Thiên Chúa và Trần Thế Hồng y Joseph Ratzinger Đgh bênêđictô XVI bản dịch của Phạm Hồng Lam



tải về 1.72 Mb.
trang9/22
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.72 Mb.
#3938
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   22

MƯỚI GIỚI RĂN

Trong sa mạc Si-nai, Mai-sen vẽ một đường ranh quanh núi Ho-rép. Không ai được bước qua ranh đó, ngoài một mình ông. Vào ngày thứ ba, sấm chớp bắt đầu nổi lên, mây vần vũ bao phủ lấy ngọn núi, kèn loa vang dội. Cả ngọn núi dậy khói, toả lửa và động đất, và chỉ có Mai-sen leo lên đỉnh để nhận mười giới răn, luật thiên chúa. Mai-sen viết tất cả những lời của Thiên Chúa vào Sách Giao ước.

Huyền thoại được viết lại như thế. Đối với Giáo Hội, mười giới răn nói lên nỗi lo lắng của Thiên Chúa đối với con người, các giới răn hướng dẫn họ bước vào một cuộc sống tốt đẹp. Tôi muốn hỏi : Có thật các giới luật đó đã được Chúa hiện ra trao cho Mai-sen trên núi Si-nai ? Đó là những tảng đá, có phải trên đó chính « tay Chúa đã viết ra », như vẫn được truyền tụng không ?

Có lẽ phải giải thích rõ hơn một chút về chữ « huyền thoại ». Ngôn ngữ diễn tả ở đây rõ ràng là ngôn ngữ hình ảnh. Ngôn ngữ đó nói lên những điều khó có thể diễn tả. Nhưng việc những sứ điệp đó được thông báo qua biểu tượng, không có nghĩa là chúng chỉ là một cơn mơ, một truyền thuyết hay là một thần thoại.

Hình ảnh ở đây nói lên một biến cố có thật, đó là biến cố Thiên Chúa đi vào lịch sử, biến cố gặp gỡ giữa Ngài và dân Is-ra-en – và xuyên qua dân này gặp gỡ nhân loại. Hình ảnh này được thông truyền qua một người, người đó sống gần Chúa, thật sự muốn lắng nghe Chúa và, như Kinh Thánh nói, có thể nói chuyện với Ngài như một người bạn, và từ tình bạn đó đã trở thành kẻ môi giới, và đã có thể chuyển tiếp sứ điệp của Ngài. Như vậy, chúng ta gặp ở đây một biến cố trung tâm và biến cố này đã được diễn đạt bằng hình ảnh thị kiến.

Nhưng làm sao biết được rằng các giới răn đó thật sự đến từ Thiên Chúa ?

Ngày nay ta biết rằng chuyện mười giới răn, như đã được truyền lại trong các sách Mai-sen, có dây mơ rễ má với lịch sử của các dân tộc lân cận. Những chuyện nói lên việc vật lộn với lịch sử như thế cũng có trong vùng Assiri. Tuy nhiên, việc có một giới luật dưới hình thức đó và được viết ra bằng chữ như thế thì quả đã vượt ra ngoài mọi nguồn ảnh hưởng hỗ tương. Nó đã được một người gần gũi với Chúa viết ra dưới một dạng hình mà ta nhận biết thực sự là lời của Chúa. Như là bạn thân tình, Mai-sen đã nhận ra được ý Thiên Chúa, ý này cho tới lúc đó chỉ xuất hiện từng mảng rời rạc và đây đó trong nhiều nguồn khác nhau. Và Mai-sen đã kết hợp chúng và diễn tả ra. Có phải thật đó là những mảng đá hay không, lại là một chuyện khác. Ta biết, theo như sách kể, Mai-sen vì tức giận đã đập bể các mảng đó, và cuối cùng đã nhận được các mảng khác thay thế. Vấn đề quan trọng ở đây là chính thật Thiên Chúa đã tỏ hiện xuyên qua một người bạn. Vì thế, việc môi giới này là điều vượt ra ngoài sự tưởng tượng của con người, hay cả vượt ra ngoài sự nhạy cảm của họ đối với sứ điệp của tạo dựng.



Mười giới răn vẫn mang giá trị - vô giới hạn - cho ngày nay ?

Chúng vẫn giá trị. Chúng ta đã nói tới một giới răn. Giới răn đó, sau khi gặp Đức Ki-tô, có thể nói đã mang một bộ mặt và ý nghĩa mới : « Ngươi không được tạc tượng hình nào khác ». Giới răn này trở thành mới ngay khi chính Thiên Chúa tự tỏ hiện qua hình ảnh Ngài. Nghĩa là tất cả các giới răn cũng đều đang trên đường hình thành, chỉ qua Đức Ki-tô chúng mới nhận được hình thù hoàn chỉnh.

Cả giới răn thánh hoá ngày thứ bảy cũng giữ nguyên giá trị. Giới răn này có liên hệ với câu chuyện tạo dựng. Nhưng nó đã nhận được một khung mới, vì giờ đây ngày phục sinh của Đức Giê-su trở thành thực sự là ngày giao ước. Thứ bảy chuyển thành chủ nhật – và mang theo một chiều sâu mới.

Trong ý nghĩa đó, các giới răn chưa hẳn là những lời đã hoàn chỉnh. Phải qua ánh sáng Đức Ki-tô chúng mới có được hình thù quyết định. Tuy nhiên chúng vẫn có giá trị trong nền

tảng.

Mười giới răn đã chẳng bao giờ bị sửa đổi ?

Không. Có hai bản văn, một trong sách Xuất hành và một trong sách Dân-số. Hai bản có khác nhau đôi chút bề ngoài, nhưng bản chất giống nhau – và dĩ nhiên con người không có quyền sửa đổi chúng.



Khi Mai-sen từ núi thánh xuống, thấy dân đang nhảy múa quanh bò vàng, ông giận ném tan các mảng giới răn. Chỉ có con cháu của chi Lê-vi, chi họ về sau trở thành giai tầng giáo sĩ, tụ tập chung quanh ông, và như vậy đứng về phe Thiên Chúa. Maisen ra lệnh : « Hãy đi từ bên này sang bên kia doanh trại, từ cửa này tới cửa kia, và giết hết ngay cả anh em, bạn bè, người hàng-xóm ».

Câu chuyện mười giới răn, như thế, đã khởi đi từ một tội chống lại điều răn thứ năm : Chớ giết người. Lẽ ra Mai-sen phải biết điều đó chứ.

Trước hết, nó khởi đi từ tội chống lại điều răn nền tảng thứ nhất : Ngươi không được thờ thần nào khác ngoài Thiên Chúa.Con người chỉ quân bình, khi họ chấp nhận Thiên Chúa và tôn thờ Ngài. Khi họ bỏ Chúa chạy theo thần khác, khi họ muốn tự mình làm Chúa và thờ lạy chính mình, lúc đó họ phản nghịch lại với thân phận mình. Tội nền tảng này đã làm cho bộ mặt dân này ra dị hợm và khiến họ ăn tươi nuốt sống nhau. Bởi bỏ Chúa là bỏ nguồn sống, cũng có nghĩa là ra khỏi sự sống.Câu chuyện trên quả dã man và thật khó hiểu đối với ta. Nhưng ở đây, ta lại phải nhìn về Đức Ki-tô. Ngài hành động ngược lại. Ngài nhận lấy cái chết cho mình mà không giết hại ai cả. Trong giờ phút lịch sử ở Si-nai, có thể nói, Mai-sen đã chỉ hoàn thành điều đã xảy ra : chính những người khác đã đồi truỵ cuộc sống họ. Câu chuyện trên thật sự xẩy ra như thế nào, lại là một câu hỏi khác. Dân Is-ra-en vẫn còn đó. Câu chuyện muốn nói lên rằng, ai bỏ Chúa, người đó không những bỏ giao ước, mà còn ra khỏi không gian sự sống, phá hoại chính sự sống, và như vậy là đã bước vào vùng đất chết.



Giới răn thứ nhất , « Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi. Ngươi chớ có thần nào khác ngoài Ta »

Nếu nhìn kĩ, thì cuộc nhảy múa quanh bò vàng trong lịch sử nhân loại chưa bao giờ dữ dội và say sưa như trong thời đại ngày nay.

Ngày nay không có những thần linh được minh nhiên tuyên xưng, nhưng có những quyền lực khiến người ta kính cẩn sấp mình. Tư bản, hay nói chung của cải, là một trong những quyền lực đó. Hay đam mê quyền lực cũng thế. Bò vàng xuất hiện dưới nhiều bộ mặt và hiện rất thời sự trong thế giới phương tây của chúng ta. Hiểm nguy luôn chờ sẵn.

Nhưng còn hơn thế nữa. Càng ngày gương mặt Thiên Chúa càng bị xoá nhoà. Người ta bảo : Chúa nào thì rồi cũng chỉ là một Chúa đó cả thôi. Vấn đề là mỗi nền văn hoá có một cách gọi riêng, chứ dù mình có coi Ngài là một con người hay không, có gọi Ngài là Jupiter, Shiva hay với tên nào đi nữa, thì tất cả cũng chỉ là một! Và càng ngày, người ta càng chẳng quan tâm gì tới Chúa nữa. Người ta rời xa Chúa, và chỉ quay nhìn vào những tấm gương phản chiếu chính họ trong đó.

Ta thấy : Chính khi Chúa bị gạt ra một bên, thì đó là lúc các chước cám dỗ thờ ngẫu tượng trở nên rất mạnh. Nguy cơ lớn của ta lúc này, là người ta coi Chúa là dư thừa. Họ bảo, Ngài ở xa quá, và có thờ Ngài thì có lẽ cũng chẳng lợi lộc gì. Điều chúng ta ít để ý hơn : Khi ta nhổ cây cột trụ làm nền cho cuộc sống của ta đó đi, lúc đó càng ngày ta sẽ càng trở nên mất cân bằng và phân rã.



Giới răn thứ hai, « Ngươi chớ làm ô danh Thiên Chúa ! »

Nhưng ta tự hỏi : Nếu Thiên Chúa lớn như thế, thì sao Ngài lại phải phiền vì một tội nhỏ của tôi như thế, tội của một chú giun đất nhỏ nhoi ?

Không phải vì ta có thể đe doạ Chúa mà Ngài phải trả thù ta. Song là vì để ta giữ được thăng bằng trong cuộc sống. Chính khi ta làm ô uế Ngài, làm biến thể bộ mặt Ngài, khiến bộ mặt không còn toả rạng để cho thế gian nhận ra Ngài, thì lúc đó con người cũng chẳng còn toả rạng nữa.

Martin Buber có lần nói, không có từ nào bị lạm dụng như từ THIÊN CHÚA. Từ đó bị bôi đen và làm biến thể đến nỗi không còn sử dụng được nữa. Ông nói tiếp, tôi nghĩ rằng, dù vậy, ta không được tránh hay không nhắc tới từ đó, nhưng hãy cố gắng kính cẩn vực nó dậy và tạo lại ý nghĩa đúng đắn cho nó.Ta chỉ cần nghĩ tới câu « Thiên Chúa ở cùng chúng ta » được in trên dây lưng của quân đội Đức trong thời quốc-xã, thì cũng đủ rõ. Tưởng là để vinh danh Chúa, nhưng thực ra là để lợi dụng cho mục tiêu riêng của họ.Mỗi lạm dụng danh Chúa, mỗi hành vi làm biến thể bộ mặt của Ngài đều để lại nhiều rác rưởi và dấu vết có hại kinh khủng.

Nếu không có những lạm dụng danh Chúa đó, ta không thể giải thích được quyền lực lớn của vô thần, hay của việc chối từ hoặc vô tâm đối với Thiên Chúa. Gương mặt Ngài đã bị bóp méo đến đỗi người ta không còn dám nhìn. Xem đó, ta thấy việc lỗi phạm điều răn này có thể mang lại những hậu quả ghê gớm như thế nào.



Giới răn thứ ba , « Hãy nhớ thánh hoá ngày thứ bảy »

Có người rất thích ngày chủ nhật và muốn tận hưởng nó. Có người lại chẳng muốn nghỉ, dùng nó để đi chợ, làm việc hay gây ồn ào. Phải chăng là vì người ta không còn hiểu ra ý nghĩa của ngày này nữa?

Trong trình thuật tạo dựng, ngày thứ bảy là thời gian con người nghỉ ngơi lo việc Chúa. Đây là dấu chỉ giao ước giữa Chúa với dân Ngài trong nội dung thập giới. Ý nghĩa nguồn cội của ngày thứ bảy, như thế, là việc báo trước tự do và bình đẳng cho tất cả mọi người.

Trong ngày thứ bảy, cả nô lệ cũng không còn là nô lệ nữa, họ cũng được nghỉ ngơi. Đó là một trong những ý nghĩa chính trong truyền thống Giáo Hội. Còn đối với những người tự do thì họ vẫn được tiếp tục làm việc, là vì việc họ làm không phải là công việc đúng nghĩa. Điểm quan trọng thứ hai, đây là ngày nghỉ, kết thúc cuộc tạo dựng. Giới răn này cũng có giá trị ngay cả cho súc vật.

Ngày nay, con người muốn dành toàn quyền cho mình việc sử dụng thời gian. Thực tế là chúng ta đã quên đi tầm quan trọng của việc để Chúa đi vào thời gian, và quên rằng thời gian không phải chỉ là vật liệu sử dụng cho nhu cầu riêng của mình. Vấn đề là ta phải thoát ra khỏi sự ràng buộc của cái lợi và cái hữu ích - để giải thoát cho chính mình và cho kẻ khác.

Như đã nói, ngày thứ bảy đã mặc lấy hình thức mới trong ngày phục sinh của Đức Ki-tô. Đó là ngày Đấng Phục Sinh hiện ra giữa các môn đồ của Ngài, là ngày chúng ta quy tụ với Ngài, là ngày Ngày mời gọi chúng ta tới với Ngài – ngày cầu nguyện và gặp gỡ, Chúa tới và thăm ta và ta thăm Ngài.

GIỚI RĂN THỨ BỐN « Ngươi phải tôn kính cha mẹ, để được an khang và sống lâu trên trái đất »

Đây là giới răn duy nhất gắn liền với một hứa hẹn. Đức Giê-su nhiều lần nói tới tầm quan trọng của giới răn này.Tôi muốn kể ở đây một câu chuyện nhỏ. Đó là chuyến nghỉ hè của chúng tôi, và tôi rất vui khi thấy hai đứa con vui. Thằng Paul ngồi hàng giờ câu cá măng và các chú tôm nhỏ. Jakob đào chơi cát. Chúng tôi chèo một chiếc thuyền nhỏ và Paul bơi theo rất lâu bên cạnh. Nó bỗng nhiên chẳng còn sợ nữa và rất hãnh diện vì mình có thể bơi một mình. Có lúc tôi ngồi trên mỏm đá xa xa nhìn vợ con, thấy tất cả khoẻ mạnh, tươi trẻ. Lòng tự nhủ, đây là khởi đầu thời gian đẹp nhất của đời mình, và tôi không muốn phí phạm nó, tôi nghĩ có được như vầy thì tuyệt quá. Nhưng bỗng dưng tôi chợt nghĩ tới bố mẹ và ông bà tôi – và cũng nghĩ tới giới răn thứ bốn này.

Giới răn này quả là đại hiến chương (Magna Charta) của gia đình. Nó xác định một trật tự nền tảng. Nó nói cho chúng ta hay, tế bào căn bản của xã hội tính và của xã hội là gia đình, là cha mẹ và con cái. Và chỉ trong trật tự nền tảng đó ta mới tập được những đức tính căn bản. Chỉ trong đó tương quan nam nữ và tương quan thế hệ mới nẩy nở đúng.

Một mặt, giới răn chứa đựng nhiệm vụ giáo dục, nghĩa là hướng dẫn người khác bước vào tự do của họ một cách đúng đắn, để họ nhận ra những quy luật bên trong, để họ học sống cho ra người. Trong quá trình giáo dục này, sự vâng lời đóng vai trò phục vụ cho việc tập sử dụng tự do riêng. Và ngược lại, điều kiện đương nhiên về phía con trẻ là phải chấp nhận sự giáo dục đó.

Điều răn thứ bốn cũng dạy ta cách đối xử với người già cả, là những người hết ích lợi và sinh lực. Nó dạy ta phải quý trọng cha mẹ già. Ta không nên chỉ nghĩ tới cái lợi, nhưng quý trọng các ngài, vì các ngài đã cho ta sự sống. Qua các ngài, ta cũng quý trọng phẩm giá con người nói chung, những con người giờ đây không còn tự giúp mình được nữa. Sự kính trọng nền tảng đối với con người đó, là khía cạnh tối quan trọng của giới răn này. Trong nó cũng hàm chứa tương lai của chính chúng ta, để sau này ta có thể tin tưởng bước vào tuổi già.



GIỚI RĂN THỨ NĂM, « Ngươi không được giết người »

Chẳng ai muốn phản đối điều này. Cái lạ là nó luôn bị lỗi phạm.

Trong con người, rõ ràng có sự hiện diện của một nhận thức nguồn cội, nó bảo tôi không được phép giết người. Dù tôi quên rằng, chỉ có Chúa mới có quyền trên con người, thì ít nhất tôi cũng biết người đó có sự sống và nhân quyền riêng của họ, và nếu tôi giết họ, là tôi phạm tội đối với nhân loại.

Tuy nhiên cái nhìn trên đây càng ngày càng trở nên lu mờ nơi các trường hợp biên tiếp. Đặc biệt nơi sự sống mới bắt đầu, là lúc nó chưa biết tự vệ, còn dễ bị lèo lái. Đây là lúc dễ bị nguy cơ cái lợi sai khiến. Người ta muốn chọn để ai sống, bắt ai chết, vì sợ rằng bào thai đó sẽ hạn chế tự do và nhân cách của mình. Nơi nào sự sống chưa đủ vóc dáng và trí tuệ để đối phó, nơi đó ý thứcvề giới răn thứ bốn dễ mai một. Trường hợp kết thúc cuộc đời cũng thế. Người ta coi người bệnh, người đau khổ trở thành phiền hà và nghĩ rằng cái chết có lẽ tốt hơn cho đương sự. Và đó là cớ để người ta vội vàng trợ tử cho người bệnh.

Và từ đó cứ tùng bước, từng bước một đi tới. Ngày nay, ý nghĩnuôi cấy người lại trở nên thịnh hành, như ta đã thấy trong thời gian bất hạnh vừa qua. Người ta nẩy ra đắn đo, không biết một người không còn ý thức nữa và không còn khả năng hoàn thành được vai trò xã hội nữa, có phải thật sự còn là một con người nữa không.

Suy tư từ đó cứ mở tiếp ra. Đặc biệt, trong lãnh vực trợ tử, ta gặp ngay câu hỏi: Khi nào thì ta có quyền chấm dứt một sự sống, để nó không phải chịu đau đớn quá đỗi. Xem thế, trong các trường hợp tiếp biên, ý thứccội nguồn và đạo đức của con người về việc kính trọng sự sống kẻ khác quả rất dễ bị triệt tiêu. Điều răn thứ năm, nói lên quyền của Chúa trên mạng sống con người từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, vì thế, lại đáng cho ta tranh luận hơn bao giờ hết.

GIỚI RĂN THỨ SÁU, « Ngươi chớ làm sự dâm dục »

Thế giới chúng ta đã biến việc sở hữu và sử dụng tình dục thành ra một đức tính. Nếu không phải là kẻ quá mê đắm dục tình, thì thử hỏi : Phải chăng dâm dục thật sự là tội ?

Bản văn nguồn của giới răn này trong Cựu Ước có nội dung như sau : « Ngươi chớ ngoại tình » (Xh 20,14 ; Ds 5,18). Như vậy, giới răn này thoạt tiên có một nghĩa rất nhất định. Nó dạy sự trung thành trong quan hệ vợ chồng, nó không những bảo vệ tương lai con người, mà còn hội nhập tình dục hôn nhân vào trong toàn thể cuộc sống làm người, và chỉ qua đó tình dục mới có được phẩm giá và chiều kích cao cả.

Đó là tâm điểm của giới răn. Hôn nhân không phải là một giao tiếp tạm bợ, mà là sự kết hợp giữa hai người trong tiếng Vâng, tiếng Vâng này đồng thời cũng nói lên việc sẵn sàng chấp nhận con cái. Như vậy, hôn nhân là nơi đích thực để cho tình dục nhận được phẩm giá và cao cả. Chỉ nơi đó tinh thần mới thành cảm giác và cảm giác mới thành tinh thần. Nơi đây diễn ra cái mà ta gọi là bản chất của con người. Nó có vai trò như cây cầu nối liền hai điểm kết thúc của tạo dựng vào nhau và trao cho nhau phẩm giá và nét cao cả.

Nếu giờ đây ta bảo, chỗ của tình dục là hôn nhân, thì đương nhiên điều đó cũng hàm ý rằng, chỉ trong hôn nhân tình dục mới có được phẩm giá và sự nhân tính hoá đích thực. Hôn nhân có nghĩa là một kết hợp trong tình yêu và chung thuỷ; nó bao hàm cả sự chăm sóc lẫn nhau và sự sẵn sàng cho tương lai, nghĩa là hướng đến nhân loại trong toàn thể.

Hẳn nhiên sức mạnh quá lớn của bản năng tình dục, nhất là trong một thế giới ngập đầy yếu tố kích dục như hiện nay, đã khiến cho bản chất hôn nhân bị lu mờ. Tình dục từ lâu đã trở thành hàng hoá có thể mua bán. Nhưng như thế thì con người đã bị lợi dụng thành kẻ bán dâm, nhân tính họ bị biến thể, và họ chẳng còn được kính trọng như là một con người nữa. Những kẻ tự biến mình thành hàng hoá, hay bị ép buộc làm chuyện đó, trước sau sẽ bị khai thác đến kiệt quệ. Và, lúc này đây, trên nền chợ tình dục kia còn nẩy sinh thêm một chợ nô lệ mới. Như vậy, chính khi tôi không đặt tình dục vào khuôn tự do trách nhiệm của đôi bên, không nối nó vào trong cái toàn thể của sự sống, lúc đó con người đương nhiên trở thành vật mua bán.

Xin ngài nói lại lần nữa tâm điểm của điều răn.

Đây là sứ điệp của tạo dựng : Người nam và nữ được tạo nên cho nhau. Sách Sáng-thế viết: Họ sẽ bỏ cha mẹ để hợp với nhau thành một thân xác. Vậy từ cái nhìn thuần sinh lí, ta có thể nói được rằng, thiên nhiên đã sáng tạo ra tình dục để duy trì chủng loại. Điều chúng ta thoạt tiên thấy như chỉ là một sản vật thiên nhiên, như là một thực thể thuần sinh lí, đã trở thành dạng hình người qua sự chung sống của người nam và người nữ. Đó là một cách con người mở ra cho nhau. Một cách không những để làm triển nở sự gắn bó và chung thuỷ, mà còn mở ra một không gian để con người có thể khởi đi từ lúc thụ thai tiến lên thành người. Không gian này là chỗ đặc biệt nẩy sinh cuộc chung sống đúng đắn của con người. Điều thoạt tiên chỉ là một quy luật sinh lí, một xảo thuật của thiên nhiên (nếu có thể nói được như vậy), đã trở thành dạng hình người, trong đó nẩy sinh sự chung thuỷ và gắn bó tình yêu giữa người nam và người nữ, và từ đó đồng thời hình thành nên một gia đình.

Đó là tâm điểm của giới răn mà tạo dựng muốn nói với ta. Càng suy nghĩ và sống trọn giới răn đó, ta càng thấy rõ các loại tình dục khác không đưa ta tới độ cao chân thực của ơn gọi làm người. Chúng không đạt tới cấp độ muốn có và nên có của tình dục con người. Chúng ta sẽ nói thêm về tình dục ở chương sau. Nhưng thập giới xem ra phản lại quy luật thiên nhiên. Chúng ta khó mà tuân giữ những điều đó được, vì chúng thường đi ngược lại bản năng con người.

Đúng, khó tuân giữ. Nhưng điều răn thứ sáu hàm chứa trong nó chính sứ điệp của thiên nhiên. Thiên nhiên quy định sự hiện diện của hai phái, để cho giống nòi được tồn tại – đặc biệt cho giống người, vì sau khi lọt lòng mẹ, con người còn lâu mới toàn thành và còn cần một thời gian chăm sóc dài.

Con người không phải là loài thoát tổ, mà là nằm tổ. Với cái nhìn thuần sinh lí, thì giống người cần có tình yêu của cha mẹ như là lòng mẹ mở rộng, để mới có thể vượt qua cấp sinh lí ban đầu, hầu tiến lên thành người được. Khung cảnh gia đình có thể xem là điều kiện hiện hữu của con người.

Như vậy, chính thiên nhiên ở đây đã mở cho ta thấy bộ mặt nguồn cội của loài người. Con người cần một gắn bó tiếp tục với nhau. Trong sự gắn bó đó, thoạt tiên hai người nam nữ hiến thân cho nhau – và rồi hiến thân cho con cái, để con cái cũng bước được vào quy luật tình yêu, quy luật tự hiến. Nơi loài nằm tổ, rõ ràng cần có sự chung thuỷ sau khi sinh. Như vậy, sứ điệp hôn nhân và gia đình hẳn là quy luật của chính tạo dựng và không đi ngược lại bản chất con người.



Dù vậy, vẫn quả thật khó mà tuân giữ.

Đúng là trong lãnh vực này, cũng như trong các lãnh vực khác mà chúng ta đã đề cập, đang có cảnh lội ngược dòng. Có sự thặng dư quyền lực sinh lí. Ta thấy trong các xã hội tân tiến – và cả trong xã hội của một số thời kì trước đây, chẳng hạn ở Rô-ma dưới thời vua chúa – có một sự kích dục công khai, khiến sức mạnh bản năng gia tăng, và vì thế gây khó khăn cho việc kết hợp hôn nhân.

Hãy trở lại với bốn điều răn đã nói. Ta thấy ở đây có hai trật tự khác nhau của thiên nhiên. Thiên nhiên một mặt cho hay, việc kết hợp nam nữ là hành vi thâm sâu nhất, nó rốt cuộc trở thành một hành vi con người, và mở ra không gian để loài người có thể phát triển. Một sứ điệp khác của thiên nhiên là chúng ta, trên phương diện nào đó, cũng hướng về sự chung đụng khác giới, đặc biệt hướng về việc sử dụng tình dục vượt ra ngoài khuôn khổ gia đình.

Đứng từ góc độ đức tin, ta thấy rất rõ sự khác nhau của hai chiều hướng trên. Một bên nói lên sứ điệp chân thực của tạo dựng. Bên kia phản ảnh khuynh hướng muốn làm chủ của con người. Do đó, việc tự trói buộc mình vào hôn nhân luôn là một nỗ lực liên lỉ. Tuy nhiên, ta cũng thấy, ở đâu nỗ lực đó thành tựu, ở đó có trưởng thành nhân bản và trẻ con có thể học được tương lai. Ở đâu việc li dị trở thành thường tình, ở đó trẻ con là giới chịu nhiều thiệt hại nhất. Như vậy, đứng từ phía trẻ con mà nhìn, ta có thêm một lí do minh chứng sự kết hợp nam nữ, sự chung thuỷ vợ chồng là đúng đắn và thật sự phù hợp cho con người.



GIỚI RĂN THỨ BẢY, « Ngươi chớ trộm cắp ».

Coi trọng tài sản kẻ khác là chuyện thường tình. Giới răn có ám chỉ thêm điều gì nữa không?

Bài học của tạo dựng về quy định chung của tài sản không chỉ là một tư tưởng đẹp, mà nó còn phải được thực hiện. Bài học này xác quyết mỗi người cần cho mình một số nhu cầu căn bản để sống, và vì thế phải có luật để bảo vệ tài sản cho từng người. Ở đây, nhà nước phải có những bộ luật để canh chừng và ngăn chận mọi lạm dụng tư hữu.

Ngay lúc này đây, ta thấy rõ hơn bao giờ hết cảnh con người đang tự huỷ diệt mình, khi họ chỉ còn biết sống cho của cải, cho đồ vật, khi họ ngụp lặn trong những thứ đó, và của cải trở thành thượng đế của họ. Chẳng hạn, ai bị quy luật cổ phần chế ngự hoàn toàn, kẻ đó chẳng còn suy nghĩ được gì khác. Ta thấy quyền lực của cải đè lên con người nặng như thế nào. Càng có thêm, ách nô lệ càng nặng, bởi vì họ phải lo giữ của và không ngừng làm tăng chúng.

Vấn nạn của quyền tư hữu cũng thấy được rõ nét trong tương quan bất ổn giữa thế giới thứ nhất và thế giới thứ ba. Ở đây, quyền tư hữu đã đi trệch ra ngoài quy luật chung về tài sản. Phải tìm ra những hình thức pháp lí để giữ nó thăng bằng hoặc ngay cả đưa nó về lại thế thăng bằng.

Như vậy, đàng sau giới răn đó ta thấy một gánh nặng ghê gớm của thực tế. Giới răn nói tới việc bảo vệ những gì cần thiết cho cuộc sống cá nhân (và những thứ đó cũng phải được quý trọng), cũng như trách nhiệm làm sao sử dụng quyền sở hữu cho đúng, để đừng đi ngược lại sự uỷ thác chung của tạo dựng và ngược lại tình yêu tha nhân.

GIỚI RĂN THỨ TÁM, « Ngươi chớ nói dối » hay « Ngươi chớ làm chứng dối ».

Có nhiều chuyện tuyệt hay về nói dối. Nhiều khi chính những lời dối trá nhỏ lại trở hành lớn, đến nỗi sém làm tiêu tan sự nghiệp các tổng thống của một siêu cường hoặc sém khiến cho những đảng cầm quyền hay những ông vua truyền thông sụp đổ. Chuyện lạ : chẳng có chi dấu được dưới ánh sáng mặt trời.

Tôi muốn nói, điều đó cho thấy bản chất con người là yêu sự thật. Mọi giới răn chung quy đều là giới răn của tình yêu, hoặc là những khai triển của giới răn tình yêu. Như vậy, tất cả chúng rõ ràng cũng có liên quan tới sản phẩm chân lí. Khi tôi dấu diếm hoặc làm méo mó sự thật, khi tôi trầm mình trong dối trá, lúc đó tôi thường làm người khác thiệt hại, và cũng luôn làm thiệt hại cả chính tôi.

Những dối trá lặt vặt dễ biến thành một thói quen, ở đâu rồi cũng dùng nói dối cho qua chuyện, dần dần người ta tự trói mình trong dối trá, và vì thế sống ngược lại với thực tế. Ngoài ra, mỗi lần làm tổn thương phẩm giá chân lí như thế, là mỗi lần ta không những triệt hạ con người, mà còn lỗi phạm gia trọng chống lại tình yêu. Là vì khi tôi dấu người khác sự thật, có nghĩa là tôi khước từ họ một tài sản nền tảng, và dẫn họ vào đường sai trái. Chân lí là tình yêu, và tình yêu sẽ trở nên dị hợm, khi nó chống lại sự thật.

GIỚI RĂN THỨ CHÍN VÀ THỨ MƯỜI, « Ngươi chớ muốn vợ người khác ». « Ngươi chớ tham của cải của người khác ».

Hai giới răn gắn liền với nhau đó mang ý nghĩa sâu xa vượt lên trên cái thực tế và bên ngoài. Chúng cho ta hay, khởi đầu của tội không phải là chính lúc ta ngoại tình, hay lúc ta chiếm đoạt tài sản kẻ khác một cách bất công, nhưng tội đã ló dạng ngay từ trong tư tưởng của ta rồi. Một khi tâm tưởng tôi đã không còn kính trọng kẻ khác, không còn tôn trọng hôn nhân và tài sản họ, thì việc dừng tay trước hành động cuối cùng cũng chẳng còn ý nghĩa.

Như vậy, tội không chỉ bắt đầu với những hành vi cụ thể bên ngoài, mà nó đã bắt đầu từ trong vườn ươm của nó, từ trong ý nghĩ ghen tương, ý nghĩ phủ nhận chính kẻ khác và tài sản của họ. Thiếu trong sạch trong tư tưởng, cuộc sống sẽ mang hậu quả bất ổn. Hai giới răn trên, như vậy, muốn kêu gọi trực tiếp tới tâm con người. Bởi vì tâm chính là cội nguồn xuất phát hành động. Chỉ riêng với lí do đó thôi cũng đủ cho ta phải giữ tâm trong và sáng.

Khi Mai-sen nhận những tấm đá giới răn giữa sấm sét trên núi, lúc đó cũng là giây phút khởi đầu của cá nhân tự do. Nhà báo Đức gốc Do-thái Hannes Stein đã lí luận như thế. Kể từ đây, mỗi cá nhân, dù là chủ hay tớ, đàn ông hay đàn bà, đều mang trách nhiệm trực tiếp với Chúa về mình và về hành vi mình. Có thể nói, tính cách pháp nhân tự trị đã hình thành cùng với giao ước trên núi Si-nai. Có liều lĩnh lắm không, khi bảo rằng nền tảng xã hội tự do dân chủ không phải xuất phát từ Hi-lạp cổ, mà từ truyền thống do-thái và Ki-tô giáo ?

Tôi cũng đã đọc sách của Hannes Stein và thấy có những điểm rất nền tảng. Trên thực tế, tâm điểm của nhân quyền nằm nơi phẩm giá của mỗi cá nhân, người đó đối diện một mình với Chúa, Chúa nói trực tiếp với họ, và Giao ước đề cập tới họ như một cá thể. Nhân quyền có nghĩa là mỗi người đều có phẩm giá ngang nhau, và nhân quyền chính là nền tảng của dân chủ.

Lẽ ra Is-ra-en thoạt tiên không có vua, mà chỉ có những phán quan dùng luật Chúa mà cai trị. Điều đó có nghĩa là người ta nhắm tới một xã hội hoàn toàn bình đẳng, một thứ xã hội vô chính phủ theo nghĩa tích cực, trong đó không ai ngoài chỉ mình Chúa là kẻ trị vì. Và Ngài cai trị thông qua luật Ngài, lời Ngài và qua các giới răn.

Nhưng loại xã hội đó cuối cùng đã phải thay đổi theo thực tế, điều này trước đây chúng ta đã nói rồi. Ở đây, dĩ nhiên tôi không dám coi thường nền dân chủ hi-lạp, nó đã làm nẩy nở đôi điều quan trọng và đã khai sinh một mô hình thực tế, mà người ta về sau đã có thể noi theo. Nhưng ta cũng phải biết, là trong nền dân chủ hi-lạp, chỉ có lớp đàn ông tự do mới có quyền bầu cử, đàn bà và nô lệ không phải là chủ thể của chính trị, nên không được bầu phiếu. Vì tự do bị hạn chế, nên dân chủ hi-lạp chỉ là mẫu mực của một nền dân chủ hạn định. Trái lại, lời Kinh Thánh coi mỗi người đều là người và là hình ảnh của Chúa, và đã trao cho từng người trong họ đầy đủ tư cách chủ thể. Vì thế, quả thật lời Kinh Thánh đã xây thêm nền tảng cho các thể chế dân chủ.

7. TÌNH YÊU

Ý NGHĨA CUỘC SỐNG

Giáo Hội dạy, con người tự mình không thể tạo ý nghĩa cho thế giới và cho chính mình. Quả thật khó tin, nếu ta nhìn vào những thư viện mênh mông đầy sách nói về cuộc đời và ý nghĩa cuộc đời, do những tác giả vừa giỏi vừa ít giỏi hơn viết.

Nếu thế giới đã không có ý nghĩa trong nó rồi, thì ta cũng chẳng có thể tạo thêm ý nghĩa nào cả. Hành động của ta chỉ giúp cho cơ cấu đã có định hướng thêm rõ ra đôi chút, chứ nó không tạo ra chính ý nghĩa cuộc sống. Ý nghĩa đã có - hoặc không có. Vì vậy, nó không thể đơn giản là một sản phẩm của ta. Những gì ta tạo ra, có thể làm cho ta thoả mãn trong giây lát, nhưng chúng không thể biện minh cho toàn bộ cuộc sống của ta và tạo nghĩa cho cuộc sống đó.

Dĩ nhiên con người trong mọi thời và mọi nơi đều đi tìm ý nghĩa, và họ sẽ còn tiếp tục tìm. Trên đường đó, họ cũng có thể gặp được những mẩu giải đáp. Trong những mẩu đó, chỉ có phần do con người khám phá ra nơi thụ tạo mình là đúng đắn, chứ không phải phần do họ nghĩ ra. Và cái khám phá đó có thể giúp con người hiểu biết mình hơn, để họ sống cho có ý nghĩa.

Giáo Hội dạy, ý nghĩa là do Chúa chứ không do con người tạo ra, phải được hiểu theo hướng này: Ý nghĩa là cái nâng con người đi, là cái ở trước và ở trên những suy tưởng và khám phá của ta – và chỉ như vậy nó mới có sức mạnh để nâng ta đi.

Nếu ta thật sự có thể thu tóm ý nghĩa cuộc đời vào một chữ, thì chữ đó sẽ là TÌNH YÊU. Thi sĩ và học giả mọi thời bảo đó không những là ý nghĩa, mà cũng là nguyên tắc nền tảng của sự sống, là bí ẩn thật sự của cuộc đời. Có người bảo, ai cảm được cái vô tận của tình yêu này, người đó mới bước được vào tâm điểm của đức tin.

Trong cuộc trao đổi, chúng ta đã lặp đi lặp lại nhiều lần, là cùng đích cuộc sống của chúng ta là khám phá ra tình yêu, đón nhận nó và trao nó đi tiếp. Đức Ki-tô chịu đóng đinh, kẻ đã đưa tình yêu tới tận cùng, như chính Tin Mừng Gio-an nói, đã hiện thực hoá nguyên tắc đó. Chính Thiên Chúa là tình yêu. Trong ý nghĩa đó, tình yêu là luật căn bản, và là cùng đích căn bản của cuộc sống.

Ở đây, ta gặp lại bí ẩn hạt lúa miến, trở lại với việc từ bỏ mình và gặp lại mình. Ta biết rằng, tình yêu không do ta làm nên, nhưng đó là quà tặng. Tình yêu xuất phát từ một người khác đi tới với ta, đi vào trong ta.

Tình yêu con người luôn hàm chứa một đòi hỏi đời đời trong nó. Tình yêu là một mâu thuẫn với sự chết, như triết gia người Pháp Gabriel Marcel* đã nói. Tình yêu này, như vậy, từ một lời hứa chỉ trở thành thực tại được tuân giữ, khi nó được bao trùm bởi yếu tố đời đời. Marcel bảo, khi tôi nói với một người „Tôi yêu anh/em“, thì điều đó có nghĩa: Tôi không chấp nhận cái chết của anh/em, tôi chống lại cái chết.

Như vậy, ta thấy tình yêu con người tự nó là một lời hứa không thể tháo gỡ. Nó muốn sự vô hạn nhưng có thể chỉ cho cái hữu hạn. Nhưng mặt khác, nó biết lời hứa đó không phải là vô nghĩa và mâu thuẫn và vì thế có tính huỷ diệt, bởi vì nó chứa cái vô tận trong mình. Như vậy, chỉ nhìn theo khía cạnh con người mà thôi, thì tình yêu quả thật là cái chúng ta hướng vọng tới và sống cho nó. Nhìn từ các chiều kích của chính nó, thì tình yêu rốt cuộc hàm chứa trong nó cái nhìn lên Chúa và mong chờ Ngài.

Tình yêu, đôi khi nói thì dễ, nhưng mấy ai hiểu nó là gì. Chẳng hạn mấy ai hiểu được Chúa yêu ta như thế nào? Chúng ta đã nói tới một „Thiên Chúa phẫn nộ“. Có người bảo Chúa cũng loan báo một sứ điệp đe doạ. Tình yêu Thiên Chúa ban tặng cho ta mang hình thù ra sao?

Trước hết, phẫn nộ không phải là cái gì đương nhiên chống lại tình yêu. Chẳng hạn một người cha, anh biết điều đó hơn tôi, thỉnh thoảng cũng phải bực bội với con, vì ông ta yêu con mình. Và ông ta có lẽ sẽ không làm tròn bổn phận và í muốn yêu thương của mình, nếu chỉ vì muốn yên thân cho chính mình và cho người khác, nên chẳng nghiêm khắc răn đe, sửa phạt con.

Chúng ta đều biết, một đứa con hư, cái gì cũng nó được phép làm, rốt cuộc không thể có một đời sống tốt đẹp, bởi vì cuộc sống sau này không dễ dãi như nó đã gặp, và bởi vì nó đã không học được kỉ luật, không học được cách sống đúng. Hay một thí dụ khác về con cái nghiện ngập. Thay vì cất thuốc đi (làm thế đứa con sẽ rất khổ sở) thì tôi lại cung cấp thuốc cho nó. Đó không thể gọi được là yêu thương đúng nghĩa.

Nói cách khác: Tình yêu đúng nghĩa không phải là luôn nhượng bộ, dễ dãi và ngon ngọt. Do đó, nếu Đức Giê-su hay Chúa chỉ luôn tỏ ra ngọt ngào, dễ thương, cái gì cũng ừ, thì đó chỉ là một biếm hoạ về tình yêu đích thực mà thôi. Vì Chúa yêu ta, muốn ta lớn lên trong đường chân lí, nên Ngài phải đòi hỏi và cả sửa sai ta. Thiên Chúa phải, như ta nói, „phẫn nộ“, nghĩa là Ngài phải chống lại, khi chính ta sa ngã và rơi và vòng nguy hiểm.



Nghe thật nghiêm khắc.

Điều quan trọng cần biết, một tình yêu chân thật cũng phải có tính nghiêm khắc trong đó. Nó muốn cho người khác điều tốt thật, vì thế nó phải can đảm chống lại, khi người đó chẳng nhìn ra cái tốt, mà cứ đâm đầu vào cái bất hạnh.

Chúng ta cũng đã nói tới khía cạnh tích cực của tình yêu. Nó yêu thích người khác. Nó muốn cho họ được điều tốt đẹp, được hạnh phúc, được nhận ra chính mình. Và như vậy thì tình yêu tốt cho họ. Nhưng tốt cho họ không có nghĩa gì khác hơn là tôi phải bước ra từ điều tốt, phải để cho điều thực sự tốt hướng dẫn và cố gắng giúp người khác trở nên tốt. Như vậy, một hành động yêu đúng nghĩa là hành động bước ra từ điều thiện và lại quay trở vào trong điều thiện. Và như thế, một đàng, yêu cũng có nghĩa là quên mình vì người khác, và mặt khác, cũng là giúp đỡ kẻ khác. Giúp người khác đừng đóng chặt tâm họ lại, cũng đừng vơ vào mọi thứ cho mình, nhưng trái lại giúp họ tìm được con đường mở lòng mình ra, con đường của hạt lúa miến.

Triết gia tôn giáo người Do-thái Martin Buber mô tả tình yêu Thiên Chúa bằng một thuộc tính quan trọng, mà ông gọi là “lôi ra, kéo ra”. Buber nói: “Kéo lôi ra, ngay từ đầu, là bản chất của Thiên Chúa. Kéo ra khỏi những vướng mắc, ra khỏi sự dửng dưng, ra khỏi cô đơn và cô lập”.

Về điểm này ta có thể lấy hình ảnh xuất hành của dân Do-thái ra khỏi tù đày ở Ai-cập làm mẫu. Nhưng nó đã khởi đầu với ơn gọi của Abraham. Chúa đưa ông Abraham ra khỏi gia đình ông và dẫn ông lên đường. Tự căn bản, mỗi người phải làm cuộc xuất hành của mình. Không những người đó phải rời lòng mẹ để trở thành tự lập, mà còn để ra khỏi chính mình. Người đó phải đi ra, qua khỏi mình, chỉ như thế nó mới vào được đất hứa - bước vào được không gian tự do, để từ đây góp tay xây dựng thế giới. Bản chất của tình yêu là vượt qua, quy luật nền tảng đó chúng ta đã biết. Hẳn nhiên, hành động của kẻ yêu tôi cũng là một hành động vượt qua. Nó phải kéo tôi ra khỏi bản năng thoải mái muốn ở lại trong chính tôi.



Một bậc thầy về phân tâm, Erich Fromm*, đã tự hỏi: Tại sao ta phải yêu?

Fromm nghĩ là câu trả lời nằm trong kinh nghiệm hãi hùng về cô đơn, về chia lìa, phát

sinh từ biến cố bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Chính vì vậy con người mới có nhu cầu mạnh mẽ hướng tới sự đồng dạng, tới những kinh nghiệm ngất ngây trong một nhóm. Đối lại, ông cho rằng nghiện rượu, nghiện thuốc và tự tử trong thế giới hiện nay là triệu chứng thất bại trong nỗ lực đồng dạng.

Rồi Fromm bước thêm một bước. Ông nói, chúng ta không thể giải quyết tình trạng chia lìa này bằng việc làm, thành công, thích nghi hay cả bằng những kinh nghiệm ngất ngây, tất cả những thoả mãn đó chỉ mang tính cách tạm thời. Câu trả lời đích thực cho vấn nạn nền tảng đó chỉ có qua việc kết hợp với một người khác, nơi tình yêu. Fromm: “Đòi hỏi kết hợp với một người khác là đòi hỏi mạnh nhất nơi con người. Đó là đòi hỏi căn bản nhất, là sức mạnh duy trì giống người, duy trì bộ tộc, gia đình và xã hội. Thất bại của đòi hỏi đó có nghĩa là điên loạn hoặc huỷ diệt - tự huỷ diệt hay hủy diệt kẻ khác. Theo ông, không có tình yêu, nhân loại không thể hiện hữu được chỉ một ngày”.

Cái hay của Fromm, là ông coi cô đơn đối nghịch với tình trạng tự nhiên của tâm hồn con người. Nếu cô đơn là không được yêu, là bị bỏ rơi, là chỉ có trơ một mình mà thôi, và như thế đời tôi trống rỗng, thì tình trạng đó quả là nỗi kinh hãi sâu xa nhất của mọi kinh hãi. Từ đó, ta lại thấy con người, nhìn từ bên trong, quả là hình ảnh của Chúa, nó được tạo nên để được yêu và để trở thành một kẻ yêu.

Tôi tin rằng, ở đây ta nhất định phải nói tới hình ảnh Chúa trong con người. Thiên Chúa là tình yêu. Chính tình yêu nền tảng thể hiện trong ba ngôi. Con người là hình ảnh Chúa, như vậy, nó được sinh ra với động lực chính yếu là để nhận và cho tình yêu.

Con đường đưa vào tình yêu đúng nghĩa gắn liền với sự từ bỏ mình, nghĩa là gắn liền với nỗ lực của một cuộc xuất hành. Do đó, trên con đường dẫn tới nó, đã phục sẵn nhiều cám dỗ thúc ta muốn đạt đích nhanh, bằng qua những thoả mãn thay thế, mà anh đã vừa đề cập ở trên.

Chỉ về sau người ta mới hiểu ra, cái thay thế đó chỉ là những lừa đảo kinh tởm, nó rốt cuộc xô ta vào nỗi cô đơn kinh hoàng, xuống hố thất vọng của sự trống rỗng tuyệt đối. Hình ảnh hoả ngục là đó. Bởi khi ta tự hỏi, bị giam lửa hoả ngục là gì, thì điều đó có nghĩa: chẳng còn tìm được thích thú nơi cái gì nữa cả, chẳng yêu thích gì nữa cả, chẳng thích ai mà cũng chẳng được ai thích. Hết khả năng yêu, và như thế là bị đuổi ra khỏi không gian có thể yêu – đó là sự trống rỗng tuyệt đối, trong đó con người sống mâu thuẫn với chính mình và cuộc sống tiêu vong hoàn toàn.

Nếu thật bản chất con người là giống Chúa, là trở thành một kẻ yêu, thì nhân loại và mỗi người chúng ta chỉ có thể tồn tại khi tình yêu có mặt và khi ta cũng được chỉ dạy để đi tới tình yêu đó. Ở đây, ta có thể quay trở lại với Đức Ki-tô: Hành động cứu chuộc của Đức Ki-tô nằm nơi chỗ Ngài làm cho ta hiểu được tình Chúa yêu ta như thế nào. Ngài mang tình đó tới với mỗi chúng ta, và chính Ngài vác thập giá đi với ta tiến về mục tiêu quên mình, từ bỏ mình.Với hành động đó, Ngài đã biến luật yêu thương thành quà tặng yêu thương, và như thế là Ngài đã thắng vượt được nỗi cô đơn của mọi cô đơn, nỗi cô đơn này cũng có thể coi như là việc mất ơn cứu chuộc.



Học yêu như thế nào?

Nhưng quả lạ, dù cho khao khát yêu thương cắm rễ sâu như thế trong lòng, con người vẫn coi những cái khác quan trọng hơn: Thành công, tình dục, danh tiếng, tiền, quyền. Hầu như tất cả sinh lực của ta được bỏ ra để tìm cách đạt những đích đó. Và hầu như chẳng ai quan tâm một tí gì để học lấy nghệ thuật yêu.

Nhiều điều anh vừa nói chỉ là những con đường tắt, đường thế. Họ làm thế để chóng đạt đích mà chẳng phải phiêu lưu vào con đường từ bỏ mình. Đó là một chuyện. Còn việc phát triển khả năng mình thì họ coi là chuyện phụ. Việc phát triển khả năng này chính là ơn gọi của con người – và cũng có thể nói nhờ đó họ mới thực thi được sứ mạng yêu thương của mình.

Con người cần cập nhật và tập luyện những khả thể đã được Tạo hoá đặt để trong họ, họ cần làm một cái gì đó trong cuộc đời này. Như vậy, việc học nghề và nỗ lực dấn thân cho nghề đó rõ ràng không đi ngược lại nhiệm vụ căn bản của tình yêu, nhưng là cụ thể hoá tình yêu. Có thể nói, tôi chỉ hoàn thành đầy đủ sứ mạng yêu thương của tôi, khi tôi hoàn toàn trở nên kẻ mà tôi có thể trở thành, khi tôi cho được cái tôi có thể cho, khi tôi mở ra cho tạo vật và quan hệ giữa người với người những khả thể giúp nhau chung sống, và làm cho sự phong nhiêu của thế giới và đời sống trở thành vườn ươm an toàn và tự do.

Nhiệm vụ căn bản trên sẽ không thành đạt, khi việc học nghề chỉ còn nhắm tới việc tập luyện những khả năng; khi việc làm chủ thế giới và khả năng kiếm tiền, khả năng sử dụng quyền lực tách rời khỏi nhiệm vụ thâm sâu của tình yêu, là hiện diện cho và vì người khác; khi quyền hành khiến tôi không còn cho đi được nữa; và cả khi tôi chỉ còn biết có tôi, chỉ còn biết ôm vào mọi thứ cho tôi, và như thế khả năng yêu trong tôi bị chết ngộp. Và rồi con người bị chế ngự bởi quyền và của, và không còn biết đánh giá đúng những thứ đó nữa.

Quan trọng là chúng ta đừng xem chính khả năng của ta, việc học nghề của ta là một thứ gì thứ yếu. Nhưng mọi tài năng của ta, và cả mọi khả năng kĩ thuật của con người, phải giữ đúng chỗ của chúng, và không được chỉ biết có chúng mà thôi. Khi quyền trở thành tâm điểm, nó sẽ biến con người thành nô lệ, và như vậy quyền lúc đó là đối lực của tình yêu.



Câu hỏi cụ thể: Một Hồng Y cũng có thể học nghệ thuật yêu?

Người ta không học yêu, như học chơi đàn hay học sử dụng máy vi tính. Mà có thể nói phải luôn học nó với từng việc một. Và dĩ nhiên cũng học nó từ những người gương mẫu. Trước hết từ cha mẹ, là gương sáng và là người lãnh đạo, mà ta coi như là những vị đã thành nhân. Sau nữa, học qua những cuộc gặp gỡ trong đời. Học nơi tình bạn, nơi công tác nối tôi với kẻ khác, nơi một nhiệm vụ. Điều quan trọng là không phải đi tìm chính mình qua những quan hệ và việc làm đó, mà là để tìm ra con đường cho đi, và nhờ đó biết nhận vào một cách đúng đắn.

Phần tôi, tôi không muốn tự xét đoán mình, nhưng tôi cố bằng mọi cách học yêu qua hình ảnh Đức Ki-tô và các thánh. Nói cách khiêm nhường hơn, là học lấy sự nhân ái nơi các ngài và cố bước theo và làm theo các ngài. Còn việc tôi thật sự học được tới mức nào, thì để cho Chúa và cho người ta phán xét.

Người ta đôi khi có thể lầm. Tôi không quên được hình ảnh mà tôi đã một lần viết về ngài. Trong bài viết tôi lặp lại điều của văn sĩ Stefan Andres. Andres viết trong một chuyện ngắn về một đại quan thẩm tra – hoạ sĩ tài danh El Greco đã hoạ lại hình ảnh đại quan đó - như sau: “Ông ta không dính dáng gì tới tình yêu cả”.

Vâng, một vai trò như tôi người ngoài có thể nhìn thấy như vậy. Dù sao, chúng tôi đã cố dùng tình yêu để đối xử với người khác trong những hoàn cảnh có thể nói là khó khăn. Tình yêu đó, dĩ nhiên, không phải chỉ là ve vãn nhau, nhưng nó cũng đặt ra giới hạn cho chỗ nào có hại, và chỗ nào gây phương hại tới quy luật nội tại của tình yêu. Các cộng sự viên của tôi và tôi cố gắng đặt chính người đó vào một toàn cảnh thuận lợi, để chính người đó nhìn ra vấn đề cần giải quyết. Không phải chúng tôi đơn giản muốn gấp rút khai trừ họ, nhưng muốn phục vụ cả toàn cộng đoàn và trong đó rốt cuộc cũng có cả họ nữa. Và chúng tôi cảm thấy bó buộc phải bảo vệ đức tin của những người bé nhỏ. Vừa rồi, một giám mục danh tiếng kể cho tôi hay, ông đã thấy một trong những người nổi tiếng ở Á châu chống lại Bộ tín lí đức tin tỏ ra cao ngạo quá mức, và thái độ đó đã dẫm đạp lên đức tin của những người bé nhỏ như thế nào. Qua đó, cũng theo giám mục, tôi mới thấy công tác bảo vệ đức tin cho kẻ thấp cổ bé miệng chống lại sự cao ngạo thật quan trọng.



Lời Chúa dĩ nhiên không chỉ được khuôn đúc theo chức vụ, mà còn có thể bị chính người giữ chức vụ làm phai mờ.

Đúng, nguy hiểm đó đương nhiên có. Ta chỉ có thể luôn nỗ lực sửa sai và đừng để nguy hiểm đó đè bẹp mình.

Một vấn đề gặp phải trong vấn đề yêu, là con người ta trước hết chỉ nghĩ tới cách làm sao để được yêu, chứ ít khi làm sao để yêu.

Với cái nhìn như thế thì bản chất tình yêu kể như tiêu. Nếu ta chỉ muốn có được tình yêu mà thôi, thì chắc chắn ta sẽ không nhận được nó, nó sẽ trở nên ích kỉ, thoái hoá, và người khác hẳn cũng nhìn ra được điều đó. Con đường học yêu cũng có nghĩa là vượt thắng mình, từ bỏ mình, học cách trao tặng mình, kể cả khi mình chẳng mong nhận lại được đáp trả nào. Nhất là học cách quên mình cho những người khó thương đối với mình, và cho những người đau khổ đang cần đến mình. Ta hãy nghĩ tới người Samarita. Ta chỉ trở thành kẻ yêu, khi ta không phải lúc nào cũng chỉ nghĩ tới việc thu vén cho mình, mà là lúc ta nỗ lực trở thành kẻ cho đi, kẻ luôn nhìn ra được người bị bỏ rơi không ai đoái hoài, có thể là vì con người đó chẳng có chút thiện cảm nào.



Các bộ mặt của tình yêu

Erich Fromm nói, lãnh vực quan trọng nhất để cho đi không phải là lãnh vực vật chất. Một người cho kẻ khác nhiều nhất, khi người đó cho chính họ, nghĩa là cho đi cái quý giá nhất mà họ có, cho đi cuộc sống của mình. Người đó cho đi niềm vui, sở thích, sự cảm thông, sự hiểu biết của mình, và dĩ nhiên cả cái hài hước lẫn u sầu của mình – nghĩa là tất cả những gì tạo sống động nơi người đó.

Cho, trước hết, không hẳn là cho tiền, điều đó hiển nhiên. Dĩ nhiên người ta có thể rất cần tiền. Nhưng nơi đâu chỉ cho tiền, nơi đó người ta cũng thường gặp cảnh bị xúc phạm. Tôi luôn chứng kiến điều đó nơi thế giới đệ tam. Họ nói với một nhân vật rằng, nếu các anh chỉ gởi cho chúng tôi tiền mà thôi, thì thường các anh làm hư chúng tôi nhiều hơn giúp chúng tôi.

Tiền thường hay bị lạm dụng và thường khiến cho tình trạng gia trọng thêm. Các anh nên cho thêm gì khác. Chính các anh nên tới, các anh nên cho chính các anh, có như thế vật chất mà các anh giúp mới được dùng đúng chỗ, chúng mới không phải là những cái các anh móc túi vứt ra, để tìm cách xí xoá đi những vấn nạn mà chúng tôi đặt ra cho các anh, và những vấn nạn của các anh.

Bao lâu chúng ta chỉ cho tiền và kiến thức, chúng ta chỉ mới cho rất ít. Hiểu như thế thì các nhà truyền giáo là những tấm gương. Họ đã mang Thiên Chúa tới cho người khác. Họ đã làm cho tình yêu trở nên đáng tin. Họ đã trao tặng một con đường sống mới. Họ đã cho chính bản thân họ, không phải chỉ có hai, ba năm mà thôi, không phải vì máu phiêu lưu, mà hiến cả thân mình để đến chung sống, làm một với người. Bao lâu ta chưa học lại được khả năng hiến thân đó, thì cái cho của ta còn quá ít.

Điều đúng trên bình diện thế giới, tất nhiên cũng đúng nơi mỗi cá nhân. Về điểm này, thi sĩ Rilke* có câu thuyện hay. Ông kể, lúc ở Paris, mỗi ngày khi đi ngang qua người đàn bà ăn xin, ông đều thẩy vào mũ bà ấy một đồng tiền. Mỗi lần như thế, ông để ý thấy nét mặt chị ta vẫn bất động, xem ra như chị ấy mất trí. Một ngày nọ, thay vì đồng tiền, ông đưa cho chị một bông hồng. Mặt chị bỗng rạng lên. Lần đầu tiên ông thấy cảm xúc nơi chị. Chị mỉm cười rồi biến mất suốt tám ngày, bởi vì chị đã nhận được cái gì còn hơn tiền.

Tôi tin, đó là một hình ảnh cho ta thấy rằng đôi khi chỉ một bông hồng, một cử chỉ quan tâm, một niềm nở đón nhận người khác còn đáng giá hơn tiền bạc hay những món quà vật chất khác.

Lề luật mới của đấng Cứu thế là Tin Mừng tình yêu. Như vậy phải chăng có thể nói được rằng Giao ước cũ đã mất hết sức sống; phụng vụ, của lễ và lối hiểu về đời sống cộng đoàn của nó kể như chấm dứt? Bởi vì rõ ràng nay là thời điểm để khởi sự một cái gì mới. Malakia, vị tiên tri cuối cùng của Giao ước cũ, đã tuyên bố: „Thiên Chúa của các đạo binh nói: Ta không còn thú vị gì với các ngươi nữa và sẽ chẳng nhận lễ vật nào nữa từ tay các ngươi“.

Tôi không muốn nói rằng Giao ước cũ đã kiệt sức. Người Do-thái vẫn còn sống với nó và vẫn còn luôn rút ra được từ Cựu Ước kho tàng tinh thần lớn. Nhưng, là người công giáo, chúng ta bảo rằng Giao ước đó đang trên đường, và nó đang tiến dần về tới đích, bởi vì nếu không có đích, thì con đường kia chẳng có nghĩa gì. Như vậy, không thể cắt đứt hoặc bỏ đi cái cũ, vì coi như nó đã hết xài, nhưng đó là một con đường đang tiến về đích của nó. Không có đường thì ta không thể tới đích được.

Những phê bình liên quan tới của lễ đã có trong Cựu Ước ngay từ đầu. Thiên Chúa nói với con người trong các Thánh Vịnh: Ta sẽ không nói cho ngươi hay Ta muốn ăn gì; những của lễ thú vật và lễ vật hoả thiêu của ngươi là những thứ Ta không cần, Ta cần trái tim cơ.

Của lễ cũng luôn nói lên cố gắng của con người trong việc công nhận quyền cai trị của Chúa, và ít ra, chúng tỏ dấu cho thấy con người muốn dâng cho Chúa một cái gì của chính họ. Đồng thời, một cách nào đó, họ cũng biết Chúa chẳng màng gì tới thú vật hoặc bê thiêu. Trong ý nghĩa đó, các hành vi thờ cúng trong Cựu Ước đã nhập làm một với lễ vật đích thực, là Đức Ki-tô, kẻ đã hiến thân cho ta và trao ta cho Cha Ngài, là kẻ có thể nói, đã khởi sự dùng tình yêu để biến đổi thế giới. Tình yêu mới là lễ vật đích thật. Nó thay thế cử chỉ vô vọng nơi của lễ thú vật và làm cho những của lễ đó thành vô nVì thế, cũng chẳng phải là một việc tình cờ, khi 40 năm sau cái chết của Đức Ki-tô, Đền thờ đã biến mất khỏi lịch sử, là vì mục tiêu của Đền thờ giờ đây đã được hiện thực (qua Đức Ki-tô) rồi.



Thiên Chúa gởi Con Ngài xuống trần là vì yêu con người – hay vì muốn chia sẻ nỗi đau của họ?

Có lẽ giữa yêu thương và chia sẻ đau khổ chẳng có gì đối nghịch nhau. Chia sẻ đau khổ đích thực không chỉ là một biểu hiện tình cảm. Nhưng đó là một thứ đồng hoá với nỗi đau của kẻ khác, và như vậy nó là một hành động cơ bản của tình yêu .

Người Hi-lạp xưa quan niệm Thiên Chúa bất biến, như vậy họ coi Ngài là tinh thần thuần tuý, và do đó Ngài không thể cảm giác mà cũng chẳng biết đau. Vì thế ki-tô hữu đã phải tự hỏi, vậy thì Thiên Chúa thật sự ra sao? Và Origenes* đã nói một câu thật hay: Thiên Chúa quả thật không biết đau, nhưng Ngài biết cùng đau. Nghĩa là Ngài có thể đồng hoá với ta, với những kẻ đau khổ. Quả là một hành vi yêu thương lớn, khi Thiên Chúa đã đi vào thân xác con người trong Đức Ki-tô để đồng hóa với ta – và như vậy Ngài đồng hoá ta với Ngài và đưa ta vào trong tình yêu của Ngài. Tôi nghĩ, chính khi ki-tô hữu chống lại quan điểm vô cảm hoàn toàn của phái khắc kỉ và đề cao khả năng chia sẻ đau khổ, thì đó cũng là lúc họ tuyên xưng tình yêu. Chia sẻ đau khổ một cách đúng đắn là một hành động yêu thương.




[1] Adolf von Harnack (1851 – 1930): Người Đức, nhà thần học và sử gia Giáo Hội tin lành nổi nhất cuối thế kỷ19 và đầu thế kỷ20. 

[2] Nestle-Aland: thuộc Viện nghiên cứu văn bản Tân Ước của đại học Münster, Đức (INTF). Mục tiêu của Viện là thu thập, xếp loại, đánh giá các văn bản Tân Ước cổ bằng tiếng Hi-lạp (nay đã phát hiện được 5700 văn bản) với hi vọng tái tạo lại được bản gốc của Tân Ước.


Каталог: KHANG

tải về 1.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương