Thiên Chúa và Trần Thế Hồng y Joseph Ratzinger Đgh bênêđictô XVI bản dịch của Phạm Hồng Lam



tải về 1.72 Mb.
trang10/22
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.72 Mb.
#3938
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   22
§2 - ĐỨC GIÊSU KITÔ

Thưa Hồng Y, có thể nói được rằng hình người trên khăn liệm ở Turin là Đức Giê-su thật?

Khăn liệm Turin vẫn còn là một ẩn số, chưa có lời giải rõ ràng, dù có rất nhiều điểm cho thấy đó là tấm khăn thật. Dù sao, không ai trong chúng ta lại không cảm xúc trước sức hút đặc biệt của bóng người đó, trước các vết thương dễ sợ.



Và trước khuôn mặt đầy ấn tượng.

Cả cuộc khổ hình hiện lên một cách mãnh liệt trên khuôn mặt. Đồng thời ta cũng thấy một phẩm giá lớn lao trên đó. Khuôn mặt gợi lên nét yên tĩnh và thoải mái, bình an và thương xót. Như vậy, khăn có thể giúp ta mường tượng được Đức Ki-tô.



Một con người với nét tự tin lớn...

Nếu chỉ là một tự tin của con người, thì đó là một tình tự thái quá. Nhưng trên khuôn mặt đó có một cái gì khác và lớn hơn nhiều: Đức Giê-su biết rằng Ngài hoàn toàn làm một với Cha Ngài, với Chúa. Sự hợp nhất này có tính chất gia đình, nó vượt lên trên tất cả mọi thứ hợp nhất thần bí mà chúng ta biết. Vì vậy Đức Giê-su có lí do để dùng tên gọi Thiên Chúa cho mình – “Ta là điều đó”.



Đó cũng là một con người thỉnh thoảng tỏ ra thô lỗ và cáu kỉnh: „Này, thế hệ không tin và không thể dạy bảo được kia!“ Ngài thất vọng kêu lên: „Tôi phải ở bên các ngươi bao lâu nữa? Tôi còn phải chịu đựng các ngươi bao lâu nữa?“

Chính tôi cũng luôn bị đánh động bởi sự nghiêm khắc và thiếu kiên nhẫn của Ngài đối với con người. Đây có thể là một bài học cho ta về tình yêu, tình yêu luôn đòi hỏi, chứ không đơn giản chỉ là mềm lòng hay chấp nhận thua thiệt mà thôi. Đức Giê-su nhìn con người với đôi mắt Thiên Chúa. Từ cái nhìn đó, ta có thể nhận ra nỗi thất vọng của Ngài đối với con người, và nhận ra cơn giận của Ngài trước cách con người đối xử với tạo vật của Ngài. Những câu trên cho thấy nỗi chán chường và vô tâm của con người đối với Thiên Chúa đã trầm trọng tới cỡ nào, cho thấy khả năng bịt tai và khép kín của con người đã thật sự trầm trọng ra sao trước mặt Chúa.

Khóc lóc và nghiến răng“ là câu Đức Giê-su thích nói nhất. Hễ khi nào muốn ám chỉ điều gì xấu, Ngài lại dùng câu đó.

Bảo đó là câu Ngài thích nói thì có lẽ không đúng. Đó là chữ Ngài dùng khi vấn đề trở nên nguy kịch. „Khóc lóc và nghiến răng“ ám chỉ cái đe doạ, cái nguy hiểm, tóm lại ám chỉ một con người đã hư mất. Nó nói lên hoàn cảnh thế giới, trong đó con người đang ngất ngư trong độc chất và truỵ lạc, rồi vừa khi thoát ra được bỗng nhận ra toàn bộ sự mâu thuẫn của cuộc sống mình.

Hoả ngục thường được diễn tả bằng lửa đốt. Còn nghiến răng chỉ xẩy ra khi bị rét lạnh. Khóc lóc nghiến răng là hình ảnh của một người bị bỏ rơi, bị đẩy ra ngoài trời lạnh, vì hắn không còn chấp nhận tình yêu. Người đó bị đẩy hoàn toàn ra khỏi thế giới của Chúa, cũng là thế giới của thương yêu – đến nỗi phải nghiến răng khóc lóc.

Thỉnh thoảng Đức Giê-su làm trò ảo thuật. Khi môn đệ hết tiền trả thuế Đền thờ, Ngài nói với Phê-rô: „Chèo thuyền ra hồ thả câu; khi bắt được con cá đầu tiên, mở miệng nó ra, anh sẽ thấy một quan tiền trong đó. Dùng tiền đó mà trả thuế cho anh và cho Thầy“.

Không phải bạ đâu Ngài làm phép lạ ở đó. Ngài chỉ làm khi có liên hệ tới đức tin. Ngài nói rõ: Ta đến không phải để làm phép lạ, nhưng để loan truyền nước Thiên Chúa.

Câu chuyện anh kể trên có một ý nghĩa khác, sâu xa hơn. Thật ra Chúa không cần phải trả thuế, bởi vì đền thờ rốt cuộc là chính Ngài, nhưng Ngài đã trả vì vâng lời, và đã trả theo cách thật đặc biệt do Chúa ban. Tôi thấy Ngài mỉm cười khi làm chuyện đó.

GIÊSU - NHÂN VẬT GIẢ TƯỞNG?

Mối hoài nghi về nhân vật Giê-su lịch sử chẳng bao giờ dứt. Có người cho đó là một nhân vật giả tưởng. Có kẻ bảo đó là một thứ thủ lãnh của một giáo phái. Có kẻ lại bảo Ki-tô chỉ là một trong những sơ nguyên tượng được dùng để nói lên bi kịch của kiếp người: đau khổ, lo âu, tình yêu. Và có người còn nói: Vị sư phụ đó xem ra hay đấy, nhưng ông ta đâu có liên hệ gì tới tôi.

Dĩ nhiên, như ta vẫn thấy, người ta có thể hoài nghi mọi chuyện lịch sử. Chẳng hạn như có một vị trý thứcbảo không có Đại đế Karl*, nghĩa là ông chối bỏ cả một lịch sử hai trăm năm. May mà chúng ta không ăn theo trong vụ này. Tài liệu lịch sử cho ta biết về biến cố, nhưng chúng không giúp ta sờ được chính sự kiện.



Như vậy nghĩa là còn có chỗ cho những giả định, hồ nghi?

Không. Ngay cả khi ta chỉ dùng những tiêu chuẩn lịch sử đã được công nhận để xét, thì sự hiện hữu của Đức Giê-su đã quá rõ và đầy đủ, đến nỗi ta không còn nghi ngờ gì nữa về nhân vật lịch sử này. Những gì được truyền tụng về Ngài khác hẳn với những gì có thể tạo ra hay tưởng tượng ra. Chúng bẻ gẫy mọi mô hình giả định.Và ở đây ta có thể nhận ra cả dấu vết của biến cố lẫn những gì sau đó đã hình thành nên từ biến cố đó. Cả hai không thể giải thích được bằng những phạm trù tư tưởng, mà chỉ bằng va chạm nền tảng với một sự kiện đã thực sự xẩy ra. Vì vậy, theo tôi, việc hoài nghi về sự hiện hữu của Đức Giê-su là chuyện thiếu đứng đắn.



Nhưng đâu là nguồn sử liệu thật sự khả tín?

Anh cũng biết, càng ngày người ta càng đào sâu vào tài liệu và bới qua bới lại quanh chúng. Người ta muốn chẻ nhăm chúng ra để phân tích. Để cuối cùng chỉ còn lại một nhúm dữ kiện nghèo nàn và người ta bỗng tự hỏi, làm sao một khuôn mặt nghèo nàn như thế này mà lại cưu mang được những biến cố như thế kia.

Ta không được phép quên điều này: Bức thư thứ nhất gởi giáo đoàn Cô-rin-tô, lá thư làm chứng về việc sống lại của Chúa và về việc lập phép Thánh Thể, đã có bằng văn bản, trước khi Phao-lô khởi sự viết. Lá thư được viết vào thập niên 50 sau ngày chúa Ki-tô sinh. Và nội dung lá thư ghi lại những gì đã được truyền tụng trước đó ở Giê-ru-sa-lem. Như vậy có nghĩa là Phao-lô đã chép lại những gì đã được viết ra, như chính ngài đã nói. Cả văn phong của thư cũng cho thấy ta đang tiến sát thật gần chính ngay các sự kiện.Tôi phải thú thật, càng nghe về những nỗ lực nghiên cứu nguồn sử liệu, tôi càng bớt tin vào các giả thuyết đi quá đà của các chuyên gia. Và những giả thuyết đó cứ lặp đi lặp lại và không ngớt mâu thuẫn nhau. Ngay Albert Schweitzer* đã chỉ trích việc cố công nặn ra một Giê-su lịch sử để đối lại với Đức Ki-tô của niềm tin, việc làm đã được khởi sự từ khi mở đầu thời kì Ánh sáng. Schweitzer bảo, ta tưởng lúc này đây đã có được khuôn mặt thật của Ngài, nhưng thực ra Ngài đã vượt qua thời đại chúng ta rồi và đã trở về lại với chính Ngài rồi.

Tôi nghĩ, tất cả những nỗ lực kia chỉ là những tái cấu trúc, trong đó người ta luôn chỉ nhận ra khuôn mặt của nhà tái tạo mà thôi. Dù là Đức Ki-tô của Adolf Harnarck – phản chiếu típ người tự do của ông; hay là Đức Ki-tô phản chiếu loại triết lí hiện sinh của Bultmann*. Tất cả những cấu trúc đó đều được thực hiện với ý nghĩnền tảng này: Không thể có Chúa như là một con người được. Vì thế, họ không công nhận tính lịch sử của các biến cố làm tiền đề cho Ngài. Có nghĩa là ở đây người ta đã khởi sự làm việc với một điều kiện, là phải loại ra khỏi biến cố cái lực nội tại của nó – nhưng chính lực này mới là cái tạo cho biến cố sự lôi cuốn và đầy đủ ý nghĩa.



Vậy cách làm việc của ngài như thế nào?

Tôi nghĩ, đúng hơn ta nên đặt câu hỏi: „Khuôn mặt như trong Tân Ước mô tả có nói lên ý nghĩa gì không? Và câu trả lời của tôi có thể sẽ là: Chỉ có khuôn mặt như trong Tân Ước mới thật mang ý nghĩa. Chỉ như thế nó mới mang chiều kích cao cả và mới có thể tạo ra được những biến cố như kia. Vì thế, theo xác tín của tôi, ta có lí do để tin vào Tin Mừng, dù cho mọi phê bình nguồn sử liệu, mà mình cũng có thể học được trong đó nhiều chuyện. Có thể có những tiểu tiết lưu truyền đã bị người đời sau làm biến thể, nhưng tựu trung các chứng từ Tin Mừng đều đáng cậy, và ta có thể gặp được khuôn mặt thật của Đức Ki-tô trong đó. Tin Mừng đáng cậy hơn nhiều so với những tái cấu trúc lịch sử xem ra vững chắc.

Tôi muốn thêm: Tin Mừng Gio-an, mà một thời gian dài chỉ được xem như là một sáng tác thuần tuý thần học (Bultmann chẳng hạn đã cố minh chứng đó là sản phẩm của các phong trào ngộ giáo), ngày nay lạ lùng thay đã được công nhận là một sử liệu. Tin Mừng này có những chỉ dẫn địa lí đúng đắn nhất, và có một kiến thức đúng nhất về lối nghĩ và cách sống của người Do-thái thời đó. Nhà chú giải Klaus Berger ở Heidelberg vì vậy muốn coi nó là bản văn kì cựu hơn các Tin Mừng khác. Điểm này có lẽ tôi không cùng quan điểm. Tục truyền bản văn hình thành vào cuối thế kỷthứ nhất. Ta cứ việc biết như thế. Tuy nhiên đó là một tài liệu với kiến thức rất chính xác, và viễn kiến thần học của nó không tách khỏi nền tảng lịch sử.

8. MẠC KHẢI

Có lần, nhà thần học người Pháp Henri de Lubac* nói, chính cuộc đời Đức Ki-tô là điểm mầu nhiệm được ưa thích nhất. Việc làm của Ngài, một mặt, là hành vi của một con người thường, nhưng mặt khác cũng là hành vi của một con người mang thiên tính. De Lubac viết: „Tìm hiểu ý nghĩa cuộc đời Đức Ki-tô có nghĩa là thâm nhập vào thực tại của Thiên Chúa“. Phải chăng có nghĩa là khi ta tập tìm hiểu cuộc đời Đức Ki-tô, ta sẽ nhận ra và bắt gặp được Chúa cũng như toàn bộ cuộc đời mình?

Cuộc sống của ta chỉ có chất liệu và nền tảng, khi ta càng thấm nhập vào và cùng sống với cuộc sống của Đức Ki-tô. Nhờ nền tảng đó, ta mới có thể hiểu được Thiên Chúa. Đó là điểm cơ bản. Lời Đức Ki-tô có tầm quan trọng không có gì thay thế được, nhưng ta không được phép thu gọn Ngài vào lời mà thôi. Thịt, như thánh Gio-an nói, cũng có vai trò của nó, đó là lời được sống, và thịt cũng đã dẫn tới thập giá. Chỉ khi ta ngắm nhìn cả con người toàn diện và sống động của Đức Giê-su, lúc đó lời mới toát ra chiều kích cao cả chứa đựng trong nó. Như thế, muốn hiểu được sứ điệp của Ngài, nhất thiết phải ngắm nhìn cuộc sống và khổ nạn của Ngài.



TIÊN TRI VÀ SỨ GIẢ

Như vậy, ta hãy tìm hiểu rõ hơn về hình dáng, cuộc sống và sứ điệp của Đức Giê-su Ki-tô. Hãy bắt đầu với Gio-an: „Từ khởi thuỷ là Lời / và Lời đã trở thành thịt / và ở giữa chúng ta, / và chúng ta đã thấy vinh quang của Lời, / vinh quang của Con một của Cha, đầy ân phúc và chân lí“. Hẳn đây là đoạn mở đầu cao sang nhất xưa nay chưa từng được viết ra trên thế giới.

Những lời đầu tiên của Tin Mừng Gio-an là nhịp cầu nối liền lịch sử tạo dựng, nguồn cội mọi loài, với biến cố đã xẩy ra ở Pa-les-tin . Chúng nói lên điều này: Logos / Lời sáng tạo làm nên thế giới kia đã hiện thân trong con người Giê-su. Nguồn lực sáng tạo thế giới, như vậy, đã đi vào trần thế và nói chuyện với ta. Một mâu thuẫn lớn đã xẩy ra: Thiên Chúa quá vĩ đại để có thể trở nên bé bỏng. Và bé bỏng đến mức Ngài gặp gỡ ta qua thân xác một con người. Thiên Chúa không đơn giản từ trời rơi xuống và trình diện trước mặt ta, nhưng Ngài đã xuất hiện qua một biến cố lịch sử, biến cố đó là một con đường dẫn tới Ngài. Trên con đường đó, có thể nói, người ta đang chờ Ngài và sứ điệp của Ngài có thể được ta nghe biết.



Gio-an tẩy giả là sứ giả trực tiếp của Đức Ki-tô. Tin Mừng viết: “Ông tới như một người chứng, để làm chứng cho Ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin”.

Trong biến cố lịch sử kia, xét về thời điểm lịch sử, đã có một tiên tri, một chứng nhân cuối cùng, xuất hiện trước Đức Giê-su. Gio-an làm phép rửa là đại diện của một thứ phong trào cảnh tỉnh. Is-ra-en sôi bỏng lúc đó đang nóng lòng về một vị cứu tinh, một Messias. Dân tộc này bị ngoại bang thống trị, vẫn luôn mang trong mình hi vọng được giải phóng, và họ tin là chuyện đó sẽ trở thành hiện thực. Mặt khác, đó là một thời không có tiên tri. Xem ra ánh sáng tiên tri lúc đó đã tắt.



Gio-an đến từ sa mạc, và ông giảng điều mới mẻ. Ông bảo, ông là “tiếng kêu trong sa mạc”. Ông làm phép rửa liên tục “bên kia bờ sông Gio-đan”, như sách chép. Và hôm đó, khi thấy Đức Giê-su tới với mình, ông đã nói một câu đầy bí ẩn: “Hãy xem Con Chiên Thiên Chúa, đấng xoá tội trần gian. Đây là người mà tôi đã nói: Sau tôi sẽ tới một người, người đó vượt trước tôi, vì người đó có trước tôi”.

Gio-an xuất hiện nơi sa mạc như một người được Thiên Chúa thánh hiến. Thoạt tiên, ông giảng về hối cải, thanh tẩy và tụ tập dân chuẩn bị cho Chúa đến. Việc rao giảng đó, có thể nói, là tóm tắt toàn bộ lời tiên tri dẫn vào đúng lúc lịch sử đang hối hả tiến tới mục tiêu của nó. Sứ mạng của Gio-an là mở tung cánh cửa ra cho Chúa, để dân Is-ra-en sẵn sàng đón nhận Ngài và chuẩn bị giờ lịch sử cho Ngài.

Có hai điều quan trọng: thứ nhất, những bài giảng hối cải của ông chứa đựng toàn bộ lời tiên tri; thứ hai, việc chứng tá của ông về Đức Ki-tô đã cụ thể hoá các lời tiên tri đó, qua hình ảnh con chiên, nay là Con Chiên Thiên Chúa. Ta hãy nhìn lại câu chuyện của Ab-ra-ham và I-sa-ac, nhìn lại chuyện tế thú vật mà trong đó chiên giữ vai trò quan trọng, đặc biệt phải có chiên làm của lễ trong dịp vượt qua. Giờ đây đã hoàn tất mọi nỗ lực thay thế đó. Đối với chúng ta, chiên vượt qua trên nguyên tắc là người. Giờ đây Chúa Ki-tô là chiên vượt qua, như thế là Ngài chia sẻ thân phận của ta và làm biến đổi thân phận đó.

Câu thứ hai là một nhắc nhở nhẹ nhàng về thiên tính nơi Đức Giê-su Ki-tô, cho dù điều này Gio-an đã chưa nghĩ tới hết và nói ra hết. Ông bảo, đây không phải là một nhân vật lịch sử nào đó, nhưng là một kẻ vượt lên trước tất cả chúng ta, kẻ đến từ muôn đời Thiên Chúa và là vị thân tín của Ngài.



Tổ phụ Gia-cóp có lẽ đã diễn tả thời điểm vị Cứu tinh này xuất hiện giống như vào lúc Đức Ki-tô giáng sinh. Đó là lúc nhiều người mất đức tin, đám Pha-ri-sêu thì, như sách chép, sống trong kiêu căng và lạnh lùng, những người khác cảm thấy mình như một đàn thú không có người chăn. Ước mong về một vị Cứu tinh đã trở nên nóng bỏng cả nơi dân Do-thái lẫn nơi lương dân. Tiên tri I-sai-a than thở: “Xin trời hãy đổ người công chính xuống!”, “Mây hãy mưa người công chính xuống!”. Nhưng phải chăng những lời báo trước về Đức Ki-tô đó chỉ mới được bịa ra sau này?

Phần đầu câu hỏi của anh có lẽ liên quan tới cái gọi là lời chúc lành của Gia-cóp (Kn, 49), lời đó gồm một số lời hứa đầy bí ẩn cho mười hai con trai của Gia-cóp. Lời chúc cho Giu-đa như thế này: “Nước thống trị sẽ không rời khỏi Giu-đa và gậy quyền hành không rời chân nó, cho đến khi nào vị xứng đáng và được muôn dân tuân phục đến” (49, 10). Lời này sau đó được coi là lời hứa cho vương quốc Đa-vít (Đa-vít thuộc dòng dõi Giu-đa), và đến khi vương quốc này bị xoá sổ - nghĩa là vào thời Đức Giê-su – nó được coi là lời hứa cho một con trai Đa-vít mới, là đấng Messias, đấng mà cả các dân tộc ngoài Do-thái đều vâng phục. Hẳn nhiên, ki-tô hữu coi con trai Đa-vít mới đó là Đức Ki-tô. Nhưng thời điểm Đức Ki-tô đã chưa được viết ra, những câu trên (mà các học giả vẫn chưa thống nhất về thời gian xuất hiện) đề cập tới một điều đang tới với đầy bí ẩn, và ngữ nghĩa của chúng chỉ được sáng tỏ dưới ánh sáng của Đức Ki-tô.

Giờ hãy nói về tiên tri I-sai-a. Thật ra I-sai-a đã nói: “Trời của các ngươi hãy đổ sự công chính”. Nhưng sau khi sự công chính đó hiện thân qua một người, ki-tô hữu mới đọc nó theo kiểu nhân cách hoá. Ta cũng có thể đọc và hiểu tương quan thống nhất giữa Cựu và Tân Ước như một lối mở đường như thế. Lời cựu ước hướng về Đức Ki-tô, lời đó đồng thời kiếm tìm Ngài từ trong bóng tối.

Dĩ nhiên, người ta có thể coi Cựu Ước không có liên hệ gì tới Đức Ki-tô. Nhưng như thế thì lời sẽ khó hiểu, vì thật ra chúng hướng về Ngài. Và dù cho người Do-thái không thể coi Đức Ki-tô là vị đã hoàn thành những lời đó, thì đó chẳng phải là vì họ có ác í gì, song cũng là vì sự khó hiểu của lời kinh, và vì tương quan căng thẳng giữa hình dạng Đức Ki-tô với lời cựu ước. Với Đức Ki-tô, Cựu Ước mang một nghĩa mới – và chỉ nhờ Ngài mà những lời cựu ước mới nhận ra liên quan, hướng đi và ý nghĩa của chúng.

Như thế, có thể loại trừ yếu tố Đức Ki-tô ra khỏi Cựu Ước. Mà cũng có thể làm ngược lại. Cả hai lập luận đều có lí do chính đáng. Đó là cuộc tranh luận hiện nay giữa người Do-thái và ki-tô hữu. Nhưng không chỉ giữa hai tập thể đó mà thôi. Một số đông các nhà chú giải theo khuynh hướng thuần phê bình lịch sử cũng không chấp nhận tính cách con đường và dẫn đường của Cựu Ước, và họ xem lối diễn giải của Ki-tô giáo là không hợp hay đi quá xa nguyên nghĩa lịch sử.

Tóm lại: Cựu Ước không phải là một thứ bói toán, mà là một con đường. Điểm này người ta có quyền tự do chấp nhận hay không. Theo tôi, chính việc tồn tại của Cựu Ước đã là một bảo chứng nói lên Cựu Ước tự nó có ý nghĩa. Cựu Ước rõ ràng có trước Đức Ki-tô về mặt lịch sử, cũng như đức tin của người Do-thái và kinh sách của họ có trước Ki-tô giáo. Các giáo phụ thẳng thắn coi việc người Do-thái công nhận Cựu Ước và phủ nhận Đức Ki-tô là sứ mạng lịch sử nhằm bảo đảm cho tính xác thực và tuổi tác của các sách thánh của họ. Vì thế, các ngài bảo, người Do-thái đã phải tiếp tục là Do-thái, chứ không trở thành ki-tô hữu. Cựu Ước tự nó vẫn có nghĩa, nhưng nếu ta đọc nó với Đức Ki-tô, thì nó mới toát ra ý nghĩa mới và mở ra một cái nhìn toàn diện.



THIÊN CHÚA TỰ SỬA SAI ?

Các lề luật cũ, từ nghi thức tế lễ cho tới cả chuyện khốn nạn “Mắt đền mắt, răng đền răng” cũng được bãi bỏ sau khi Đức Ki-tô xuất hiện. Như vậy, có thể nói được rằng Thiên Chúa đã phải tự sửa sai?

Tôi muốn nói lại chuyện lịch sử. “Mắt đền mắt, răng đền răng” nghe ra kinh khủng thật, nhưng trước hết có thể nói đó là một nguyên tắc điều hoà và hợp lí hoá việc trả thù, không để nó vượt ra khỏi khuôn khổ của hành vi tương ứng. Xem thế thì đó là một tiến bộ rồi, so với luật pháp đương thời. Ở đây phải nói thêm, nếu không có tình yêu thì cái tiến bộ về ý thứcpháp luật đó cũng chẳng giải quyết được gì, chỉ có tình yêu mới bẻ gãy vòng trả thù luẩn quẩn và mới tạo ra được một thực tại mới.

Trong cuộc trao đổi này chúng ta đã đề cập tới câu: “Ta đến không phải để xoá bỏ luật, nhưng để kiện toàn nó”. Chúng ta đã bàn tới câu đó một cách cụ thể trong câu chuyện về của lễ Đền thờ. Của lễ luôn chỉ là một vật thay thế. Và giờ đây, khi nhân vật mang của lễ đích thật xuất hiện, và qua đó giúp ta có thể hi sinh cho Chúa, thì toàn bộ ý nghĩa về việc tế lễ kia đã hoàn tất trong Ngài. Và chính Ngài là đền thờ sống động thay cho mọi thứ đền thờ. Như vậy, Ngài đến không phải để xoá bỏ cái gì, nhưng là để đưa nó đạt tới đích.

Trong ý nghĩa đó, của lễ dâng cho Đền thờ đã được hiện tại hoá trong Mình Thánh, một hình thái mà trước đó mới chỉ có được những hình ảnh xa gần mà thôi. Như vậy, có thể nói, Thiên Chúa đã không tự sửa sai. Nhưng trái lại, Ngài giúp ta thấy được động lực nội tại và hướng tới của con đường mà Ngài thoạt tiên đã mở cho ta, nhưng ta chưa thể đi tới nổi. Ý nghĩa thực sự của con đường đó giờ đây đã được kiện toàn và có được đúng chỗ của nó.



Kinh Thánh nói về một “Is-ra-en mới, một dân thiên chúa mà Ngươi đã gọi”. Nghĩa là giờ đây, với sự xuất hiện của đấng Cứu tinh, những người đi theo Ngài, các ki-tô hữu, trở thành dân mới, dân được Thiên Chúa chọn riêng?

Vâng, có thể nói được như thế. Có thể nói đó là Is-ra-en mở rộng. Thánh Phao-lô nói rõ, con cái Ab-ra-ham không phải chỉ là những người máu mủ, nhưng là tất cả những ai có chung đức tin với ông. Như vậy, vòng máu mủ của Is-ra-en được nới rộng ra bởi cộng đoàn Đức Ki-tô. Nhờ vào một quyết định nền tảng (nhất là vào một quà tặng) mà cộng đoàn này đã trở thành một dân, khiến cho lời hứa giờ đây trở thành phổ quát.



Chữ được chọn nghe không ổn lắm, vì nó gợi lên sự hạn chế, cho rằng ta đây là kẻ tốt hơn. Theo nghĩa ban đầu của Kinh Thánh, chữ này muốn nói tới việc Chúa chọn một dân tộc, để giao cho họ một công tác, và để họ thông báo tới những dân khác một điều gì. Như vậy, được chọn luôn có nghĩa là chọn cho một việc gì đó. Về một khía cạnh nào đó, có thể nói, kẻ được chọn phải mang gánh nặng, vì phải nhận trách nhiệm cho kẻ khác.

Trong ý nghĩa đó, ý niệmđược chọn và ý niệmIs-ra-en bao gồm tất cả những ai nhờ qua Đức Ki-tô trở thành con cháu của Ab-ra-ham, trở nên con cái của Thiên Chúa hằng sống. Tuy nhiên, họ không phải được chọn để sống cho người khác, hầu có được hộ chiếu đặc biệt bước qua cửa thiên đàng, nhưng là để tham dự vào việc phục vụ Đức Ki-tô, vào công tác của Is-ra-en đối với lịch sử.



9. ÁNH SÁNG

Quái lạ : Thiên Chúa toàn năng vô cùng lại chọn một chốn hèn kém nhất ở trần gian, một chuồng súc vật sơ sài ở Bê-lem, để sinh ra. Và lập luận của Giáo Hội : Chỉ vì điều đó quá khó tin và quá mâu thuẫn nên nó phải là chuyện có thật.

Lối lập luận đó không đủ. Nhưng thật ra, việc chọn cái bé nhỏ là nét đặc thù trong lịch sử Thiên Chúa với con người. Cái đặc thù đó ta thấy trước hết qua việc Ngài chọn trái đất, một hại bụi trong vũ trụ, làm nơi hành động; trong đó dân tộc yếu đuối như Is-ra-en lại được chọn để mang lấy lịch sử của Ngài ; rồi Na-da-ret, một chốn hoàn toàn không ai biết đến, trở thành quê hương Ngài ; và rồi cuối cùng Con Thiên Chúa lại sinh ra ngoài làng Bê-lem, trong một chuồng súc vật. Tất cả như một sợi chỉ đỏ.

Chúa dùng đơn vị đong đo duy nhất của Ngài là tình yêu để đối lại thói kiêu căng của con người. Kiêu căng chính là hạt nhân, là nội dung chính của mọi tội lỗi, nghĩa là của cái tự-coi - mình- muốn- bằng- Thiên Chúa. Tình yêu, trái lại không phải là tự cao, mà tự hạ. Tình yêu cho thấy chính lúc hạ mình là lúc ta vươn lên. Chính khi ta hạ mình, khi ta trở nên đơn giản, cúi xuống với kẻ đói rách, nghèo hèn, khi đó ta mới thật lên cao. Chúa trở nên bé nhỏ, để đưa con người dương dương tự đắc trở về lại đúng chỗ của nó. Xem thế thì quy luật của sự bé nhỏ là khuôn thước nền tảng của hành động Thiên Chúa. Quy luật đó giúp ta nhận ra bản chất Thiên Chúa, và cả chính bản chất của ta. Như vậy, lập luận trên tự nó đã chứa đựng một luận lí cao và trở thành chỉ dấu cho sự thật.

Cảnh tượng giáng sinh đã trở thành nổi tiếng thế giới, và Friedrich Händel[1] đã biến nó thành bất tử qua bản nhạc đại hợp xướng « Messias ». Một thiên thần, bao bọc bởi hào quang thiên chúa, xuất hiện giữa đêm đen báo tin cho những người canh giữ súc vật : « Các bạn đừng sợ ! Tôi báo cho các bạn một tin vui lớn ». Và trong khi thiên thần đang nói, từng đoàn thần linh thiên quốc quần tụ quanh ngài đồng xướng lên lời ca vang vọng trần gian : « Vinh-danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người lòng ngay ».

Đó quả là một trong những cảnh đánh động con tim nhất của Kinh Thánh. Sự đánh động đó đã có từ thời Giáo Hội sơ khai rồi, cứ nhìn vào nghệ thuật thời đó ta có thể thấy điều này. Cảnh tượng đó đi vào lòng người, nhưng sứ điệp của nó còn vươn xa hơn những gì thú vị và đáng yêu.

Cũng lại những người bình dân mộc mạc là những kẻ đầu tiên được gọi tới máng cỏ. Hê-rô-đê không biết chuyện xẩy ra. Cả các nhà thông thái thoạt tiên cũng không biết. Tin vui đã tới với những người chăn súc vật, những người đang trông chờ ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với họ. Họ là những người sẵn sàng và biết mở lòng đón nhận. Những người này, cùng với Maria và Giu-se, với Si-me-on và An-na, với E-li-sa-bet và Za-ka-ria-a, là đại biểu của giới nghèo hèn trong Is-ra-en – và như thế là toàn bộ Dân Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy trong Thánh Vịnh chữ kẻ nghèo và kẻ lòng nhân là từ chỉ bao trùm thành phần tín hữu ở giữa trong dân Is-ra-en. Cũng như khi Đức Ki-tô khen các trẻ nhỏ là Ngài khen những tâm hồn đơn sơ biết nhìn và lắng nghe tin vui của thiên thần.

Nhóm người thứ hai tới Bê-lem, như Tin Mừng Mat-thêu cho hay, là những nhà thông thái từ phương đông. Rất có ý nghĩa. Kẻ đơn sơ đi trước, nhưng các nhà trý thứccũng không bị loại ra ngoài. Nơi họ có một sự khôn ngoan đích thực, khiến họ mở lòng mình ra cho Đức Ki-tô. Và còn một điều quan trọng nữa. Những nhà thông thái tới máng cỏ là người ngoại. Đây có thể nói là những hình ảnh nói lên chuyển động của Giáo Hội, của người ngoại.



THỜI ĐIỂM QUAN TRỌNG NHẤT CỦA LỊCH SỬ

Giám mục người Đức Rudolf Graber cho rằng biến cố kia đã « vượt xa vô cùng biến cố tạo dựng vũ trụ ». Chưa bao giờ có một biến cố lớn như thế xẩy ra, và cũng không bao giờ sẽ xẩy ra một biến cố mang tầm vóc như thế : « Bởi vì việc con một của Thiên Chúa, ngôi hai Thiên Chúa, sẵn sàng làm người trong một địa cầu tí hon này là chuyện vượt trên tất cả mọi cái có thể tưởng tượng ».

Vâng, đó là một bài học rất quan trọng, để ta hiểu được đúng ý niệmvề cái lớn và cái bé. Nhìn trên khía cạnh vật chất, việc tạo dựng vũ trụ là một biến cố lớn lao vô cùng. Bên cạnh đó, biến cố nhỏ nhoi xẩy ra ở Bê-lem, mà các sử gia thoạt tiên đã bỏ quên, quả là chuyện không đáng bàn tới.

Xét về lượng thì hai biến cố trên khác xa nhau. Tuy nhiên, nếu ta thấy được chỉ một trái tim người mà thôi cũng là một độ lớn mới trước toàn cảnh của vũ trụ, như Pascal nói, thì lúc đó ta sẽ hiểu được việc Thiên Chúa làm người, việc đấng Tạo dựng, Lời muôn đời (Logos) chấp nhận bước vào thân phận làm người và tự buộc mình vào thân phận đó, cũng là một độ lớn khác hẳn. Thiên Chúa xuống trần và trở thành người. Đứng trước chiều kích này, cái độ lớn xem ra vô cùng của thế giới vật chất cũng trở thành nhỏ.

Biến cố Đức Giê-su sinh ra đã trở thành huyền thoại lớn nhất cho mọi thời từ hai ngàn năm nay. Ngày nay, không ai mà không biết đến đêm đó. Không đâu trong Giáo Hội niềm tin thể hiện tràn bờ như trong biến cố này. Giáng sinh có một lượng biểu tượng, giá trị, đạo đức và u sầu, nghĩa là một lượng về thực thể con người, không gì sánh nổi. Đôi lúc tôi nghĩ, chúng ta biết nhiều về giáng sinh thật, nhưng hẳn giáng sinh biết chúng ta nhiều hơn nhiều.

Có lẽ, một lần nữa, ta phải thống nhất với nhau về nghĩa chữ « huyền thoại ». Ngày nay, chữ này được hiểu theo nghĩa tích cực, nó nói lên một thứ viễn kiến về những thực tại vượt khỏi giác quan con người, như vậy nó chứa đựng một chân lí cao hơn cái thuần thực tại đang có. Nhưng, cho dù mang nghĩa tích cực đó, « huyền thoại » chống lại lịch sử. Nó là viễn kiến, chứ không phải sự kiện thực tế. Việc Đức Ki-tô giáng trần, trái lại, là một biến cố lịch sử, một cái gì đã diễn ra thật và đã trở thành biến cố lịch sử. Việc gắn liền với lịch sử thật đó là một nét đặc thù của lịch sử Ki-tô giáo.

Quả thật lạ lùng, cái đêm trong chuồng súc vật, trong hang đá đó, thoạt tiên được các mục đồng để ý đến khi nghe thiên thần loan tin, giờ đây đã trở thành một dấu chỉ vượt ra ngoài thế giới Ki-tô giáo, hầu như chẳng còn ai mà không biết đến. Nhưng ta cũng phải nói thêm, song song với việc phổ quát hoá đó cũng có một tiến trình tầm thường hoá ghê sợ xẩy ra.

Ngày nay, khuynh hướng muốn đẩy Ki-tô giáo ra khỏi lễ giáng sinh ngày càng mạnh, nó giống như một hoả tiễn, sau khi lên được độ cao nhất định, liền tách khỏi phần dưới của nó. Ở Mĩ châu, với đà thương mại hoá và tình cảm hoá, lễ giáng sinh trở thành nơi trưng bày cho các cơ sở thương mại lớn. Trước đây, họ trang hoàng giáng sinh với hang đá, nay với những cảnh huyền thoại, nào là với nai, hươu và các ông già Nô-en, từ đó biến cái Ki-tô giáo ra thành cái huyền thoại thật. Dĩ nhiên, vẫn còn cái dư âm chói sáng đánh động con người, khi họ nhận biết Thiên Chúa đã trở thành người. Nhưng đó chỉ là nỗ lực tìm cách giữ lại vẻ đẹp và cái rung động, còn cái ý nghĩa cao sâu hơn nằm trong đó thì người ta lại bỏ đi.



Giáng sinh cho ta thấy, bên cạnh tất cả những suy tưởng và tình cảm lớn, cả những điều hoàn toàn mâu thuẫn, những điều dối trá trong thế giới – và cả những hoài nghi lẫn không tin của ta.

Người ta đã đem quá nhiều tiếng nói của con tim, quá nhiều yếu tố giá trị lớn và quan trọng vào trong biến cố giáng sinh, khiến thoạt nhìn vào, ta có thể thành tâm nói được, là nếu lột hết những thứ đó đi, thì biến cố đích thực kia chẳng còn lại gì (làm vậy là cướp đi nội dung cao cả của giáng sinh, biến nó một cách nào đó trở thành trống rỗng). Nhưng cũng chẳng sao, biết đâu những điều thêm thắt quan trọng và dễ hiểu kia, dù chúng vượt ra khỏi vòng Ki-tô giáo, có thể đưa người ta tìm lại được đức tin. Bí ẩn của đứa trẻ, của sự giản dị, của lòng khiêm nhu – đó là tất cả những gì toát ra từ biến cố giáng sinh. Và ta cũng rất cần đưa vào những bài học mang tính con người đó, để qua đó thấy được khía cạnh nhân tính của Thiên Chúa.

Phong tục tặng quà thật ra bắt nguồn từ một suy nghĩ lớn. Đứa trẻ là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, vì vậy giáng sinh có thể là ngày để người ta trao quà cho nhau. Nhưng nếu việc tặng quà trở thành những chiến dịch thương mại bó buộc, thì việc trao tặng mất ý nghĩa. Và rồi, đúng như câu của Đức Ki-tô nói với các môn đệ : Đừng làm như người ngoại đạo, họ mời người khác, vì họ cũng muốn được mời lại. Nếu chỉ còn là một cuộc trao đổi hàng hoá thuần tuý, thì giáng sinh đã bị khống chế bởi tư dục, nó trở thành một phương tiện cho tính ích kỉ vô đáy và cho lòng hám của lẫn hám quyền – mà thật ra sứ điệp giáng sinh hoàn toàn trái ngược lại. Đem giáng sinh trở về lại nội dung đơn giản của nó, đó có lẽ là một nhiệm vụ lớn của chúng ta.


Каталог: KHANG

tải về 1.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương