio-an: „Thánh Thần sẽ dẫn dắt anh em vào sự thật, để anh em hiểu được những gì mà lúc này đây anh em chưa thể hiểu“. Điều này có nghĩa là luôn có một khoản “thặng dư“ chưa biết hết nơi mạc khải, không những đối với khả năng hiểu biết của một cá nhân, mà cả đối với vốn hiểu biết của Giáo Hội. Khoản thặng dư đó, vì thế, là một phiêu lưu mới cho mỗi thế hệ. 



Nghĩa là thế nào?

Nghĩa là chẳng bao giờ ta có thể nói: giờ đây tôi đã nắm được hết mọi sự trong đạo, việc tìm hiểu của Ki-tô giáo đã kết thúc. Bởi Thiên Chúa và cuộc sống con người là vô tận, nên luôn có những chiều kích mới. Giáo Hội, với những gì đã được trao ban, chỉ bảo đảm được điều gì không hợp với Tin Mừng mà thôi. Giáo Hội đã diễn tả những hiểu biết căn bản của mình qua kinh Tin kính và các tín lí. Tất cả những điều đó được diễn tả một cách phủ định. Chúng nói cho ta biết, đâu là biên giới, bắt đầu từ đâu ta có thể bị lạc. Còn phần gọi là nội địa thì rộng và luôn mở. Và vì vậy, Giáo Hội cũng có thể chỉ cho cuộc sống con người những hướng căn bản lớn, và cho biết đâu là hướng chắc chắn không được đi, nếu ta không muốn vấp ngã. Nhiệm vụ của mỗi cá nhân là nhìn ra và tận dụng những khả thể muôn vẻ trên đường mình đi. 



Tuy nhiên một số người bảo, Ki-tô giáo là đạo ít thực tế, nó nhắm nhiều hơn cho đời sau, nghĩa là một tôn giáo nhắm vào việc kiếm điểm cho trương mục đời sau.

Đúng, ki-tô hữu có nhắm đến đời sau. Nếu vất khoản đời sau đi, dự phóng cuộc đời ta sẽ trở thành một mảng kì lạ, một cái gì bị đứt đoạn. Nếu chỉ nhìn cuộc sống với chiều kích 70, 80 năm ta được phép có mặt mà thôi, thì đời người quả què quặt. Từ đó  nẩy sinh lòng tham sống. Nếu như chỉ có cuộc sống đời này mà thôi, thì đương nhiên tôi phải tìm mọi cách tiếm dụng cho mình được nhiều chừng nào có thể. Và như thế, tôi cũng chẳng cần quan tâm gì tới kẻ khác nữa.

Đời sau cung cấp cho ta thước đo, và làm cho cuộc sống đời này đáng sống, đáng trọng, để ta không chỉ sống cho hiện tại, mà làm sao cuộc đời mình cuối cùng trở nên một thứ gì đáng giá - không những cho riêng mình, mà cả đối với toàn thể. Thiên Chúa hằng nhậm lời không cất đi trách nhiệm nơi ta, nhưng Ngài dạy ta phải biết trách nhiệm. Ngài dạy ta biết sống trách nhiệm với những gì được gởi tới, để ngày sau ta có thể trả lời trước mặt Ngài. 

Đức Ki-tô nói: « Hãy xin, sẽ được. Hãy tìm, sẽ thấy. Hãy gõ, sẽ mở ». Mặt khác: Khi con tôi cầu Chúa giúp để làm bài tập ở trường, thì, thú thật, nó đã chẳng luôn được toại nguyện.

Người ta cầu nguyện, chẳng hạn, để được sức khoẻ ; mẹ cầu cho con; chồng cầu cho vợ ; người ta cầu cho dân tộc mình đừng lạc lối – và ta biết, những lời cầu đó không hẳn luôn được nhậm lời. Điều này có thể trở thành một thắc mắc lớn cho những ai đang ở trong cơn thập tử nhất sinh. Họ sẽ tự hỏi : Tại sao Chúa im tiếng ? Tại sao Ngài không trả lời lời cầu xin của tôi ? Tại sao Ngài ẩn mặt ? Tại sao tôi lại gặp điều trái ngược với những gì mình xin ?

Cái khoảng cách này giữa lời hứa của Đức Ki-tô và những gì con người kinh nghiệm được trong cuộc sống đã làm mọi thế hệ, mỗi người và cả chính tôi luôn phải suy nghĩ. Chính mỗi người chúng ta rồi cũng phải tìm ra cho mình câu trả lời, để cuối cùng hiểu được rằng, tại sao Chúa lại nói với ta như thế.

Tìm ra cho mình câu trả lời nào ?

Thánh An-tịnh và các giáo phụ khác nói, Chúa ban cho ta cái gì tốt cho ta nhất – cái đó có thể lúc này ta chưa biết được. Nhưng cái gì tốt nhất, thì ta lại thường nghĩ khác hẳn với Chúa. Có lẽ ta phải học chấp nhận những kinh nghiệm và đau khổ gặp trên đường đời, và coi đó như là thánh í của Ngài. Con đường Chúa nhiều khi là một con đường đáng sợ, nhằm uốn nắn và đổ khuôn lại đời ta, nhờ đó ta thay đổi và trở nên ngay thẳng thật sự.

Như vậy, câu « Hãy xin, sẽ được » chắc chắn không có nghĩa Chúa là cái kho để ta muốn lấy gì thì lấy, hầu lấp đầy chỗ trống của ta và làm cho đời ta thoải mái. Hay Ngài là kẻ sẽ cất đi đau khổ và những câu hỏi trong ta. Trái lại, nó có nghĩa là Chúa chắc chắn nhậm lời ta và sẽ ban cho ta những gì mà Ngài cho là phải, là đúng.

Trở lại trường hợp cụ thể lúc nãy : Có lẽ cũng tốt cho con anh, để nó tập hiểu rằng, Chúa từ ái không đơn giản ra tay giúp, khi nó không thuộc bài, mà chính nó phải tự nỗ lực học bài trước đã. Có thể cũng là liều thuốc đắng tốt cho nó, khi gặp một thất bại. Mà có lẽ nó cũng rất cần liều thuốc đó để tìm ra con đường nên đi. 



THAN TRÁCH CỦA JOB 

Nhà văn Joseph Roth, theo truyền thống xưa của Do-thái, đã tranh luận thẳng thừng với Chúa. Ông viết sau cảnh giết chóc của thế chiến thứ nhất : «  Chúa đã tạo ra hàng triệu người như con trong nỗi vô nghĩa rùng rợn của Ngài ». « Con không cần ân phúc của Ngài ! Hãy đưa con vào địa ngục », ông đã kêu trời đầy tuyệt vọng như thế.

Có lẽ tiếng kêu đó, trong truyền thống do-thái, mạnh hơn nơi ta, phần cũng là vì Đức Ki-tô chưa xuất hiện (nơi họ). Đức Ki-tô là Thiên Chúa đồng khổ, đấng hay cứu vớt tâm hồn, và là kẻ đã đi vào một cuộc sống cơ cực; Ngài không chỉ còn là một bóng dáng không thể hiểu nổi, như một Thiên Chúa đã xuất hiện trước mắt Gióp. Nhưng Ngài đã bước xuống tận đáy tầng sâu, như Thánh Vịnh viết về Ngài : « Tôi là một con giun đất, chẳng phải là người », một kẻ bị chà nát dưới chân.

Mỗi khi rơi vào túng quẫn, ta luôn đặt câu hỏi: Tại sao Chúa lại làm thế ?! Từ đầu, chúng ta đã nói rằng, khi ta thưa được với Chúa là ta chẳng hiểu gì về Ngài hết, thì trong nhiều trường hợp, đó cũng có thể là lúc ta bắt đầu cầu nguyện và bắt đầu khắc phục được khó khăn. Ta nói lên điều đó với niềm tin vững vàng, là Ngài sẽ cho ta câu trả lời đúng, bởi vì đấng bị đóng đinh - kẻ cũng gặp cơ cực và bất công như ta – luôn ở trước mặt ta. 

Điều này có thể tôi lầm, là tín hữu ki-tô có thái độ quá sùng tín đối với Thiên Chúa. An-tịnh nói : « Chúa ơi, con không đôi co với Chúa, vì Ngài là sự thật... Con không bắt đền Chúa... Nhưng, là bụi tro, con để cho lòng nhân từ Chúa nói »

Thánh An-tịnh là một người luôn đau khổ và không ngừng chiến đấu, ngài rất cảm kích về lòng nhân của Chúa. Lúc đầu ngài nghĩ, một khi trở lại đạo, mình sẽ phơi phới đi lên. Nhưng về sau, ngài nhận ra con đường đi lên đó quả vô cùng gian lao, và trên đường đó có nhiều bóng đêm thung lũng. Ngài bảo, ngay cả thánh Phao-lô cuối cùng cũng không tránh khỏi bị cám dỗ. Nói thế, hẳn An-tịnh muốn phóng rọi chính mình vào thánh nhân. Nhưng chính vì bị dằn vặt, nên An-tịnh mới nhìn ra lượng từ ái lớn lao của Chúa, và có thể nói với Ngài như một đấng nhân từ, mới dám chờ đợi sự che chở nơi Ngài, mới thấy bộ mặt hiền từ của Ngài, và không phải đôi co với Ngài.

Trong ý nghĩa đó, tôi tin rằng, bóng dáng Đức Ki-tô quả thật làm giảm đi ít nhiều nỗi đắng cay của cuộc sống đôi co của ta. Lòng nhân của đấng tạo dựng, mà Gióp trước đây chỉ mới thấy lờ mờ, giờ đây – qua Đức Ki-tô - đã hiện hình rõ nét. 

Trong cơn nguy khốn nhiều người quay về đức tin để tìm nâng đỡ. Đôi lúc họ được toại nguyện, nhưng cũng nhiều khi họ có cảm tưởng Chúa ẩn mặt, không hiểu sao Chúa không ra tay giúp khi họ cần Ngài.

Sách Gióp là tiếng kêu điển hình của con người trước kinh nghiệm quẫn bách của cuộc đời và về nỗi thinh lặng của Thiên Chúa. Và ngay cả về một Thiên Chúa xem ra bất công. Gióp thất vọng và bực tức, đến nỗi đã đổ trút lên Chúa tất cả những gì đè nặng tâm can và khiến ông đam ra hoài nghi về sự thiện của cuộc đời.

Vấn đề là cuộc đời có đáng sống không ? Chúa có tốt lành, Ngài có thật hiện diện và hay cứu giúp không ? Không ai thoát được những câu hỏi u tối đó. Nhưng cũng cần có những câu hỏi đó để ta luyện thân trong đau khổ, hầu thủ đắc cho mình một sự tự do và trưởng thành tâm hồn, và nhất là một nỗi cảm thông với tha nhân. Chẳng có một câu trả lời thuần lí, chẳng có một công thức rốt ráo nào có thể giúp ta giải thích được những vấn nạn trên. Bởi chưng, những gì thật sự đi vào làn da hay con tim ta đều mang một nội dung hoàn toàn khác, nội dung đó ta không thể dùng công thức trần gian để giải thích, nhưng nó rốt cuộc có thể được gột rửa nên trong nhờ kinh qua đau khổ của mỗi người.

Trong Sách Gióp, có những câu than trách như sau : « Người ta chia cho tôi những đêm đen đầy vất vả, tôi nằm xuống, tự hỏi, không biết bao giờ mình được phép đứng lên. Chiều tối, tôi no đầy rác rưởi... Chẳng bao giờ mắt tôi thấy được hạnh phúc ». Nếu nỗi đau tâm hồn đó không làm sao tránh khỏi, thử hỏi đức tin hẳn còn giúp được gì cho ta ?

Ta có quyền nêu lên câu hỏi đó, bởi khi tôi làm điều gì, thì điều đó phải có ý nghĩa. Người ta muốn biết: Điều tôi tin đó có đúng không ? Nó có mang một ý nghĩa nào hay thực ra chỉ là một sự giả dối? Nhưng câu hỏi đặt ra sẽ sai, khi người ta nhìn tất cả mọi thứ dưới khía cạnh cái tôi của mình, dưới tiêu chuẩn mình sẽ được cái gì trong đó. Vì như thế, người ta sẽ chỉ còn biết tham sống, chỉ còn biết có mình thôi, và như vậy, có thể họ sẽ chẳng hiểu gì nữa và đời họ rốt cuộc sẽ thất bại.

Đức Ki-tô có lần nói : Ai muốn được cuộc sống, kẻ đó sẽ mất nó. Và chỉ ai mất, sẵn sàng cho đi cuộc sống, người đó sẽ bước đúng hướng và có thể nhờ đó tìm lại được cuộc sống. Có nghĩa là, cuối cùng, ta phải quẳng đi câu hỏi: tôi sẽ được gì trong đó. Tôi phải học để hiểu ra rằng, quên mình là điều quan trọng. Tôi phải sẵn sàng cho mình đi. 

Nói thì dễ.

Nhưng tình yêu hôn nhân cũng vậy, nó chỉ thật sự phong phú và lớn lên, khi tôi sẵn sàng quên đi chính mình, sẵn sàng bước ra khỏi mình và trao mình cho một người. Và điều đó lại càng đúng trong quan hệ lớn lao giữa ta với Chúa, và chỉ từ quan hệ đó mà mọi quan hệ khác mới có thể nẩy sinh.

Như vậy, tôi không phải bắt đầu bằng cái nhìn về mình, nhưng phải tự hỏi, Ngài muốn gì nơi tôi. Tôi phải bắt đầu với việc học yêu, bằng cách quay ra khỏi tôi để hướng về Chúa. Từ hướng nền tảng đó, khi tôi không còn hỏi mình sẽ kiếm được gì, mà cứ đơn giản để cho Chúa dẫn dắt, để mất mình thật sự trong Chúa, quên đi chính mình, thì lúc đó tôi sẽ nhận ra, à thì ra như vậy đời tôi mới đúng hướng, chứ nếu mà cứ chỉ bo bo cho mình thôi, thì cuộc sống eo hẹp quá. Một khi tôi đã ra được « ngoài trời » rồi, thì mọi sự mới bắt đầu, chiều kích lớn lao của cuộc sống mới thật sự khởi đầu.   

Bắt đầu từ đây có lẽ con thuyền sẽ xuôi chèo mát mái dài dài.

Đây là một con đường, dĩ nhiên, không phải ngày một ngày hai có thể đạt được. Đức tin không tạo nhanh hạnh phúc. Và đây có lẽ là một trong những nguyên nhân khủng hoảng đức tin ngày nay, là vì chúng ta muốn có ngay lạc thú và hạnh phúc, mà không dám nhảy vào cuộc phiêu lưu kéo dài cả đời người – trong niềm tin tưởng mạnh mẽ rằng, bước nhảy đó sẽ không rơi vào khoảng không, nhưng đó căn bản là một hành vi tình yêu, mà chúng ta được tạo dựng là cho hành vi tình yêu đó. Và chính nhờ bước nhảy đó mà ta đạt được điều mong muốn: yêu và được yêu, và như vậy gặp được hạnh phúc đích thực.



Каталог: KHANG

tải về 1.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương