Post-synodal apostolic exhortation amoris lætitia



tải về 1.45 Mb.
trang6/20
Chuyển đổi dữ liệu24.08.2017
Kích1.45 Mb.
#32722
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20

Growing In Conjugal Love


120. Our reflection on Saint Paul’s hymn to love has prepared us to discuss conjugal love. This is the love between husband and wife,229 a love sanctified, enriched and illuminated by the grace of the sacrament of marriage. It is an “affective union”,230 spiritual and sacrificial, which combines the warmth of friendship and erotic passion, and endures long after emotions and passion subside. Pope Pius XI taught that this love permeates the duties of married life and enjoys pride of place.231 Infused by the Holy Spirit, this powerful love is a reflection of the unbroken covenant between Christ and humanity that culminated in his self-sacrifice on the cross. “The Spirit which the Lord pours forth gives a new heart and renders man and woman capable of loving one another as Christ loved us. Conjugal love reaches that fullness to which it is interiorly ordained: conjugal charity.”232

Lớn lên trong lòng yêu thương vợ chồng


120. Các suy tư của chúng ta về bài ca yêu thương của Thánh Phaolô đã chuẩn bị để chúng ta thảo luận về lòng yêu thương vợ chồng. Đây là lòng yêu thương giữa chồng và vợ233, một lòng yêu thương được thánh hóa, phong phú hóa và được soi sáng bởi ơn thánh của bí tích hôn phối. Nó là một “cuộc kết hợp có tính cảm xúc”234, thiêng liêng và hy tế, phối hợp cả sự ấm áp của tình bạn lẫn sự đam mê của gợi tình, và kéo dài mãi sau khi xúc cảm và đam mê đã nguội đi. Đức Giáo Hoàng Piô XI từng dạy rằng tình yêu này thấm đượm mọi bổn phận của đời sống vợ chồng và hưởng được vị trí trang trọng235. Được Chúa Thánh Thần đổ xuống, tình yêu mạnh mẽ này là phản ảnh của giao ước liên tục giữa Chúa Kitô và nhân loại, một giao ước đạt tới cao điểm trong việc tự hiến tế của Người trên thập giá. “Thần Khí mà Chúa đổ xuống ban trái tim mới và làm cho người đàn ông và người đàn bà có khả năng yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương chúng ta. Lòng yêu thương vợ chồng đạt tới sự viên mãn mà nó đã được xếp đặt từ bên trong: đức ái phu phụ”236.

121. Marriage is a precious sign, for “when a man and a woman celebrate the sacrament of marriage, God is, as it were, ‘mirrored’ in them; he impresses in them his own features and the indelible character of his love. Marriage is the icon of God’s love for us. Indeed, God is also communion: the three Persons of the Father, the Son and the Holy Spirit live eternally in perfect unity. And this is precisely the mystery of marriage: God makes of the two spouses one single existence”.237 This has concrete daily consequences, because the spouses, “in virtue of the sacrament, are invested with a true and proper mission, so that, starting with the simple ordinary things of life they can make visible the love with which Christ loves his Church and continues to give his life for her”.238

121. Hôn nhân là một dấu chỉ quý giá, vì “khi một người đàn ông và một người đàn bà cử hành bí tích hôn nhân, Thiên Chúa như thể ‘được soi gương’ trong họ; Người in nơi họ các đặc điểm của Người và ấn tích tình yêu không thể xóa bỏ của Người. Hôn nhân là hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thực vậy, Thiên Chúa cũng là sự hiệp thông: Ba Ngôi Cha, Con và Thánh Thần sống đời đời trong một hợp nhất hoàn hảo. Và đây chính là mầu nhiệm hôn nhân: Thiên Chúa biến vợ chồng thành một hiện sinh đơn nhất”239. Điều này có nhiều hậu quả cụ thể hàng ngày, vì vợ chồng “nhờ sức mạnh của bí tích hôn phối, được trao phó một sứ mệnh chân thực và thích đáng, để, khởi đi từ những sự việc đơn sơ tầm thường của đời sống, họ có thể làm cho lòng yêu thương mà Chúa Kitô vốn dành cho Giáo Hội và tiếp tục hiến mạng sống cho Giáo Hội của Người thành hữu hình”240.

122. We should not however confuse different levels: there is no need to lay upon two limited persons the tremendous burden of having to reproduce perfectly the union existing between Christ and his Church, for marriage as a sign entails “a dynamic process..., one which advances gradually with the progressive integration of the gifts of God”.241



122. Tuy nhiên, ta không nên lẫn lộn hai bình diện: không nên đặt lên vai hai con người hữu hạn cái gánh nặng khủng khiếp của việc phải tái tạo một cách hoàn hảo sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Người, vì hôn nhân như dấu chỉ bao hàm “một diễn trình năng động... một diễn trình diễn tiến từ từ qua việc hội nhập các ơn phúc của Thiên Chúa một cách tiệm tiến”242.

Lifelong sharing


123. After the love that unites us to God, conjugal love is the “greatest form of friendship”.243 It is a union possessing all the traits of a good friendship: concern for the good of the other, reciprocity, intimacy, warmth, stability and the resemblance born of a shared life. Marriage joins to all this an indissoluble exclusivity expressed in the stable commitment to share and shape together the whole of life. Let us be honest and acknowledge the signs that this is the case. Lovers do not see their relationship as merely temporary. Those who marry do not expect their excitement to fade. Those who witness the celebration of a loving union, however fragile, trust that it will pass the test of time. Children not only want their parents to love one another, but also to be faithful and remain together. These and similar signs show that it is in the very nature of conjugal love to be definitive. The lasting union expressed by the marriage vows is more than a formality or a traditional formula; it is rooted in the natural inclinations of the human person. For believers, it is also a covenant before God that calls for fidelity: “The Lord was witness to the covenant between you and the wife of your youth, to whom you have been faithless, though she is your companion and your wife by covenant... Let none be faithless to the wife of his youth. For I hate divorce, says the Lord” (Mal 2:14-16).

Chia sẻ suốt đời


123. Sau lòng yêu thương kết hợp ta với Thiên Chúa, lòng yêu thương vợ chồng là “hình thức vĩ đại nhất của tình bạn”244. Nó là sự kết hợp có hết mọi đặc điểm của một tình bạn tốt đẹp: việc quan tâm tới thiện ích của người kia, tính hỗ tương, sự thân mật, sự ấm áp, tính bền vững và sự giống nhau phát sinh từ cuộc sống chung. Cộng vào tất cả những điều ấy, hôn nhân còn thêm tính độc chiếm bất khả hủy tiêu, được phát biểu qua việc cam kết lâu bền sẽ chia sẻ và cùng nhau xây dựng trọn cuộc sống. Ta hãy trung thực và nhìn nhận các dấu chỉ của thực tại: những người yêu thương nhau không coi mối liên hệ của họ là tạm bợ. Những người kết hôn với nhau không mong sự hứng khởi của họ nguội dần. Những người mục kích việc cử hành cuộc kết hợp yêu thương, bất kể mòng dỏn đến đâu, đều tin tưởng rằng nó sẽ vượt qua thử thách của thời gian. Con cái không những muốn cha mẹ chúng yêu thương nhau, mà còn trung thành và ở với nhau mãi mãi. Các dấu chỉ này và các dấu chỉ tương tự chứng tỏ rằng từ trong chính bản chất của nó, tình yêu vợ chồng có tính dứt khoát. Sự kết hợp lâu bền do các lời thề hứa lúc kết hôn nói lên không phải chỉ có tính hình thức hay công thức truyền thống; nó bén rễ trong chính các khuynh hướng tự nhiên của nhân vị. Đối với những người có đức tin, nó còn là giao ước trước mặt Thiên Chúa, một giao ước đòi phải trung thành: “Chúa là chứng nhân của giao ước giữa ngươi và vợ thuở thanh xuân của ngươi, người mà ngươi đã bất trung, dù nàng là người đồng hành với ngươi và là vợ ngươi theo giao ước... Không ai được bất trung với người vợ thuở thanh xuân của mình. Vì Ta ghét việc ly dị, Chúa nói thế” (Mlk 2:14-16)

124. A love that is weak or infirm, incapable of accepting marriage as a challenge to be taken up and fought for, reborn, renewed and reinvented until death, cannot sustain a great commitment. It will succumb to the culture of the ephemeral that prevents a constant process of growth. Yet “promising love for ever is possible when we perceive a plan bigger than our own ideas and undertakings, a plan which sustains us and enables us to surrender our future entirely to the one we love”.245 If this love is to overcome all trials and remain faithful in the face of everything, it needs the gift of grace to strengthen and elevate it. In the words of Saint Robert Bellarmine, “the fact that one man unites with one woman in an indissoluble bond, and that they remain inseparable despite every kind of difficulty, even when there is no longer hope for children, can only be the sign of a great mystery”.246

124.Một lòng yêu thương yếu ớt hay bệnh hoạn, không có khả năng chấp nhận hôn nhân như một thách đố cần được đảm nhận và chiến đấu cho, cần được tái sinh, canh tân và tái sáng chế cho tới chết, không thể chống đỡ một cam kết to lớn. Nó sẽ gẫy đổ trước nền văn hóa phù phiếm luôn ngăn cản diễn trình tăng trưởng không ngừng. Ấy thế nhưng “việc đoan hứa yêu nhau mãi mãi vẫn là điều có thể khi ta nhận rõ một kế hoạch lớn hơn các ý nghĩ và cam kết của ta, một kế hoạch có thể nâng đỡ ta và giúp ta khả năng dành trọn tương lai của ta cho người ta yêu”247. Muốn vượt qua mọi thử thách và luôn trung thành bất chấp mọi sự, tình yêu này cần được ban ơn thánh để củng cố và nâng cao nó. Như lời Thánh Robert Bellarmine nói, “sự kiện một người đàn ông kết hợp với một người đàn bà trong một dây nối kết bất khả tiêu, và họ mãi bất khả phân bất chấp mọi thứ khó khăn, ngay cả khi không còn hy vọng gì có con, chỉ có thể là dấu chỉ một mầu nhiệm cao cả”248.

125. Marriage is likewise a friendship marked by passion, but a passion always directed to an ever more stable and intense union. This is because “marriage was not instituted solely for the procreation of children” but also that mutual love “might be properly expressed, that it should grow and mature”.249 This unique friendship between a man and a woman acquires an all-encompassing character only within the conjugal union. Precisely as all-encompassing, this union is also exclusive, faithful and open to new life. It shares everything in constant mutual respect. The Second Vatican Council echoed this by stating that “such a love, bringing together the human and the divine, leads the partners to a free and mutual self-giving, experienced in tenderness and action, and permeating their entire lives”.250

125. Hôn nhân cũng là một tình bạn có đặc tính của một đam mê, nhưng là một đam mê luôn điều hướng về một cuộc kết hợp mỗi ngày mỗi bền vững và thâm hậu hơn. Được như thế là nhờ “hôn nhân không chỉ được thiết lập cho việc sinh con mà thôi” mà còn để cho lòng yêu thương hỗ tương “được phát biểu thích đáng, tăng trưởng và chín mùi”251. Tình bạn độc đáo giữa một người đàn ông và một người đàn bà chỉ nhận được đặc điểm tổng thể hóa ấy bên trong cuộc kết hợp vợ chồng mà thôi. Nhưng cũng chính trong tư cách tổng thể hóa ấy, cuộc kết hợp này có tính độc chiếm, trung thành và đón chào sự sống mới. Nó chia sẻ mọi sự trong một lòng kính trọng hỗ tương không ngừng. Công đồng Vatican II nhắc lại điều này khi quả quyết rằng “Một tình yêu kết hợp yếu tố nhân loại với yếu tố thần linh như thế phải thấm nhuần cả đời sống và hướng dẫn đôi vợ chồng biết tự do trao hiến cho nhau, qua những tâm tình và cử chỉ trìu mến”252.

Joy and beauty


126. In marriage, the joy of love needs to be cultivated. When the search for pleasure becomes obsessive, it holds us in thrall and keeps us from experiencing other satisfactions. Joy, on the other hand, increases our pleasure and helps us find fulfilment in any number of things, even at those times of life when physical pleasure has ebbed. Saint Thomas Aquinas said that the word “joy” refers to an expansion of the heart.253 Marital joy can be experienced even amid sorrow; it involves accepting that marriage is an inevitable mixture of enjoyment and struggles, tensions and repose, pain and relief, satisfactions and longings, annoyances and pleasures, but always on the path of friendship, which inspires married couples to care for one another: “they help and serve each other”.254

Niềm vui và cái đẹp


126. Trong hôn nhân, niềm vui yêu thương cần được vun sới. Khi việc tìm kiếm khoái lạc trở thành ám ảnh, nó sẽ kiềm giữ ta trong nô dịch và ngăn cản ta cảm nghiệm nhiều niềm sảng khoái khác. Đàng khác, niềm vui sẽ gia tăng sảng khoái của ta và giúp ta đi tìm thỏa mãn trong rất nhiều sự vật, ngay cả trong những thời khắc của cuộc sống lúc sảng khoái thể lý đã xuống dốc. Thánh Tôma Aquinô nói rằng chữ “vui” có ý nói tới việc mở rộng tâm hồn255. Ta có thể cảm nghiệm được niềm vui vợ chồng ngay giữa lúc đang buồn phiền; nó hệ ở việc biết chấp nhận điều này: hôn nhân là một pha trộn nhất thiết phải có gồm hưởng thụ và đấu tranh, căng thẳng và thư giãn, đau đớn và khuây khỏa, thỏa mãn và chờ mong, khó chịu và khoan khoái, nhưng luôn ở trên con đường của tình bạn, một con đường gây hứng để vợ chồng chăm sóc lẫn nhau: “Họ giúp nhau và phục vụ lẫn nhau”256.

127. The love of friendship is called “charity” when it perceives and esteems the “great worth” of another person.257 Beauty – that “great worth” which is other than physical or psychological appeal – enables us to appreciate the sacredness of a person, without feeling the need to possess it. In a consumerist society, the sense of beauty is impoverished and so joy fades. Everything is there to be purchased, possessed or consumed, including people. Tenderness, on the other hand, is a sign of a love free of selfish possessiveness. It makes us approach a person with immense respect and a certain dread of causing them harm or taking away their freedom. Loving another person involves the joy of contemplating and appreciating their innate beauty and sacredness, which is greater than my needs. This enables me to seek their good even when they cannot belong to me, or when they are no longer physically appealing but intrusive and annoying. For “the love by which one person is pleasing to another depends on his or her giving something freely”.258

127. Lòng yêu thương của tình bạn có tên là “đức ái” khi nó hiểu rõ và biết trân trọng “giá trị lớn lao” của người kia259. Cái đẹp, tức “giá trị lớn lao” khác hơn là sức lôi cuốn thể lý hay tâm lý, giúp ta khả năng biết đánh giá tính thánh thiêng của một con người, mà không bị thôi thúc phải chiếm hữu họ. Trong một xã hội duy tiêu thụ, cảm thức về cái đẹp trở nên nghèo nàn và do đó niềm vui nhạt dần đi. Mọi sự ở đấy đều phải được mua, chiếm hữu hay tiêu thụ, kể cả con người. Mặt khác, tình âu yếm là dấu chỉ một lòng yêu thương không ích kỷ chiếm hữu. Nó làm ta tiếp cận người khác với một lòng kính trọng sâu xa và nỗi sợ lớn lao có thể gây hại cho họ hay tước mất tự do của họ.Yêu thương một người khác bao hàm niềm vui được chiêm ngắm và trân quý cái đẹp và sự thánh thiêng bên trong của họ, những điều luôn vượt quá các nhu cầu của tôi. Điều này giúp tôi tìm kiếm điều tốt của họ cả khi họ không thể thuộc về tôi hoặc họ không còn lôi cuốn nữa về thể lý, trái lại chỉ gây hấn hay gây phiền hà. Vì “lòng yêu thương nhờ đó một người làm vui lòng người kia tùy ở việc họ tự ý cho đi một điều gì đó”260.

128. The aesthetic experience of love is expressed in that “gaze” which contemplates other persons as ends in themselves, even if they are infirm, elderly or physically unattractive. A look of appreciation has enormous importance, and to begrudge it is usually hurtful. How many things do spouses and children sometimes do in order to be noticed! Much hurt and many problems result when we stop looking at one another. This lies behind the complaints and grievances we often hear in families: “My husband does not look at me; he acts as if I were invisible”. “Please look at me when I am talking to you!”. “My wife no longer looks at me, she only has eyes for our children”. “In my own home nobody cares about me; they do not even see me; it is as if I did not exist”. Love opens our eyes and enables us to see, beyond all else, the great worth of a human being.

128. Cảm nghiệm thẩm mỹ của lòng yêu thương được phát biểu trong “cái nhìn” biết chiêm ngưỡng người khác như cùng đích trong chính họ, ngay cả khi họ ốm yếu, già cả hay không lôi cuốn về thể lý. Cái nhìn biết đánh giá có tầm quan trọng rất lớn lao, và từ khước nó thường gây nhiều tai họa. Để được lưu ý, những người phối ngẫu và con cái họ đã phải làm không biết bao nhiêu sự việc! Khi ta không còn nhìn nhau, biết bao mếch lòng và vấn đề đã phát sinh! Đây là điều ẩn khuất phía sau các than vãn và kêu ca ta thường nghe thấy trong các gia đình: “chồng tôi không nhìn tôi; anh ấy hành xử như thể tôi vô hình”. “Anh làm ơn nhìn em khi em nói đi!”. “Vợ tôi không thèm nhìn tôi nữa, mụ chỉ để ý tới con cái!”. “Trong chính căn nhà của tôi, không ai lưu ý gì tới tôi cả; đến nhìn tôi họ cũng không nốt; cứ như thể tôi không hiện hữu”. Lòng yêu thương mở mắt ta và giúp ta khả năng nhìn, đàng sau tất cả những điều khác, là giá trị lớn lao của một con người.

129. The joy of this contemplative love needs to be cultivated. Since we were made for love, we know that there is no greater joy than that of sharing good things: “Give, take, and treat yourself well” (Sir 14:16). The most intense joys in life arise when we are able to elicit joy in others, as a foretaste of heaven. We can think of the lovely scene in the film Babette’s Feast, when the generous cook receives a grateful hug and praise: “Ah, how you will delight the angels!” It is a joy and a great consolation to bring delight to others, to see them enjoying themselves. This joy, the fruit of fraternal love, is not that of the vain and self-centred, but of lovers who delight in the good of those whom they love, who give freely to them and thus bear good fruit.

129. Niềm vui của lòng yêu thương chiêm ngưỡng này cần được vun sới. Vì ta đã được tạo nên để yêu thương, nên ta biết rằng không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui được chia sẻ các điều tốt đẹp: “Hãy cho, hãy nhận, hãy cư xử tốt với nhau” (Hc 14:16). Niềm vui thâm hậu nhất ở trên đời là có thể làm người khác hân hoan, quả là một tiền vị của Nước Trời. Ta có thể nghĩ tới cảnh đáng yêu trong phim Babette’s Feast, lúc bà đầu bếp quảng đại nhận được cái ôm hôn và lời khen biết ơn: “Ôi với chị, các thiên thần đã được vui sướng xiết bao!”. Quả là một niềm vui và an ủi lớn khi đem hân hoan đến cho người khác, thấy họ được sung sướng. Niềm vui này, hoa trái của lòng yêu thương huynh đệ, không phải là niềm vui của người tự phụ, chỉ biết có mình, mà là niềm vui của những người yêu thương, biết hân hoan vì điều tốt của những người mình yêu thương, biết hiến thân cho họ cách tự do và nhờ thế trở nên phong phú nơi họ.

130. On the other hand, joy also grows through pain and sorrow. In the words of Saint Augustine, “the greater the danger in battle the greater is the joy of victory”.261 After suffering and struggling together, spouses are able to experience that it was worth it, because they achieved some good, learned something as a couple, or came to appreciate what they have. Few human joys are as deep and thrilling as those experienced by two people who love one another and have achieved something as the result of a great, shared effort.



130. Mặt khác, niềm vui cũng phát triển nhờ đau đớn và đau buồn. Như Thánh Augustinô từng nói “trong chiến đấu, nguy hiểm càng lớn niềm vui chiến thắng càng cao”262. Sau khi cùng nhau chịu đau đớn và gian nan, vợ chồng có thể cảm nhận chúng rất đáng giá, vì họ đã đạt được một điều gì đó tốt, học được một điều gì đó trong tư cách vợ chồng, hay tiến tới chỗ biết đánh giá con người thực của họ. Ít có niềm vui nhân bản nào thâm hậu và gây hứng khởi bằng niềm vui được cảm nhận bởi hai con người yêu thương nhau và đã đạt được một điều gì đó nhờ một cố gắng lớn lao chung.

Marrying for love


131. I would like to say to young people that none of this is jeopardized when their love finds expression in marriage. Their union encounters in this institution the means to ensure that their love truly will endure and grow. Naturally, love is much more than an outward consent or a contract, yet it is nonetheless true that choosing to give marriage a visible form in society by undertaking certain commitments shows how important it is. It manifests the seriousness of each person’s identification with the other and their firm decision to leave adolescent individualism behind and to belong to one another. Marriage is a means of expressing that we have truly left the security of the home in which we grew up in order to build other strong ties and to take on a new responsibility for another person. This is much more meaningful than a mere spontaneous association for mutual gratification, which would turn marriage into a purely private affair. As a social institution, marriage protects and shapes a shared commitment to deeper growth in love and commitment to one another, for the good of society as a whole. That is why marriage is more than a fleeting fashion; it is of enduring importance. Its essence derives from our human nature and social character. It involves a series of obligations born of love itself, a love so serious and generous that it is ready to face any risk.

Kết hôn vì yêu thương


131. Tôi muốn nói với giới trẻ rằng không điều gì trong các điều trên lâm nguy nếu tình yêu của họ tìm được biểu thức trong hôn nhân. Trong định chế này, sự kết hợp của họ tìm được các phương thế bảo đảm cho tình yêu của họ được thực sự lâu bền và phát triển. Lẽ dĩ nhiên, tình yêu của họ không phải chỉ là sự ưng thuận hay khế ước bên ngoài, tuy nhiên, điều vẫn đúng là việc quyết định dành cho hôn nhân một hình thức hữu hình trong xã hội bằng cách đảm nhiệm một số cam kết sẽ chứng tỏ nó quan trọng đến chừng nào. Nó nói lên tính nghiêm túc của việc người này đồng nhất với người kia và quyết định vững vàng của họ nhất định để chủ nghĩa duy cá nhân của thời niên thiếu lại phía sau và thuộc về nhau. Hôn nhân là một phương thế để nói lên rằng chúng tôi thực sự rời bỏ sự an toàn của tổ ấm nơi chúng tôi từng lớn lên để xây dựng những mối dây liên kết mạnh mẽ khác và đảm nhiệm một trách nhiệm mới đối với một người khác. Điều này có ý nghĩa nhiều hơn là việc chỉ tự phát kết hợp để thỏa mãn hỗ tương, một điều biến hôn nhân thành một việc hoàn toàn có tính tư riêng. Là một định chế xã hội, hôn nhân bảo vệ và lên khuôn cam kết chung nhằm phát triển sâu đậm hơn trong yêu thương và cam kết đối với nhau, vì thiện ích của xã hội như một toàn thể. Đó là lý do tại sao hôn nhân không phải chỉ là một thời trang mau qua; nó là điều quan yếu kéo dài với thời gian. Yếu tính của nó phát sinh từ bản chất nhân bản của ta và đặc điểm xã hội. Nó bao gồm một loạt nghĩa vụ phát sinh từ chính lòng yêu thương, một lòng yêu thương nghiêm túc và quảng đại đến nỗi sẵn sàng đương đầu với bất cứ nguy cơ nào.

132. To opt for marriage in this way expresses a genuine and firm decision to join paths, come what may. Given its seriousness, this public commitment of love cannot be the fruit of a hasty decision, but neither can it be postponed indefinitely. Committing oneself exclusively and definitively to another person always involves a risk and a bold gamble. Unwillingness to make such a commitment is selfish, calculating and petty. It fails to recognize the rights of another person and to present him or her to society as someone worthy of unconditional love. If two persons are truly in love, they naturally show this to others. When love is expressed before others in the marriage contract, with all its public commitments, it clearly indicates and protects the “yes” which those persons speak freely and unreservedly to each other. This “yes” tells them that they can always trust one another, and that they will never be abandoned when difficulties arise or new attractions or selfish interests present themselves.



132. Chọn kết hôn cách trên nói lên một quyết định chân chính và cương quyết nhằm nối kết các nẻo đường đi, bất chấp mọi điều có thể xẩy ra. Vì tính nghiêm túc của nó, cam kết yêu thương công khai này không thể là kết quả của một quyết định hấp tấp, nhưng cũng không nên bị trì hoãn vô định. Cam kết một cách độc chiếm và dứt khoát với một người khác luôn bao hàm một nguy cơ và một ván bài mạnh dạn. Không sẵn sàng đưa ra một cam kết như thế là ích kỷ, tính toán và nhỏ mọn. Nó không biết thừa nhận quyền lợi của một người khác và trình bầy người này cho xã hội như người đáng được hưởng một tình yêu vô điều kiện. Nếu hai người thực sự yêu nhau, họ tự nhiên sẽ bầy tỏ điều này cho nhiều người khác. Khi lòng yêu thương được phát biểu trước nhiều người khác trong khế ước hôn nhân, với mọi cam kết công khai, nó rõ ràng cho thấy và muốn bảo vệ chữ “có” mà những người này nói với nhau một cách tự do và không một chút dè dặt. Chữ “có” này cho họ hay: họ luôn luôn có thể tin tưởng nhau, họ sẽ không bao giờ bị bỏ rơi khi gặp khó khăn hay khi những lôi cuốn mới hoặc những quyền lợi ích kỷ khác xuất hiện.

A love that reveals itself and increases


133. The love of friendship unifies all aspects of marital life and helps family members to grow constantly. This love must be freely and generously expressed in words and acts. In the family, “three words need to be used. I want to repeat this! Three words: ‘Please’, ‘Thank you’, ‘Sorry’. Three essential words!”263 “In our families when we are not overbearing and ask: ‘May I?’; in our families when we are not selfish and can say: ‘Thank you!’; and in our families when someone realizes that he or she did something wrong and is able to say ‘Sorry!’, our family experiences peace and joy”.264 Let us not be stingy about using these words, but keep repeating them, day after day. For “certain silences are oppressive, even at times within families, between husbands and wives, between parents and children, among siblings”.265 The right words, spoken at the right time, daily protect and nurture love.

Một lòng yêu thương tự biểu lộ và gia tăng


133. Lòng yêu thương của tình bạn thống nhất hóa mọi khía cạnh của đời sống hôn nhân và giúp các thành viên gia đình không ngừng lớn mạnh. Tình yêu này phải được phát biểu một cách tự do và quảng đại bằng lời nói và việc làm. Trong gia đình, “ba chữ cần phải dùng. Tôi muốn lặp lại điều này! Đó là ba chữ ‘làm ơn’, ‘cám ơn’, ‘xin lỗi’. Ba chữ chủ yếu!”266. “Trong các gia đình của chúng ta khi chúng ta không hống hách và chúng ta nói ‘cho phép tôi’; trong các gia đình của chúng ta, khi chúng ta không ích kỷ và chúng ta có thể nói ‘cám ơn’; và trong các gia đình của chúng ta, khi một ai đó nhận ra mình đã làm điều gì sai và có khả năng nói ‘xin lỗi’, thì gia đình ta sẽ cảm nghiệm được bình an và vui tươi”267. Ta đừng nên keo kiệt trong việc sử dụng ba chữ này, nhưng hãy tiếp tục lặp đi lặp lại, ngày qua ngày. Vì “một số sự im lặng hết sức ngột ngạt, đôi khi ngay trong các gia đình, giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau”268. Những lời nói đúng, nói đúng lúc, sẽ hàng ngày che chở và nuôi dưỡng được lòng yêu thương.

134. All this occurs through a process of constant growth. The very special form of love that is marriage is called to embody what Saint Thomas Aquinas said about charity in general. “Charity”, he says, “by its very nature, has no limit to its increase, for it is a participation in that infinite charity which is the Holy Spirit... Nor on the part of the subject can its limit be fixed, because as charity grows, so too does its capacity for an even greater increase”.269 Saint Paul also prays: “May the Lord make you increase and abound in love to one another” (1 Th 3:12), and again, “concerning fraternal love... we urge you, beloved, to do so more and more” (1 Th 4:9-10). More and more! Marital love is not defended primarily by presenting indissolubility as a duty, or by repeating doctrine, but by helping it to grow ever stronger under the impulse of grace. A love that fails to grow is at risk. Growth can only occur if we respond to God’s grace through constant acts of love, acts of kindness that become ever more frequent, intense, generous, tender and cheerful. Husbands and wives “become conscious of their unity and experience it more deeply from day to day”.270 The gift of God’s love poured out upon the spouses is also a summons to constant growth in grace.

134. Tất cả các điều trên diễn ra trong một diễn trình tăng trưởng không ngừng. Chính hình thức yêu thương đặc biệt là hôn nhân được mời gọi hiện thân cho điều Thánh Tôma Aquinô nói về đức ái cách chung. Ngài viết: “từ chính bản chất của nó, đức ái không bị giới hạn trong việc tăng trưởng của nó, ví nó tham dự vào đức ái vô biên là Chúa Thánh Thần... Về phía chủ thể, cũng không thể ấn định giới hạn cho nó, vì khi đức ái tăng trưởng, khả năng gia tăng lớn hơn của nó cũng tăng trưởng”271. Thánh Phaolô cũng đã cầu nguyện rằng “Xin Chúa làm cho anh em tăng trưởng và dồi dào trong đức ái đối với nhau” (1Tx 3:12), và câu này nữa, “liên quan tới lòng yêu thương huynh đệ... chúng tôi thúc giục anh em, thưa anh em qúy yêu, anh em hãy làm thế mỗi ngày mỗi hơn” (1Tx 4:9-10). Mỗi ngày mỗi hơn! Lòng yêu thương vợ chồng không được bảo vệ chủ yếu nhờ việc trình bầy tính bất khả tiêu như một bổn phận, hay nhờ việc lặp lại tín lý, nhưng nhờ việc giúp nó mỗi ngày mỗi mạnh mẽ hơn dưới sự thúc đẩy của ơn thánh. Lòng yêu thương nào không chịu tăng trưởng sẽ gặp nguy hiểm. Tăng trưởng chỉ diễn ra nếu chúng ta biết đáp trả ơn thánh của Thiên Chúa qua các hành vi yêu thương không ngừng, những hành vi nhân hậu mỗi ngày mỗi trở nên thường xuyên hơn, thâm hậu hơn, quảng đại hơn, dịu dàng hơn và vui tươi hơn. Các người chồng người vợ “trở nên ý thức được sự hợp nhất của họ và cảm nghiệm nó sâu sắc hơn hết ngày này tới ngày nọ”272. Ơn phúc của tình yêu Thiên Chúa được tràn đổ xuống đôi vợ chồng cũng là lời mời gọi họ tăng trưởng không ngừng trong ơn thánh.

135. It is not helpful to dream of an idyllic and perfect love needing no stimulus to grow. A celestial notion of earthly love forgets that the best is yet to come, that fine wine matures with age. As the Bishops of Chile have pointed out, “the perfect families proposed by deceptive consumerist propaganda do not exist. In those families, no one grows old, there is no sickness, sorrow or death... Consumerist propaganda presents a fantasy that has nothing to do with the reality which must daily be faced by the heads of families”.273 It is much healthier to be realistic about our limits, defects and imperfections, and to respond to the call to grow together, to bring love to maturity and to strengthen the union, come what may.

135. Mơ tưởng một lòng yêu thương có tính điền viên và hoàn hảo không cần bất cứ kích thích nào để tăng trưởng là điều vô ích. Ý niệm thiên giới về một lòng yêu thương trần thế quên khuấy điều này: Điều tốt nhất sẽ còn phải đến, rượu nho càng có tuổi càng ngon. Như các giám mục Chile từng chỉ ra, “Các gia đình hoàn hảo do tuyên truyền lừa bịp duy tiêu thụ đề xuất không hề hiện hữu. Trong các gia đình này, không có người già, không có bệnh tật, buồn sầu hay chết chóc... tuyên truyền duy tiêu thụ trình bầy một hình ảnh tưởng tượng không liên quan gì tới thực tại mà các trưởng gia đình phải hàng ngày đương đầu”274. Sẽ lành mạnh hơn nhiều nếu ta thực tiễn đối với các hạn chế, thiếu sót và bất toàn của ta, và đáp lại lời mời gọi cùng nhau tăng trưởng, cùng nhau đem lòng yêu thương tới chỗ chín mùi và cùng nhau củng cố cuộc kết hợp, bất chấp mọi điều có thể xẩy ra.

Dialogue


136. Dialogue is essential for experiencing, expressing and fostering love in marriage and family life. Yet it can only be the fruit of a long and demanding apprenticeship. Men and women, young people and adults, communicate differently. They speak different languages and they act in different ways. Our way of asking and responding to questions, the tone we use, our timing and any number of other factors condition how well we communicate. We need to develop certain attitudes that express love and encourage authentic dialogue.

Đối thoại


136. Đối thoại là điều chủ yếu để cảm nghiệm, phát biểu và cổ vũ lòng yêu thương trong đời sống hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, nó chỉ có thể là hoa trái của một thời kỳ tập luyện lâu dài và nhiều đòi hỏi. Đàn ông và đàn bà, người trẻ và người lớn, thông đạt khác nhau. Họ nói các ngôn ngữ khác nhau và hành xử khác nhau. Cách ta đặt câu hỏi và trả lời, âm sắc ta sử dụng, việc chọn thì giờ và một số nhân tố khác qui định cách thông đạt tốt của ta. Ta cần phát triển một số thái độ để phát biểu lòng yêu thương và khích lệ việc đối thoại chân chính.

137. Take time, quality time. This means being ready to listen patiently and attentively to everything the other person wants to say. It requires the self-discipline of not speaking until the time is right. Instead of offering an opinion or advice, we need to be sure that we have heard everything the other person has to say. This means cultivating an interior silence that makes it possible to listen to the other person without mental or emotional distractions. Do not be rushed, put aside all of your own needs and worries, and make space. Often the other spouse does not need a solution to his or her problems, but simply to be heard, to feel that someone has acknowledge their pain, their disappointment, their fear, their anger, their hopes and their dreams. How often we hear complaints like: “He does not listen to me.” “Even when you seem to, you are really doing something else.” “I talk to her and I feel like she can’t wait for me to finish.” “When I speak to her, she tries to change the subject, or she gives me curt responses to end the conversation”.

137. Hãy dành thì giờ, thì giờ có giá trị. Nghĩa là sẵn sàng để lắng nghe một cách kiên nhẫn mọi điều người khác muốn nói. Việc này đòi phải tự ra kỷ luật cho mình để đừng nói cho tới lúc thuận tiện. Thay vì đề xuất ý kiến hay lời khuyên, ta cần phải chắc chắn là ta đã nghe hết mọi điều người khác muốn nói. Nghĩa là vun sới sự thầm lặng nội tâm giúp ta có khả năng lắng nghe người khác mà không xao lãng về phương diện tâm trí và xúc cảm. Đừng nên vội vã, hãy để qua một bên mọi nhu cầu và lắng lo của anh chị em, và chừa đủ không gian (cho việc lắng nghe). Người phối ngẫu kia thường không cần một giải đáp cho các vấn đề của họ, cho bằng đơn giản được lắng nghe, cảm thấy có ai đó đang thừa nhận các nỗi đau, các nỗi chán chường, lo sợ, giận hờn, hy vọng và giấc mơ của họ. Biết bao lần chúng ta đã nghe những ta thán như: “anh ấy không lắng nghe tôi”. “Ngay cả khi anh có vẻ (lắng nghe), thực ra anh vẫn đang làm một điều gì khác”. “Tôi nói với cô ấy nhưng tôi cảm thấy như cô ấy không thể chờ cho tôi nói hết”. “Khi tôi nói với cô ấy, cô ấy đều ráng đổi đề tài, hoặc trả lời tôi những câu trả cụt lủn để kết thúc câu chuyện”.

138. Develop the habit of giving real importance to the other person. This means appreciating them and recognizing their right to exist, to think as they do and to be happy. Never downplay what they say or think, even if you need to express your own point of view. Everyone has something to contribute, because they have their life experiences, they look at things from a different standpoint and they have their own concerns, abilities and insights. We ought to be able to acknowledge the other person’s truth, the value of his or her deepest concerns, and what it is that they are trying to communicate, however aggressively. We have to put ourselves in their shoes and try to peer into their hearts, to perceive their deepest concerns and to take them as a point of departure for further dialogue.

138. Hãy khai triển thói quen dành tầm quan trọng thực sự cho người khác. Nghĩa là đánh giá cao họ và nhìn nhận quyền họ được hiện hữu, được suy nghĩ như họ đang suy nghĩ và quyền được hạnh phúc. Đừng bao giờ coi thường điều họ nói hay suy nghĩ, ngay cả khi anh chị em cần phát biểu quan điểm riêng của mình. Mọi người đều có điều gì đó để đóng góp, vì họ có các kinh nghiệm riêng ở đời, họ nhìn sự vật từ một thế nhìn khác và họ có những quan tâm, các khả năng và những cái nhìn thấu suốt riêng. Ta nên có khả năng biết thừa nhận sự thật của người khác, giá trị trong các quan tâm sâu xa nhất của họ, và đâu là điều họ đang cố gắng thông đạt, bất kể hung hãn ra sao. Ta phải đặt ta vào đôi giầy của họ và ráng nhìn sâu vào trái tim họ, nhận rõ các quan tâm sâu xa nhất của họ và lấy đó làm khởi điểm để đối thoại thêm.

139. Keep an open mind. Don’t get bogged down in your own limited ideas and opinions, but be prepared to change or expand them. The combination of two different ways of thinking can lead to a synthesis that enriches both. The unity that we seek is not uniformity, but a “unity in diversity”, or “reconciled diversity”. Fraternal communion is enriched by respect and appreciation for differences within an overall perspective that advances the common good. We need to free ourselves from feeling that we all have to be alike. A certain astuteness is also needed to prevent the appearance of “static” that can interfere with the process of dialogue. For example, if hard feelings start to emerge, they should be dealt with sensitively, lest they interrupt the dynamic of dialogue. The ability to say what one is thinking without offending the other person is important. Words should be carefully chosen so as not to offend, especially when discussing difficult issues. Making a point should never involve venting anger and inflicting hurt. A patronizing tone only serves to hurt, ridicule, accuse and offend others. Many disagreements between couples are not about important things. Mostly they are about trivial matters. What alters the mood, however, is the way things are said or the attitude with which they are said.

139. Hãy có một tâm trí rộng mở. Đừng bị sa lầy vào chính các ý nghĩ và ý kiến của mình, nhưng hãy sẵn sàng thay đổi và mở rộng chúng. Phối hợp hai lối suy nghĩ khác nhau có thể dẫn tới một tổng hợp làm phong phú cả hai. Sự hợp nhất mà ta muốn có không phải là sự độc dạng, mà là “sự hợp nhất trong đa dạng” hay “sự đa dạng hòa giải” (reconciled diversity). Sự hiệp thông huynh đệ được phong phú hóa nhờ lòng kính trọng và biết đánh giá các dị biệt trong một viễn ảnh toàn diện nhằm thăng tiến ích chung. Ta cần giải thoát ta khỏi tâm tư cho rằng tất cả chúng ta phải như nhau. Một sự sắc sảo nào đó cũng cần phải có để ngăn ngừa cái dáng “tĩnh tại” có thể nhiễu loạn diễn trình đối thoại. Thí dụ, nếu những tâm tư khó chịu bắt đầu ló dạng, chúng phải được xử lý một cách mẫn cảm, kẻo chúng làm ngưng đọng tính năng động của cuộc đối thoại. Khả năng nói điều mình nghĩ mà không xúc phạm tới người khác là một điều quan trọng. Phải cẩn thận lựa lời mà nói để đừng xúc phạm tới người khác, nhất là khi thảo luận các vấn đề khó khăn. Nhấn mạnh một điểm không bao giờ được bao gồm việc nói cho hả giận và gây mếch lòng. Giọng kẻ cả chỉ tổ gây mếch lòng, chế diễu, tố cáo và xúc phạm người khác. Nhiều bất đồng giữa các cặp vợ chồng không hẳn là về những việc quan trọng. Phần lớn là về những chuyện vụn vặt. Tuy nhiên, điều làm thay đổi bầu khí là cách sự việc được nói tới hay thái độ khi nói chúng ra.

140. Show affection and concern for the other person. Love surmounts even the worst barriers. When we love someone, or when we feel loved by them, we can better understand what they are trying to communicate. Fearing the other person as a kind of “rival” is a sign of weakness and needs to be overcome. It is very important to base one’s position on solid choices, beliefs or values, and not on the need to win an argument or to be proved right.

140. Hãy tỏ tình âu yếm và quan tâm với người kia. Lòng yêu thương vượt thắng cả những rào cản mạnh nhất. Khi yêu thương ai, hay khi cảm thấy được ai yêu thương, ta có thể hiểu rõ hơn điều họ muốn thông đạt. Sợ người khác như một thứ “đối thủ” là dấu hiệu của yếu đuối, cần được vượt qua. Điều quan trọng là đặt căn bản cho lập trường của mình trên các chọn lựa, niềm tin hay giá trị vững chắc, chứ đừng trên nhu cầu phải thắng một luận điểm hay chứng tỏ mình đúng.

141. Finally, let us acknowledge that for a worthwhile dialogue we have to have something to say. This can only be the fruit of an interior richness nourished by reading, personal reflection, prayer and openness to the world around us. Otherwise, conversations become boring and trivial. When neither of the spouses works at this, and has little real contact with other people, family life becomes stifling and dialogue impoverished.



141. Sau cùng, ta hãy nhìn nhận điều này: để đối thoại xứng đáng, ta phải có một điều gì đó để nói. Điều này chỉ có thể là hoa trái của một sự phong phú nội tâm được nuôi dưỡng bằng việc đọc (sách báo), suy nghĩ bản thân, cầu nguyện và cởi mở đối với thế giới bao quanh. Nếu không, các cuộc đàm thoại sẽ trở nên buồn chán và tầm thường. Khi cả hai người phối ngẫu đều không cố gắng trong phạm vi này và ít giao tiếp thực sự với người khác, đời sống gia đình sẽ trở nên ngột ngạt và cuộc đối thoại trở nên nghèo nàn.


tải về 1.45 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương