Thiên Chúa và Trần Thế Hồng y Joseph Ratzinger Đgh bênêđictô XVI bản dịch của Phạm Hồng Lam



tải về 1.72 Mb.
trang6/22
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.72 Mb.
#3938
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22

THIÊN CHÚA MUỐN GÌ?

Thánh Clê-men-tô*Alexandria, một trong những giáo phụ lớn của Giáo Hội, có lần nói: « Thiên Chúa vì con người mà dựng nên con người, và Ngài muốn có con người ». Vậy, nếu Chúa là tình yêu nhưng không, thì tại sao Ngài lại cứ bắt ta tôn thờ và ngợi ca?

Đức thánh cha Gio-an Phao-lô II đã dùng lại câu « vì con người mà dựng nên con người » nhiều chỗ khác nhau trong các thông điệp của ngài. Ngài dùng câu đó dựa theo í của Immanuel Kant* và suy diễn thêm theo một cách mới. Kant nói, con người là vật duy nhất mang trong chính mình một mục đích, và không phải trở thành mục đích cho một cái gì khác. Giáo chủ thì nói : Thật ra, con người mang trong chính mình một kết thúc, và về phần nó, nó lại không phải là mục đích cho một cái gì khác.

Điều đó cũng là thành trì chở che vững vàng cho mỗi con người. Bởi vì Thiên Chúa tạo hoá muốn rằng, không ai có quyền dùng kẻ khác như một phương tiện - dù kẻ đó nghèo hèn hay yếu kém-, cho một mục đích nào đó cao hơn. Ngày nay, trước những thí nghiệm con người, ngay cả việc thí nghiệm phôi thai, điều đó đã trở thành một chân lí cao trọng, nó trở thành một thành trì bảo vệ rất quan trọng cho phẩm giá con người. Nhân quyền chẳng là gì khác ngoài việc không được biến con người thành phương tiện, nhưng là để cho họ có được một phẩm giá bảo toàn. Nhưng sự kiện đó không có nghĩa là con người hành động đúng, khi nó tự khép kín, khi nó chỉ biết có mình nó mà thôi. Con người là một vật tương giao.

Nghĩa là gì ?

Trước hết, con người được dựng nên để hướng về tình yêu, hướng về giao tiếp với người khác. Nó không phải là vật chỉ sống cho mình, chỉ biết có mỗi mình mà thôi, không phải là một ốc đảo, nhưng bản chất của nó là giao tiếp. Không có giao tiếp, nó sẽ tự huỷ. Và con người giống Chúa là chính chỗ đó. Là vì, như giáo huấn về Chúa ba ngôi dạy, bản chất của Chúa cũng là tương giao. Như vậy, tương giao của con người trước hết là tương giao giữa người với người, nhưng đó cũng là tương giao với cái vô cùng, với chân lí, với chính tình yêu.



Đó là điều bắt buộc?

Tương giao đó hẳn không hạ giá con người. Nó không biến con người thành phương tiện, nhưng trao cho con người tầm lớn của nó, vì chính con người ở trong một tương giao trực tiếp với Chúa và con người trực tiếp được Chúa muốn. Vì thế, không được phép nhìn việc thờ phượng Chúa như là một công việc bề ngoài, như thể đó là chuyện Chúa muốn, hoặc như thể là Chúa cần những nịnh bợ. Chuyện đó xem ra trẻ con, thật khó chịu và buồn cười.



Vậy thì thế nào?

Thờ phượng hiểu đúng nghĩa, là tôi sống đúng với bản chất tương giao của con người tôi, như vậy là tôi sống đúng với mục đích hiện hữu của đời tôi. Và đó là một cuộc sống theo í Chúa, nghĩa là đi tới đồng í với chân lí và với tình yêu. Đây không phải là ta làm một cái gì để Chúa cũng được vui. Thờ phượng nghĩa là chấp nhận đường bay của mũi tên cuộc đời mình. Chấp nhận rằng mục đích của đời tôi không phải là cho chính mình, nhưng tôi phải vươn lên trên mọi mục tiêu khác. Nghĩa là vươn tới hợp nhất với đấng muốn tương giao với tôi, và đấng đó đồng thời cũng để tôi hoàn toàn tự do trong hành động mình.



Và đó thật là điều Chúa muốn nơi ta ?

Đúng.


3 - TẠO DỰNG

KHỞI THỦY LÀ LỜI

Sách Khởi-nguyên viết: „Khởi đầu Thiên Chúa dựng trời và đất. Đất thời trống không mông quạnh, bóng tối bao trùm lũ lụt, và thần khí Chúa là đà trên mặt nước. Chúa phán: Hãy có ánh sáng! Và đã có ánh sáng“.Chẳng ai trong chúng ta có mặt lúc trái đất hình thành. Một truyền thuyết cổ do-thái kể rằng, Đấng toàn năng lúc đó đã tạo dựng thế giới chúng ta gần đúng i như những gì viết trong Kinh Thánh. Người ta kể, Chúa nhìn vào kinh Thora, và đã dựng thế giới theo mẫu cấu trúc trong đó. Và cả Gio-an cũng bắt đầu Tin Mừng của mình bằng câu: „Từ khởi thuỷ là Lời“.

Vâng, quả thật Khởi-nguyên và Tin Mừng Gio-an đã quyện vào nhau, cái này giải thích cái kia. Thời Do-thái giáo cổ, nghĩa là đương thời Đức Giê-su, người ta nghĩ Thora đã có trước lúc thế giới vật chất được tạo dựng. Có thể nói, trái đất là chỗ ở đã được xây lên cho Thora. Điểm này ta thấy có vẻ ngây thơ, nhưng trong đó chứa đựng một tư tưởng rất lớn, đó là thế giới có một ý nghĩa tinh thần.

Thế giới được tạo dựng, là để có chỗ cho Thiên Chúa nối kết với con người. Có thể nói, nó được hình thành theo cấu trúc nội tâm của giao ước, và Thora được ví như là chứng thư của giao ước và của cô dâu. Gio-an đã cố tình lấy lại câu đầu của Thora: „Từ khởi thuỷ Thiên Chúa dựng nên trời và đất“, vâng, có thể nói Gio-an đã tóm cả câu chuyện tạo dựng vào một câu duy nhất: „Từ khởi thuỷ là Lời“.

Nghĩa cụ thể của câu đó ra sao?

Câu của Gio-an cũng là một chìa khoá quan trọng để diễn giải trình thuật Khởi-nguyên. Nó cho ta thấy, mọi yếu tố trong trình thuật tạo dựng đều là hình ảnh cả.



Thiên Chúa phân biệt ngày và đêm, Ngài làm ra trời và đất, chim trời và cá biển…

Các yếu tố hình ảnh cho thấy thế giới là tạo dựng và nó bắt nguồn từ Logos, nghĩa là „ý nghĩa “ hay „Lời“. Logos là „lực chuyển tải ý nghĩa“. Xưa kia trong thế giới hi-lạp và do-thái cổ, Logos là một từ nguồn cội quan trọng, nó vừa có nghĩa là tư tưởng, vừa có nghĩa là lời nói. Nói cách khác: Thiên Chúa này không chỉ là tư tưởng mà thôi, nhưng Ngài đồng thời là lời nói, là hành động. „Khởi đầu là Lời“ có nghĩa là thế giới có sau ý nghĩa tinh thần, nghĩa là có sau tư tưởng về thế giới. Có thể nói, thế giới là kết quả vật chất hóa của tư tưởng và của cái ý tưởng cội nguồn mà Chúa mang trong Ngài, và Ngài đã biến thế giới thành không gian lịch sử giữa Chúa và thụ tạo của Ngài.



Gần đây, các hiểu biết khoa học đã chiếu một ánh sáng mới trên những phát biểu Kinh Thánh. Một giáo sư giải thích cho tôi hay, di tử con người được viết ra như một thứ cuốn sách, hay nói đúng hơn, một cuộn chữ. Cuộn này bao gồm mọi thông tin khơi nguồn sự sống, dù sự sống đó là người, vật, tế bào hay siêu vi khuẩn. Các nhà khoa học đã đặt tên cho các yếu tố hoá học của di tử là A, C, G và T. Quả thật lạ lùng, vì mọi chữ trong cuộn đó đều hình thành do bốn vần đó mà thôi. Tổng số di tử của con người, gọi là Genom, như vậy quả là một cuốn sách, một cuốn sách với không biết bao nhiêu là câu. Cuốn sách về lịch sử sự sống này, theo giáo sư trên, „trước đây hàng tỉ năm đã được viết ra chỉ một lần mà thôi, và chữ đều thống nhất“.

Quả đó là một trong những hình ảnh quan sát mới mà khoa học đã cung ứng cho ta. Nhờ chúng, có thể nói, ta nhận ra được cơ cấu vần chữ của tạo dựng. Người xưa cũng đã từng nói tới cơ cấu toán học của thế giới, cơ cấu này giờ đây đã được xác nhận. Như vậy, Lời quả thật là lực tạo thành, và tạo dựng có thể hiểu như là sự cụ thể hoá và việc tự mở ra của một chứng thư đã có.



TUYỆT ĐỈNH TẠO DỰNG

Để có thể hiểu được các chiều kích thời gian của tạo dựng, có người đã ví toàn bộ tuổi trái đất là một năm. Theo đó, mồng 1 tháng 1 là ngày hình thành địa cầu. Mồng 1 tháng 4 – quả đúng ra là sau khoảng 3,4 tỉ năm – xuất hiện sự sống của các loại đơn bào trên hành tinh. Mãi tới ngày 27 tháng 11 mới xuất hiện chú cá đầu tiên, và các chú khủng long có mặt vào ngày 12 tháng 12. Hẳn là Chúa yêu thương mọi loài lắm. Chúng làm chủ địa cầu suốt khoảng 150 triệu năm, và không phá hoại mặt đất gì cả.Cuối cùng xuất hiện các loài có vú ngày 27 tháng 12, nghĩa là cách đây 15 đến 20 triệu năm. Lịch sử của con người khôn ngoan (Homo sapiens) mới có cách đây 150.000 năm. Tuyệt đỉnh tạo dựng có mặt, như vậy, tương đối trễ.

Trước hết, tất cả những con số đó đều là ước định. Tuy chúng có nền tảng khá vững, nhưng ta không được tuyệt đối hoá chúng. Dù thế, tôi thấy niên biểu đó rất quan trọng, vì nó phù hợp với những gì Kinh Thánh và các giáo phụ đã nói, nghĩa là tiêu đích của nó cũng sẽ xuất hiện khi thời gian kết thúc.

Đặc biệt về Đức Ki-tô, khuôn mẫu toàn vẹn của con người, kinh sách viết là Ngài sẽ tới khi thời gian viên mãn. Kinh Thánh cho ta thấy hình ảnh về một toàn bộ lịch sử diễn ra trước chúng ta, mà ta không thể mường tượng được ý nghĩa từng chi tiết của nó. Lịch sử này hẳn không chỉ là sự chuẩn bị cho cái sẽ tới. Bởi vì nhiều thứ sẽ lại biến mất hoặc cho thấy đó là một quá trình chuyển tiếp. Nhưng rõ ràng đây là một con đường dài vô cùng và cuộc phiêu lưu của loài người sẽ xuất hiện như một thứ chung kết.

Câu hỏi thêm: Chúng ta còn bao nhiêu thời gian nữa?

Ta không thể trả lời được. Chỉ biết rằng cái chung kết đó, từ nội tại, đã nằm sẵn trong kế hoạch, nhưng sẽ được đưa ra áp dụng khá trễ, và có thể nói, nó sẽ thâu tóm tất cả vào mình.



Nếu là Thiên Chúa yêu thương và nếu Ngài yêu hết thảy chúng ta, thì tại sao Ngài lại tạo ra chúng ta quá khác nhau như vậy? Người này xinh đẹp và được mến mộ, kẻ kia cô đơn. Người này khôn và giỏi giang, kẻ kia phải chiến đấu nhọc nhằn mới thành công. Chưa nói tới những người sinh ra trong cảnh tật nguyền. Phải chăng đó là do lỗi của chính mỗi người?

Chắc chắn không, vì như vậy có nghĩa là ta có thể chuẩn bị trước cho cuộc sống về sau của mình. Mặt khác, quan niệm luân hồi cũng hoàn toàn không giải thích được tính duy nhất và trách nhiệm của con người. Không, ta không biết được. Ta chỉ có thể nói điều này: Thiên Chúa đã dựng nên một thế giới đa dạng, đa dạng này đã có nơi con người và cả trong giai đoạn trước con người rồi. Điều này không nhất thiết mang tính tiêu cực. Người không có khiếu toán, có thể rất giỏi về nghệ thuật. Kẻ yếu mặt trí thức, có thể có tay nghề giỏi trong lãnh vực thủ công.

Tôi tin rằng, có lẽ nền giáo dục khuôn thước của ta quá một chiều, chỉ chú trọng huấn luyện điều con người có thể làm được mà thôi. Trở đi trở lại cứ lấy cái gọi là chỉ số thông minh mà đo, nhưng chỉ số này cũng chỉ giúp nắm bắt được một loại thông minh nào đó mà thôi. Chúng ta nhận diện con người qua khía cạnh khả năng hay thành công, mà bỏ quên kho tàng các năng khiếu khác, tất cả những năng khiếu này cũng đều có ý nghĩa, giá trị và vai trò của chúng.

Dĩ nhiên cũng có những trường hợp tiếp biên, bị thiệt thòi thật, đó là những người tàn tật, hay những người lớn lên trong bần cùng, không bao giờ có được môi trường để thăng tiến. Ở đây, chúng ta lại gặp lại câu hỏi, tại sao trên thế giới này có nhiều khổ đau đến thế. Nhưng, ta chưa cần vội tìm câu trả lời, mà hãy khẳng định rằng, không phải người tàn tật là tạo vật đáng lẽ không nên có. Ngay chính cái tàn tật làm cho người đó có một giá trị riêng. Và Đức Ki-tô, người đã để cho người ta đóng mũ gai lên đầu và đã tự ví mình là sâu bọ chứ chẳng phải người, cũng đã tự xếp mình vào đoàn người tàn tật đó, và họ đã mang tới cho nhân loại một sứ điệp. Là những kẻ khổ đau, những kẻ đòi hỏi tình yêu của ta cũng như sẽ tặng lại ta trong tình yêu, họ có thể có một sứ mạng đặc biệt trong một cách thế đặc biệt, – nếu như ta chịu khó tỉnh thức để nhận ra điều đó.



Có đủ lí do để gọi con người là tuyệt đỉnh tạo dựng. Chúng ta đã phát minh ra 19.000 ngôn ngữ. Chúng ta hát nhạc kịch và chơi những nhạc cụ do ta tạo ra. Chúng ta vượt qua những khoảng cách diệu vợi. Nhưng mặt khác, tuyệt đỉnh tạo dựng đó nhiều khi cũng hiện thân như những tạo vật khát máu, không ngừng biến nhà mình thành lò sát sinh. Đau khổ này chưa dứt thì đã gây nên đau khổ khác. Chiến tranh này chưa xong, thì đã chuẩn bị cuộc chiến khác. Và nạn nhân hôm qua, nay trở thành thủ phạm.

Anh đã nói lên toàn bộ nỗi căng thẳng và toàn bộ tấn bi kịch của kiếp người. Không ai chối cãi được nét cao cả của con người. Tạo vật tí hon này, so với các tạo vật khác về mặt sinh lí, thuộc vào hàng những tạo vật nghèo nàn và kém sinh hoạt giác năng (đây cũng lại là cái lớn lao trong sự nhỏ bé), nhưng nó đã có được những khả năng để tìm hiểu vũ trụ. Với đôi mắt, con người có thể nhìn thấu vào vũ trụ, và từ vũ trụ lại nhìn lại được những chi tiết sự sống mình. Như thế, có thể nói, con người đã tiến sâu được vào trong giếng sâu hữu thể, để có thể tự tái cấu trúc nó hoặc sử dụng nó một cách có ý nghĩa và làm phát triển nó tiếp.

Tôi tin rằng, cái lớn lao - và dĩ nhiên cả cái khả năng gẫy đổ - của con người chưa bao giờ hiện rõ như lúc này. Bởi vì tạo vật càng lớn, nó càng phải đối diện với nhiều hiểm nguy. Và các khả thể lẫn sức mạnh và khả năng của nó càng lớn chừng nào, thì các nguy cơ ẩn tàng trong nó có thể càng lớn chừng đó. Một con muỗi có thể làm hại trong chừng mực khả năng của muỗi, không hơn không kém. Nhưng con người nắm trong tay với cả nhân loại toàn bộ khả năng tàng ẩn trong nó.Do đó, nó có thể bày ra những cách phá hoại vượt xa các loài khác.

Đó là cái mâu thuẫn nội tại của con người. Con người được kêu mời trở nên cao cả, nhưng tự do của nó có thể khiến nó muốn chống lại Chúa, muốn trở nên Chúa, khiến nó có thể trở nên một đe doạ thật sự. Tự do đó có thể chính là cái vấp ngã của nó, biến nó trở thành một con quỷ phá hoại.

Đôi khi, chúng ta muốn nói với Chúa thế này: Giá mà Chúa dựng nên con người bớt cao cả đi một chút thì hay biết mấy, bởi vì nó sẽ bớt nguy hiểm hơn. Nếu như Chúa đừng cho nó tự do, thì nó có thể đã không sa ngã nặng nề như thế. Nhưng rồi cuối cùng ta đã không dám nói lên điều đó, bởi vì ta phải cám ơn Chúa, vì Ngài đã dựng nên điều cao cả. Và cho dù Chúa có nhận vào Ngài hết mọi cái nguy cơ của tự do con người và tất cả những vấp ngã của tự do đó, thì ta cũng có thể bị choáng váng trước những sa ngã có thể xẩy ra, và phải gắng dốc toàn lực để chống trả lại chúng, nhưng đồng thời ta cũng phải nói lên niềm tín thác nền tảng sẵn có của ta nơi Chúa. Và chỉ trong tư thế bám chặt vào niềm tín thác đó ta mới có thể chống trả được những nguy cơ của con người và có thể chịu đựng được chúng.

Khi Chúa tạo nên địa cầu, Ngài dựng nên nó như một phần của hệ thống mặt trời, hệ thống này lại là thành phần của một hệ thống ngân hà gồm một trăm triệu ngôi sao vận hành trong vũ trụ, giữa một đại dương vô tận với vô số dải hành tinh tương tự. Hệ thống hành tinh gần chúng ta nhất cách khoảng hai triệu năm ánh sáng. Có thể tưởng tượng được rằng, đâu đó trong vũ trụ bao la ngoài hành tinh tí hon của ta, còn có sự hiện diện của các tạo vật của Chúa, mà có thể cũng giống như con người?

Phải chăng chúng ta không cô độc trong vũ trụ hành tinh bao la này, tư tưởng này không xa lạ. Chúng ta cũng không thể gạt bỏ tư tưởng đó một cách dứt khoát, bởi vì ta không biết được hết tầm xa của ý nghĩThiên Chúa và của tạo dựng. Nhưng thực tế cho tới lúc này, mọi nỗ lực tìm ra các tạo vật khác đã không thành công. Mới đây, có một quan điểm rất khoa học bảo rằng, có lẽ không có sự sống cao cấp ở ngoài hành tinh của ta. Jacques Monod chẳng hạn, một tác giả trước đây không phải là ki-tô hữu, nói rằng, theo những kiến thức khoa học về thế giới mà chúng ta biết, thì xác xuất có sự sống ngoài hành tinh quá thấp đến độ không thể có được.

Ta chỉ có thể nói được là: Ta không biết. Cho tới lúc này vẫn chưa có một cứ điểm nào cho thấy có thể có sự hiện hữu các tạo vật như thế.

Tuy nhiên, ta biết một cách chắc chắn, là Chúa coi con người trên địa cầu hạt bụi này quan trọng đến nỗi chính Ngài đã sống và đã gắn bó đời đời với địa cầu này. Điều đó rốt cuộc cũng tương ứng với khuôn mẫu hành động của Chúa, mà chúng ta biết. Chúa luôn nâng cao những gì xem ra tầm thường, và tỏ hiện ra cho con người qua cái xem ra như chỉ là hạt bụi, hoặc như ở Na-da-ret, trong một địa danh hầu như không có trên trái đất. Như vậy, Chúa luôn nắn đi sửa lại tiêu chuẩn của ta. Ngài cho thấy cái mênh mông của lượng có một độ lớn hoàn toàn khác với cái mênh mông của con tim, như Pascal* cũng đã nói. Lượng có độ lớn không thể chối cãi của nó, nhưng điều cũng quan trọng, là lượng đó - chẳng hạn như độ dài bất tận của vũ trụ - cũng chỉ là tương đối. Một trái tim biết cảm thông và yêu thương cũng có một độ lớn vô cùng khác. Độ lớn này khác hẳn độ lớn của mọi lượng số với sức mạnh dữ dội trong chúng, nhưng dù vậy, nó không nhỏ hơn.



Nếu ta có bà con trong vũ trụ, thì Chúa đã cho biết qua mạc khải của Ngài rồi?

Không nhất thiết, vì Ngài không muốn kể hết cho ta mọi thứ đang có. Mạc khải không có mục đích cung cấp cho ta một nhận thức đầy đủ về ý nghĩcủa Chúa và về vũ trụ. Một trong các sách Khôn ngoan mà các giáo phụ hay trích, có câu: Chúa trao thế giới cho ta tranh luận. Hiểu biết khoa học có thể nói là cuộc phiêu lưu, mà Chúa để lại cho chính chúng ta. Trái lại, trong mạc khải, Ngài chỉ cho ta hay cái gì thật quan trọng cho cuộc sống và cái chết mà thôi.



Giáo huấn Ki-tô giáo chia thế giới ra làm hai, thế giới hữu hình và vô hình. Giáo huấn đó nói tới cái „trên“ và „dưới“. Nghĩa là thế nào?

Trên và dưới dĩ nhiên chỉ là hình ảnh giúp ta dễ hiểu mà thôi. Trợ cụ này có thể khiến nhận thức của ta trở nên ngây thơ mang tính thuần vật lí, làm ta quên mất cái nền tảng. Nhưng hình ảnh trên dưới tự nó vẫn có giá trị. Nó dạy ta biết có chiều sâu chiều cao, biết có nhiều cấp sống, biết có cái lớn cái bé, biết có cái chiều cao đích thực, biết có Chúa hằng sống.

Ta cũng kinh nghiệm được cái vô hình và hữu hình một cách cụ thể. Có những lực, tuy mắt ta không thể thấy, nhưng chúng vẫn thực tế hiện diện. Cứ xem những điều liên quan tới trí tuệ và con tim thì biết. Nhìn vào mắt một người, nhìn lối biểu tả hay nhìn một cái gì khác nơi họ, tôi có thể thấy được nội tâm họ, nhưng thấy như một phản xạ từ đáy sâu tâm hồn. Như vậy, nhờ những cái vật chất mà cái vô hình được sáng tỏa, qua đó chúng ta biết chắc chắn có cái vô hình, và cái đó kéo chúng ta theo hướng nó. Dù sao, những lực vô hình, mà ta cảm được qua tác động của chúng, giúp ta hiểu được rằng, thế giới còn sâu xa hơn những gì con mắt và giác quan có thể thu nhận.

Trong Kinh Thánh Cựu Ước có những dạng hình đầy bí ẩn liên quan tới cái „trên“ và „dưới“, cái „ vô hình“ và „hữu hình“. Những dạng hình đó xuất hiện như là sứ giả của Chúa hoặc như là „thiên thần của Chúa“. Trong số các thiên thần, có ba vị tổng lãnh có danh gọi hẳn hoi. Đó là thiên thần Mi-ca-el (tên có nghĩa là „Ai giống như Chúa“?), Ra-pha-el („Chúa cứu độ“) và Ga-bri-el („Chúa phù-trợ“). Trước đây, trường học dạy cho chúng tôi hay, thiên thần là đấng thiêng liêng, biết nghe và biết muốn. Điều này có còn đúng không?

Đúng, vẫn luôn đúng. Kinh Thánh nói cho ta hay điều đó, và con người tự thâm tâm, một cách nào đó, cũng biết rằng không phải chỉ có họ là thụ tạo linh thiêng mà thôi. Chúa cũng phủ đầy thế giới với các tạo vật linh thiêng khác, các tạo vật này giống ta, bởi vì kì cùng thì toàn bộ thế giới của Ngài cũng chỉ là một. Các thiên thần cũng là dấu chỉ sự phong phú, sự cao cả và lòng từ ái của Chúa. Như thế, thiên thần có mặt thật sự trong vũ trụ quan Ki-tô giáo, các ngài là những tạo vật của tạo dựng, nhưng mang dạng hình khác, phi vật chất. Với tính thiêng liêng, các ngài hiện diện trong một không gian sống động quanh Chúa, nơi chúng ta cũng sẽ được đưa vào.



Trong vương quốc thiên thần, theo lời dạy của Giáo Hội, không chỉ có các tổng lãnh và các Ke-ru-bim lẫn Se-ra-fim, mà còn có các thiên thần bản mệnh. Lạ thật, mỗi người có một thiên thần bảo vệ, và người đó còn có thể cộng tác với thiên thần đó!

Đó là một niềm tin đã hình thành nên trong Giáo Hội, và niềm tin đó có lí lẽ vững vàng. Không ai buộc phải tin, vì điều đó không mang tầm mức chắc chắn như các lời dạy về Đức Ki-tô hay về mẹ Maria, chẳng hạn. Nhưng nó thuộc vào những xác tín tại tâm, đã dần dần lớn lên với kinh nghiệm Giáo Hội. Kinh nghiệm đó cho ta hay, một cách nào đó, Chúa đã gởi tới cho ta mỗi người một vị đồng hành để hỗ trợ ta. Dĩ nhiên không phải ai cũng có một xác tín nội tâm như nhau về điểm này.



Ngài có biết vị bản mệnh của ngài không?

Không. Cám ơn Chúa đã cho tôi tin có thiên thần bản mệnh. Nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy có liên hệ trực tiếp với Chúa hơn. Về điểm này, mỗi người mỗi khác, tuỳ tánh khí. Có những người gần thiên thần bản mệnh hơn, và cảm thấy rất được ngài ủi an. Điều quan trọng là không được dừng lại nơi vị bản mệnh, mà phải qua ngài ta tiến tới Chúa, và hướng tương giao đích thực luôn phải là chính Chúa.

 

ĐIỀU GỌI LÀ SỰ DỮ

Huyền thoại kể rằng, lúc đầu các thiên thần mang đầy ơn nghĩa và vinh quang Chúa. Các ngài được ngắm dung nhan Chúa, được cầu nguyện và đầy hạnh phúc. Nhưng Lu-zi-fer, một trong những thiên thần bên cạnh Chúa, đã sa chước cám dỗ kiêu căng và muốn chống lại Chúa. Lu-zi-fer và đồng bạn vì thế phải sa hoả ngục.

Cố gắng giải thích sự dữ đó của huyền thoại Kinh Thánh cho tới nay vẫn không ổn. Hiện nay các nhà khoa học quan sát thấy nơi con người có hiện tượng «gia tăng sự man rợ khả nghiệm và của tính xấu không thể hiểu nổi ». Thánh Phao-lô đã mô tả: “Tôi lỗi luật, sự dữ hiện diện trong tôi, mặc dầu tôi muốn làm điều lành ». Người ta còn kể, Luther* đã thấy sự dữ, nghĩa là đã thấy Sa-tan, bằng xương bằng thịt, và ông đã ném bình mực vào đầu Sa-tan. Câu hỏi nền tảng : Tại sao Chúa lại dựng nên Sa-tan ? Tại sao Ngài lại dựng nên cho chính Ngài một đối thủ ?

Câu chuyện sa hoả ngục trên không do Kinh Thánh trực tiếp kể, nhưng bắt nguồn từ nhiều bản văn được hình thành theo thời gian. Nhưng Kinh Thánh có nói tới các thần dữ. Lúc đầu đề cập ít, nhưng về sau càng lúc Kinh Thánh càng cho thấy bên cạnh thần lành còn có thần dữ, chúng tác động vào thế giới và con người, làm hại con người, và có thể nói muốn lôi con người đi xuống.

Nhưng không thể nói Chúa tạo ra Sa-tan. Câu chuyện Lu-zi-fer sa hoả ngục mới hình thành sau này. Nó muốn nói lên rằng, rõ ràng không phải Chúa tạo nên các lực thần dữ. Các lực này xuất hiện rõ nét trong câu chuyện Đức Giê-su trừ quỷ. Chúa chỉ tạo nên thần lành. Và sự dữ không bao giờ là một cái gì độc lập, song nó chỉ xuất hiện như là phủ định của một sự lành. Chỉ trong tương quan với sự lành mới có sự dự, chứ một mình sự dữ thì không có.

Cơn cám dỗ đã như thế nào ?

Nhắc lại : Chúa đã không tạo ra vua sự dữ nào cả, Ngài chẳng cần có một Chúa đối lập nào đứng bên cạnh. Điều Ngài đã tạo ra, là tự do và hoàn cảnh trong đó nhiều khi ta không thấy rõ được tự do đó.

Kinh Thánh cho hay, những lực thần dữ đó có thể là gương soi cho ta. Qua chúng, ta có thể nhận ra cái nguy hiểm của tự do có hình thù dễ sợ như thế nào. Hình thù đó có dạng như sau : Tạo vật càng lớn, nó càng muốn có nhiều độc lập, càng muốn bớt bị lệ thuộc và muốn mình trở thành một thứ chúa tể, chẳng cần nhờ ai giúp nữa. Đây là lúc xuất hiện í muốn bất cần đời, mà ta gọi là kiêu ngạo.

Luôn luôn có cám dỗ nơi loài linh thiêng. Cám dỗ đó xuất hiện như một thứ ngược đời : nó khiến người ta coi tình yêu là lệ thuộc, chứ không phải là quà tặng để tôi được sống. Nó khiến người ta coi tình yêu không như là nguồn lực sự sống nữa, mà như cái gì hạn chế sự độc lập của mình.



Bằng cách nào có thể nhận ra sự dữ ?

Có lẽ phải nói, chẳng bao giờ có thể chứng minh được quỷ. Nhưng ta biết, ngoài tính xấu nơi con người ra, còn có những rối loạn và phá hoại trong tạo dựng, còn có một thứ lực ganh tị, nó muốn lôi ta đi và nhấn ta xuống. Đó là điều Kinh Thánh và đức tin Ki-tô giáo muốn ta phải í thức. Nhưng phải nhớ rằng, không bao giờ được nâng quỷ lên thành một nghịch chúa, vị này có thể đối đầu và chống trả lại Chúa. Cuối cùng rồi thì phủ định cũng chẳng có quyền lực gì. Sự dữ, tuy là một mối nguy và một cám dỗ thường trực, nhưng kì cùng nó không phải là đối thủ ngang hàng của Chúa. Ta phải luôn biết rằng, chỉ có Chúa là Chúa, và ai bám vào Ngài, kẻ đó chẳng cần sợ gì mọi quyền lực Sa-tan.



Hitler có phải là « Sa-tan bằng xương bằng thịt không », như một số người vẫn nói ? Sartre* có lần bảo: « Quỷ là Hitler, là Quốc-xã Đức ». Và triết gia gốc Do-thái Hannah Arendt*, khi nói về những hành vi tội ác của chủ nghĩa phát-xít, đã dùng một từ nổi tiếng để mô tả : «nỗi tầm thường của sự dữ ».

Quả thật lạ. Một tay lớn lên từ đáy tầng xã hội, chẳng học-thức gì, ăn không ngồi rồi, mà lại có thể làm dấy động cả một thế kỉ. Với cái nhìn thông suốt quỷ quái, i đã có những quyết định chính trị và đã có thể làm cho mọi người, ngay cả những kẻ trí thức, nghe theo.

Hitler là một hình tượng ma quái. Đọc lịch sử các tướng lãnh người Đức, ta thấy trong họ ai cũng muốn chống lại, nhưng rồi cuối cùng lại bị ông ta hớp hồn và không còn dám nói lên ý kiến riêng của họ nữa. Nếu nhìn thật gần con người mang nét mê hoặc ma quái đó, ta lại thấy i quả là một tay thật tầm thường. Và cuối cùng, chính vì quyền lực sự dữ cắm lều trong sự tầm thường, nên ta cũng nhận ra phần nào diện mạo của nó : sự dữ càng lớn, nó càng trở nên nghèo nàn, và kích thước lớn lao của nó thật ra chẳng lớn gì cả.

Có thể nói, Hitler cũng đã nhìn ra được trước những hoàn cảnh ma quái. Chẳng hạn, tôi đã đọc một phúc trình về việc chuẩn bị cho chuyến thăm của lãnh tụ phát-xít nước Í ở Berlin. Những người được uỷ thác công việc theo nhau đưa ra đề nghị. Nhưng rồi, sau một hồi lâu suy nghĩ, Hitler tuyên bố : « Không, mọi đề nghị đều trật lất. Tôi thấy phải làm như thế nào rồi ». Và rồi, như trong một cơn xuất thần, i nói ra toàn bộ kế hoạch, và kế hoạch đó cũng đã được thực hiện. Nghĩa là, đâu đó có một siêu lực ma quái khiến cho cái tầm thường trở nên lớn lao – và cái lớn lao trở nên tầm thường – và nhất là khiến nó trở nên nguy hiểm và phá hoại.

Chắc chắn không thể nói Hitler là một con quỷ. Ông ta là một con người. Nhưng, qua những tường trình đáng cậy của những người mắt thấy tai nghe, xem ra Hilter có những cuộc gặp gỡ với ma quỷ, i hay run lên và nói: “Nó lại tới kìa”, hoặc những câu đại loại như thế. Ta không thể tìm hiểu ngọn ngành được điều đó. Tuy nhiên, tôi tin, một cách nào đó, i có dính dáng với ma quỷ; điều này có thể thấy qua cách i sử dụng quyền lực, qua những khủng bố và đại hoạ do quyền lực của i gây ra.

Như thế nghĩa là nơi Chúa dứt khoát không có vực sâu, không có mặt tối? Không như kiểu nơi con người có “hai hồn ngủ gật trong lồng ngực tôi”?

Câu hỏi đó luôn được đặt ra trong lịch sử tôn giáo, ngay cả nơi các phong trào ngộ giáo trong lịch sử Ki-tô giáo. Carl Gustav Jung* cũng đã nhắc lại câu đó theo lối của ông, và tự hỏi, phải chăng đấng Tối hậu cũng lại phải mang trong mình hai khuôn mặt? và ông tiếp: Phải chăng Thiên Chúa này cũng đồng thời là một con quỷ? Phải chăng sự dữ bắt nguồn từ Ngài? Bởi vì, nếu sự dữ hiện hữu, thì nó hẳn phải là cái gì xuất phát từ nơi Ngài?

Câu hỏi này khiến cho thế giới trở nên thật đáng sợ, bởi vì Thiên Chúa quả đáng sợ.

Nhưng câu đó đã được Đức Ki-tô giải toả mọi thắc mắc, khi chính Ngài đã chết cho chúng ta, và qua đó cho ta thấy vực thẳm yêu thương nơi Thiên Chúa. Vì thế, thư Gia-cô-bê đã có thể viết: “Không có bóng tối nơi Ngài”, bóng tối đến từ một chỗ nào khác, chứ Chúa, trái lại, là nơi ta có thể hoàn toàn trông cậy; ma quỷ hay sự dữ không cắm neo trong Ngài, và vì thế, khi Chúa trở nên tất cả trong mọi sự, thì đấng Tối hậu sẽ là kẻ giải phóng khỏi mọi áp chế của sự dữ.

Dĩ nhiên ta phải đặt câu hỏi, nếu sự dữ không bắt nguồn từ Thiên Chúa, thì nó từ đâu mà ra? Như vậy, nó làm sao có thể tồn tại? Nếu sự dữ không do Chúa, thì làm sao còn nói được Chúa là đấng tác tạo mọi sự? Ở đây, chúng ta lại đứng trước một vấn nạn vực thẳm. Câu trả lời của Ki-tô giáo và của Kinh Thánh là: Nó tới từ tự do.

Như vậy, sự dữ không phải là một tạo vật mới, nó không phải là một cái gì tự sinh tự tồn, nhưng, tự bản chất, nó là phủ định, nó là sự huỷ diệt thụ tạo. Nó không phải là một hữu thể, vì hữu thể chỉ xuất phát từ nguồn của mọi hữu thể, nhưng nó là cái không. Sức mạnh của cái không này quả làm cho chúng ta rùng mình. Nhưng, tôi tin rằng, ta cũng an tâm khi biết rằng sự dữ không phải là một tạo vật riêng rẽ, mà nó là một thứ cây chùm gởi. Nó sống nhờ kẻ khác, và rốt cuộc nó sẽ tự giết nó, như số phận cây chùm gởi, một khi nó trở thành ông chủ và giết kẻ bảo trợ mình.

Sự dữ không phải là thứ gì tự sinh, tự hữu, nhưng nó là phủ định. Và khi tôi để mình sa vào sự dữ, thì đó là lúc tôi bỏ không gian triển nở tích cực của hữu thể, để bước vào tình trạng ăn bám của phá hoại và phủ định hữu thể.


Каталог: KHANG

tải về 1.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương