Post-synodal apostolic exhortation amoris lætitia


Chapter Seven: Towards A Better Education Of Children



tải về 1.45 Mb.
trang14/20
Chuyển đổi dữ liệu24.08.2017
Kích1.45 Mb.
#32722
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20

Chapter Seven: Towards A Better Education Of Children


259. Parents always influence the moral development of their children, for better or for worse. It follows that they should take up this essential role and carry it out consciously, enthusiastically, reasonably and appropriately. Since the educational role of families is so important, and increasingly complex, I would like to discuss it in detail.

Chương Bảy: Hướng tới việc giáo dục con cái tốt hơn


259. Cha mẹ luôn ảnh hưởng tới việc phát triển con cái về luân lý, hoặc tốt hoặc xấu. Thành thử, họ nên đảm nhiệm vai trò chủ chốt này và thi hành nó một cách có ý thức, hăng hái, hữu lý và thích đáng. Vì vai trò giáo dục của các gia đình quan trọng như thế, và càng ngày càng phức tạp hơn, nên tôi muốn thảo luận việc này một cách chi tiết.

Where Are Our Children?


260. Families cannot help but be places of support, guidance and direction, however much they may have to rethink their methods and discover new resources. Parents need to consider what they want their children to be exposed to, and this necessarily means being concerned about who is providing their entertainment, who is entering their rooms through television and electronic devices, and with whom they are spending their free time. Only if we devote time to our children, speaking of important things with simplicity and concern, and finding healthy ways for them to spend their time, will we be able to shield them from harm. Vigilance is always necessary and neglect is never beneficial. Parents have to help prepare children and adolescents to confront the risk, for example, of aggression, abuse or drug addiction.

Con cái ta đang ở đâu?


260. Các gia đình không thể là gì khác hơn là những nơi để nâng đỡ, chỉ bảo và hướng dẫn, bất kể họ phải tái suy nghĩ rất nhiều về các phương pháp sử dụng và khám phá ra những nguồn tài nguyên mới mẻ. Cha mẹ cần cân nhắc việc họ muốn con cái họ phải giáp mặt với những điều gì, và việc này nhất thiết có nghĩa phải quan tâm đến việc ai sẽ cung cấp việc giải trí của chúng, ai sẽ vào phòng chúng qua ngả truyền hình và các dụng cụ điện tử, và chúng sẽ dùng thì giờ rảnh rỗi của chúng với những ai. Chỉ khi nào ta dành thì giờ cho con cái, nói với chúng một cách đơn sơ và đầy quan tâm về những điều quan trọng, và tìm ra các cách lành mạnh để chúng sử dụng thì giờ của chúng, ta mới có thể bảo vệ chúng khỏi nguy hại. Cảnh giác luôn là điều cần thiết và sao lãng không bao giờ có ích. Cha mẹ phải giúp chuẩn bị để trẻ em và các thiếu niên đương đầu được với các nguy cơ, như gây hấn, lạm dụng hoặc ghiền ma túy.

261. Obsession, however, is not education. We cannot control every situation that a child may experience. Here it remains true that “time is greater than space”.581 In other words, it is more important to start processes than to dominate spaces. If parents are obsessed with always knowing where their children are and controlling all their movements, they will seek only to dominate space. But this is no way to educate, strengthen and prepare their children to face challenges. What is most important is the ability lovingly to help them grow in freedom, maturity, overall discipline and real autonomy. Only in this way will children come to possess the wherewithal needed to fend for themselves and to act intelligently and prudently whenever they meet with difficulties. The real question, then, is not where our children are physically, or whom they are with at any given time, but rather where they are existentially, where they stand in terms of their convictions, goals, desires and dreams. The questions I would put to parents are these: “Do we seek to understand ‘where’ our children really are in their journey? Where is their soul, do we really know? And above all, do we want to know?”.582

261. Tuy nhiên, ám ảnh không phải là giáo dục. Ta không thể kiểm soát mọi hoàn cảnh mà một đứa con có thể trải qua. Ở đây, điều mãi mãi đúng là “thời gian lớn hơn không gian”583. Nói cách khác, khởi đầu một diễn trình là điều quan trọng hơn việc khống chế không gian. Nếu các cha mẹ cứ bị ám ảnh với việc phải biết cho bằng được con cái họ đang ở đâu và lo kiểm soát mọi chuyển động của chúng, thì họ chỉ tìm cách khống chế không gian. Nhưng việc này không hề là giáo dục, là củng cố và chuẩn bị để con cái đương đầu với các thách đố. Điều quan trọng hơn cả là khả năng âu yếm giúp chúng lớn mạnh trong tự do, già dặn, kỷ luật tổng thể và thực sự tự lập. Chỉ với cách này, con cái mới tiến tới chỗ sở đắc được các phương thế cần thiết để tự chống đỡ và hành động thông minh và khôn ngoan bất cứ khi nào đương đầu với các khó khăn. Như thế, vấn đề có thực chất ở đây không phải con cái ta đang ở đâu về phương diện thể lý, hay chúng đang ở với ai vào một lúc nhất định nào đó, mà đúng hơn chúng đang ở đâu về phương diện hiện sinh, chúng đang đứng ở đâu về phương diện xác tín, mục tiêu, ước muốn và giấc mơ. Các câu hỏi tôi muốn đặt ra cho các cha mẹ là: “ta có tìm cách hiểu con cái ta thực sự đang ‘ở đâu’ trong hành trình của chúng không? Linh hồn chúng đang ở đâu, ta có thực sự biết hay không? Và trên hết, ta có muốn biết hay không?”584.

262. Were maturity merely the development of something already present in our genetic code, not much would have to be done. But prudence, good judgement and common sense are dependent not on purely quantitative growth factors, but rather on a whole series of things that come together deep within each person, or better, at the very core of our freedom. Inevitably, each child will surprise us with ideas and projects born of that freedom, which challenge us to rethink our own ideas. This is a good thing. Education includes encouraging the responsible use of freedom to face issues with good sense and intelligence. It involves forming persons who readily understand that their own lives, and the life of the community, are in their hands, and that freedom is itself a great gift.

262. Nếu trưởng thành chỉ là việc phát triển một điều gì đó vốn đã có trong mã di truyền của ta, thì ít có việc gì cần phải làm. Nhưng sự khôn ngoan, phán đoán đúng và lương tri không tùy thuộc các nhân tố phát triển chỉ có lượng tính (quantitative), mà đúng hơn tùy thuộc cả một loạt sự việc cùng xuất hiện với nhau ở thẳm sâu mỗi con người, hay đúng hơn, ở chính cốt lõi tự do của ta. Việc không thể tránh được là mỗi đứa trẻ sẽ làm ta ngạc nhiên với những ý nghĩ và dự án phát sinh từ chính tự do ấy khiến ta phải suy nghĩ lại các ý nghĩ của chính ta. Đó là một điều tốt. Giáo dục là khuyến khích việc sử dụng tự do có trách nhiệm để xử lý các vấn đề một cách hợp lương tri và trí thông minh. Nó bao gồm việc đào luyện con người để họ sẵn sàng hiểu rằng đời sống của chính họ và đời sống của cộng đồng đang nằm trong tay họ, và tự do tự nó là một ơn phúc vĩ đại.

The Ethical Formation Of Children


263. Parents rely on schools to ensure the basic instruction of their children, but can never completely delegate the moral formation of their children to others. A person’s affective and ethical development is ultimately grounded in a particular experience, namely, that his or her parents can be trusted. This means that parents, as educators, are responsible, by their affection and example, for instilling in their children trust and loving respect. When children no longer feel that, for all their faults, they are important to their parents, or that their parents are sincerely concerned about them, this causes deep hurt and many difficulties along their path to maturity. This physical or emotional absence creates greater hurt than any scolding which a child may receive for doing something wrong.

Đào tạo đạo đức cho con cái


263. Các cha mẹ dựa vào nhà trường để bảo đảm việc học hành của con cái, nhưng không bao giờ uỷ quyền hoàn toàn cho người khác việc đào tạo chúng về phương diện luân lý. Việc phát triển về cảm giới và đạo đức tối hậu của một con người đặt cơ sở trên một kinh nghiệm đặc thù, tức tin rằng cha mẹ họ đáng tin cậy. Điều này có nghĩa: là những nhà giáo dục, cha mẹ, bằng tình âu yếm và gương sáng của họ, có trách nhiệm truyền dẫn vào con cái lòng tín thác và sự kính trọng trìu mến. Khi con cái, bất chấp mọi lỗi lầm của chúng, không cảm nhận là chúng quan trọng đối với cha mẹ nữa, hay cha mẹ chúng thành thực quan tâm tới chúng nữa, thì việc này gây nên những vết thương sâu hoắc và nhiều khó khăn trên con đường trưởng thành của chúng. Việc thiếu vắng thể lý hay xúc cảm này tạo ra vết thương lớn hơn so với bất cứ sự la mắng nào mà đứa con có thể lãnh nhận vì đã làm một điều gì sai.

264. Parents are also responsible for shaping the will of their children, fostering good habits and a natural inclination to goodness. This entails presenting certain ways of thinking and acting as desirable and worthwhile, as part of a gradual process of growth. The desire to fit into society, or the habit of foregoing an immediate pleasure for the sake of a better and more orderly life in common, is itself a value that can then inspire openness to greater values. Moral formation should always take place with active methods and a dialogue that teaches through sensitivity and by using a language children can understand. It should also take place inductively, so that children can learn for themselves the importance of certain values, principles and norms, rather than by imposing these as absolute and unquestionable truths.

264. Cha mẹ cũng có trách nhiệm đào luyện ý chí của con cái mình, cổ vũ các thói quen tốt và khuynh hướng tự nhiên nghiêng về điều thiện. Điều này bao hàm việc trình bầy cho chúng một số phương cách suy nghĩ và hành động đáng ước ao và có giá trị, như là thành phần của diễn trình lớn mạnh tiệm tiến. Ước muốn được hoà hợp vào xã hội, hay thói quen từ bỏ một khoái cảm tức khắc vì cuộc sống chung tốt đẹp và có trật tự hơn tự nó là một giá trị có thể gợi hứng cho đứa trẻ cởi mở hơn với các giá trị lớn hơn. Việc đào tạo luân lý nên luôn luôn diễn ra với các phương pháp tích cực và một cuộc đối thoại biết dạy đứa trẻ một cách nhậy cảm và biết sử dụng thứ ngôn ngữ mà đứa trẻ có thể hiểu được. Nó cũng cần diễn ra một cách qui nạp (inductively), để con cái học được cho mình sự quan trọng của một số giá trị, nguyên tắc và qui luật, đúng hơn là áp đặt những điều này như những chân lý tuyệt đối, không được đặt nghi vấn.

265. Doing what is right means more than “judging what seems best” or knowing clearly what needs to be done, as important as this is. Often we prove inconsistent in our own convictions, however firm they may be; even when our conscience dictates a clear moral decision, other factors sometimes prove more attractive and powerful. We have to arrive at the point where the good that the intellect grasps can take root in us as a profound affective inclination, as a thirst for the good that outweighs other attractions and helps us to realize that what we consider objectively good is also good “for us” here and now. A good ethical education includes showing a person that it is in his own interest to do what is right. Today, it is less and less effective to demand something that calls for effort and sacrifice, without clearly pointing to the benefits which it can bring.

265. Làm điều đúng không phải chỉ là “việc phán đoán điều xem ra tốt nhất” hay biết rõ điều phải làm, dù việc này là việc quan trọng. Ta thường tỏ ta không nhất quán trong các xác tín của mình, bất kể chúng vững chắc ra sao; ngay khi lương tâm ta đưa ra một quyết định luân lý rõ ràng, nhiều nhân tố khác đôi lúc tỏ ra hấp dẫn và mạnh mẽ hơn. Ta cần phải tiến tới chỗ để điều tốt mà trí khôn có thể nắm được có khả năng bén rễ trong ta thành một xu hướng sâu xa về cảm xúc, một thèm khát sự thiện vượt quá mọi hấp dẫn khác và giúp ta hiểu ra rằng điều ta coi như tốt một cách khách quan cũng tốt ‘đối với ta” ở đây và bây giờ. Giáo dục đạo đức tốt bao gồm việc chỉ cho người ta thấy làm điều đúng là điều tốt đối với họ. Ngày nay, càng ngày người ta càng thấy việc đòi hỏi một điều gì đó cần đến cố gắng và hy sinh là điều kém hữu hiệu, mà không chịu chỉ cho người ta thấy rõ các ích lợi mà việc này có thể đem tới.

266. Good habits need to be developed. Even childhood habits can help to translate important interiorized values into sound and steady ways of acting. A person may be sociable and open to others, but if over a long period of time he has not been trained by his elders to say “Please”, “Thank you”, and “Sorry”, his good interior disposition will not easily come to the fore. The strengthening of the will and the repetition of specific actions are the building blocks of moral conduct; without the conscious, free and valued repetition of certain patterns of good behaviour, moral education does not take place. Mere desire, or an attraction to a certain value, is not enough to instil a virtue in the absence of those properly motivated acts.

266. Các thói quen tốt cần được khai triển. Ngay các thói quen của tuổi thơ cũng có thể giúp diễn dịch các giá trị quan trọng đã được nội tâm hóa thành các lối hành động lành mạnh và vững bền. Người ta có thể có tinh thần xã hội và cởi mở với người khác, nhưng nếu trong một thời gian dài họ không được các vị trưởng thượng huấn luyện để nói được những câu như “xin vui lòng”, “cám ơn”, và “xin lỗi”, thì thiên hướng tốt ở bên trong sẽ không dễ dàng xuất hiện ra bên ngoài. Việc củng cố ý chí và việc lặp đi lặp lại một số hành động chuyên biệt chính là những viên gạch xây nên tác phong luân lý; không có việc lặp đi lặp lại một cách có ý thức, tự do và trân trọng một số khuôn thước của tác phong tốt, thì việc giáo dục luân lý không thể diễn ra. Chỉ ước muốn mà thôi, hay chỉ thấy được lôi cuốn vào một giá trị nào đó mà thôi, không đủ để truyền dẫn nhân đức nếu không có các hành vi được thúc đẩy một cách thích đáng này.

267. Freedom is something magnificent, yet it can also be dissipated and lost. Moral education has to do with cultivating freedom through ideas, incentives, practical applications, stimuli, rewards, examples, models, symbols, reflections, encouragement, dialogue and a constant rethinking of our way of doing things; all these can help develop those stable interior principles that lead us spontaneously to do good. Virtue is a conviction that has become a steadfast inner principle of operation. The virtuous life thus builds, strengthens and shapes freedom, lest we become slaves of dehumanizing and antisocial inclinations. For human dignity itself demands that each of us “act out of conscious and free choice, as moved and drawn in a personal way from within.”585

267. Tự do là một điều kỳ diệu, nhưng nó cũng có thể bị tiêu tan và khuất dạng. Giáo dục luân lý phải đi đôi với việc vun sới tự do bằng các ý nghĩ, khuyến khích, áp dụng thực tiễn, kích thích, tưởng thưởng, gương sáng, mẫu mực, biểu tượng, suy tư, khích lệ, đối thoại và không ngừng suy nghĩ lại cách ta thực hiện các sự việc; tất cả những điều này có thể giúp ta phát triển các nguyên tắc ổn định nội tâm dẫn chúng ta tới chỗ làm điều thiện một cách tự phát. Nhân đức là một xác tín đã trở thành nguyên tắc hành động vững vàng ở bên trong. Như thế, đời sống nhân đức xây đắp, củng cố và lên khuôn tự do, kẻo ta trở thành nô lệ cho các khuynh hướng hạ nhân phẩm và phản xã hội. Vì chính nhân phẩm cũng đòi mỗi người chúng ta phải “hành động từ một quyết định có ý thức và tự do, như được đánh động và lôi cuốn một cách có bản vị ngay từ bên trong”586.

The Value Of Correction As An Incentive


268. It is also essential to help children and adolescents to realize that misbehaviour has consequences. They need to be encouraged to put themselves in other people’s shoes and to acknowledge the hurt they have caused. Some punishments – those for aggressive, antisocial conduct - can partially serve this purpose. It is important to train children firmly to ask forgiveness and to repair the harm done to others. As the educational process bears fruit in the growth of personal freedom, children come to appreciate that it was good to grow up in a family and even to put up with the demands that every process of formation makes.

Giá trị của việc sửa trị như một thúc đẩy


268. Điều cũng có tính chủ yếu là giúp trẻ em và các thiếu niên hiểu ra rằng tác phong xấu có những hậu quả của nó. Chúng cần được khuyến khích biết đặt mình vào giầy người khác và nhìn nhận các thương tích chúng đã gây ra. Một số hình phạt, những hình phạt dành cho tác phong hung hăng, phản xã hội, có thể có ích một phần cho mục tiêu này. Điều quan trọng là huấn luyện một cách chắc chắn để trẻ em biết xin tha thứ và sửa chữa sự thiệt hại đã làm cho người khác. Khi diễn trình giáo dục đã sinh hoa trái trong sự lớn mạnh của tự do bản thân, trẻ em sẽ tiến tới chỗ biết đánh giá điều này: quả là tốt đẹp được lớn lên trong một gia đình, và thậm chí chấp nhận các đòi hỏi mà diễn trình đào tạo nào cũng đặt ra.

269. Correction is also an incentive whenever children’s efforts are appreciated and acknowledged, and they sense their parents’ constant, patient trust. Children who are lovingly corrected feel cared for; they perceive that they are individuals whose potential is recognized. This does not require parents to be perfect, but to be able humbly to acknowledge their own limitations and make efforts to improve. Still, one of the things children need to learn from their parents is not to get carried away by anger. A child who does something wrong must be corrected, but never treated as an enemy or an object on which to take out one’s own frustrations. Adults also need to realize that some kinds of misbehaviour have to do with the frailty and limitations typical of youth. An attitude constantly prone to punishment would be harmful and not help children to realize that some actions are more serious than others. It would lead to discouragement and resentment: “Parents, do not provoke your children” (Eph 6:4; cf. Col 3:21).

269. Sửa trị cũng là một thúc đẩy bất cứ khi nào các cố gắng của con cái được đánh giá và thừa nhận, và chúng cảm nhận được sự tin tưởng không ngừng và kiên nhẫn của cha mẹ. Trẻ em nào được yêu thương sửa trị đều cảm thấy mình được chăm sóc; chúng thấy rõ: chúng là các cá nhân với các tiềm năng được công nhận. Việc này không đòi cha mẹ phải hoàn hảo, nhưng đòi họ phải có khả năng khiêm nhường biết nhìn nhận các giới hạn của mình và cố gắng cải thiện. Nhưng, một trong những điều con cái cần phải học từ cha mẹ là không nên giận quá mất khôn. Đứa con nào làm điều sai phải được sửa trị, nhưng không bao giờ bị coi như một kẻ thù hay một đối tượng để trút hết thất vọng lên đó. Người lớn cũng cần hiểu ra rằng một số loại tác phong có liên hệ với tính mỏng dòn và có giới hạn của tuổi trẻ. Thái độ lúc nào cũng nghiêng về trừng phạt chỉ gây hại chứ không giúp con cái hiểu ra rằng một số hành động nghiêm trọng hơn các hành động khác. Thái độ này chỉ dẫn tới thoái chí và giận hờn mà thôi: “Hỡi các bậc cha mẹ, đừng khiêu khích con cái mình” (Ep 6:4; xem Cl 3:21).

270. It is important that discipline not lead to discouragement, but be instead a stimulus to further progress. How can discipline be best interiorized? How do we ensure that discipline is a constructive limit placed on a child’s actions and not a barrier standing in the way of his or her growth? A balance has to be found between two equally harmful extremes. One would be to try to make everything revolve around the child’s desires; such children will grow up with a sense of their rights but not their responsibilities. The other would be to deprive the child of an awareness of his or her dignity, personal identity and rights; such children end up overwhelmed by their duties and a need to carry out other people’s wishes.

270. Điều quan trọng là kỷ luật không được dẫn tới thoái chí, nhưng thay vào đó, phải là một kích thích để tiến bộ thêm. Làm thế nào để nội tâm hóa kỷ luật cách tốt nhất? Ta phải bảo đảm ra sao để kỷ luật là một giới hạn có tính xây dựng đặt ra cho hành động của đứa trẻ chứ không phải rào cản án ngữ đường phát triển của nó? Phải tìm ra sự cân bằng giữa hai cực đoan cùng có hại như nhau sau đây. Một là cố gắng làm mọi sự xoay quanh các thèm muốn của đứa con; các đứa con này sẽ lớn lên tuy ý thức được các quyền lợi, nhưng không ý thức được các trách nhiệm của chúng. Cực đoan kia là lấy mất khỏi đứa con việc ý thức được phẩm giá, căn tính bản thân và các quyền lợi của chúng; những đứa con này kết cục sẽ bị tràn ngập bởi bổn phận và nhu cầu phải thể hiện các ước muốn của người khác.

Patient Realism


271. Moral education entails asking of a child or a young person only those things that do not involve a disproportionate sacrifice, and demanding only a degree of effort that will not lead to resentment or coercion. Ordinarily this is done by proposing small steps that can be understood, accepted and appreciated, while including a proportionate sacrifice. Otherwise, by demanding too much, we gain nothing. Once the child is free of our authority, he or she may possibly cease to do good.

Tính hiện thực kiên nhẫn


271. Giáo dục luân lý bao hàm việc chỉ nên yêu cầu nơi đứa trẻ hay thiếu niên những điều không đòi hy sinh bất tương xứng, và chỉ nên đòi một mức cố gắng không dẫn tới oán hận hay bức bách. Thông thường, điều này được thực hiện bằng cách đề nghị các bước nhỏ có thể hiểu được, chấp nhận được và đánh giá được, dù có phải hy sinh cách tương ứng. Nếu không, vì đòi hỏi thái quá, ta liều mình không nhận được gì. Một khi thoát khỏi uy quyền của ta, đứa trẻ dám ngưng, không làm điều tốt nữa.

272. Ethical formation is at times frowned upon, due to experiences of neglect, disappointment, lack of affection or poor models of parenting. Ethical values are associated with negative images of parental figures or the shortcomings of adults. For this reason, adolescents should be helped to draw analogies: to appreciate that values are best embodied in a few exemplary persons, but also realized imperfectly and to different degrees in others. At the same time, since their hesitation can be tied to bad experiences, they need help in the process of inner healing and in this way to grow in the ability to understand and live in peace with others and the larger community.

272. Đào tạo đạo đức có lúc bị phê phán vì các trải nghiệm bỏ bê, thoái chí, thiếu tình âu yếm hay điển hình xấu trong việc làm cha mẹ. Các giá trị đạo đức bị liên kết với các hình ảnh tiêu cực của những nhân vật làm cha mẹ hay các bất cập của người lớn. Vì lý do này, ta nên giúp các thiếu niên biết rút ra các loại suy: tức đánh giá các giá trị được hiện thân tốt nhất nơi một số người gương mẫu, trong khi được thể hiện một cách bất toàn và tới những mức độ khác nhau nơi một số người khác. Đồng thời, vì do dự trước các trải nghiệm xấu, nên chúng cần được giúp đỡ trong diễn trình hàn gắn nội tâm và nhờ thế lớn mạnh trong khả năng hiểu người khác và sống hòa bình với họ và cộng đồng rộng lớn hơn.

273. In proposing values, we have to proceed slowly, taking into consideration the child’s age and abilities, without presuming to apply rigid and inflexible methods. The valuable contributions of psychology and the educational sciences have shown that changing a child’s behaviour involves a gradual process, but also that freedom needs to be channeled and stimulated, since by itself it does not ensure growth in maturity. Situated freedom, real freedom, is limited and conditioned. It is not simply the ability to choose what is good with complete spontaneity. A distinction is not always adequately drawn between “voluntary” and “free” acts. A person may clearly and willingly desire something evil, but do so as the result of an irresistible passion or a poor upbringing. In such cases, while the decision is voluntary, inasmuch as it does not run counter to the inclination of their desire, it is not free, since it is practically impossible for them not to choose that evil. We see this in the case of compulsive drug addicts. When they want a fix, they want it completely, yet they are so conditioned that at that moment no other decision is possible. Their decision is voluntary but not free. It makes no sense to “let them freely choose”, since in fact they cannot choose, and exposing them to drugs only increases their addiction. They need the help of others and a process of rehabilitation.



273. Khi đề xuất các giá trị, ta cần diễn tiến một cách chầm chậm, lưu ý tới cỡ tuổi và các năng khiếu của đứa trẻ, chứ không nên có tham vọng áp dụng các phương pháp cứng ngắc, thiếu mềm dẻo. Các đóng góp qúy giá của tâm lý học và của các khoa học giáo dục vốn chứng minh sự cần thiết của một tiến độ tiệm tiến mới mong đạt được các thay đổi tác phong, nhưng chúng cũng chứng minh rằng tự do đòi hỏi nhiều mạng lưới và kích thích, vì để nó một mình, tự do không bảo đảm mang lại sự trưởng thành. Trong hoàn cảnh đời thực, tự do khá giới hạn và có điều kiện. Nó không hề là một khả năng thuần túy có thể chọn điều tốt trong tính tự phát hoàn toàn của nó. Người ta không luôn luôn phân biệt được một cách rõ ràng một hành vi “tự ý” (voluntary) với một hành vi “tự do”. Người ta có thể tự ý muốn một điều xấu với một sức mạnh lớn lao của ý chí, nhưng do một đam mê không cưỡng được hay do một nền giáo dục xấu. Trong trường hợp này, quyết định của họ rất tự ý, nó không mâu thuẫn với xu hướng của chính ý chí họ, nhưng nó đâu có tự do, vì họ đã trở nên bất lực, không thể không chọn lựa điều xấu này. Ta thấy điều này trong trường hợp người ghiền ma túy, khi anh ta muốn có ma túy, anh ta muốn nó hết sức, và vì bị lệ thuộc quá nên lúc này anh ta đâu còn khả năng đưa ra bất cứ quyết định nào khác. Thành thử, quyết định của anh ta là tự ý, nhưng đâu có tự do. Câu “để họ tự do chọn lựa” không có nghĩa gì đối với anh ta vì thực tế anh ta không thể chọn lựa, và để anh ta tiếp xúc với ma túy chỉ làm gia tăng sự lệ thuộc mà thôi. Anh ta cần sự giúp đỡ của người khác và một diễn trình giáo dục.

Family Life As An Educational Setting


274. The family is the first school of human values, where we learn the wise use of freedom. Certain inclinations develop in childhood and become so deeply rooted that they remain throughout life, either as attractions to a particular value or a natural repugnance to certain ways of acting. Many people think and act in a certain way because they deem it to be right on the basis of what they learned, as if by osmosis, from their earliest years: “That’s how I was taught”. “That’s what I learned to do”. In the family we can also learn to be critical about certain messages sent by the various media. Sad to say, some television programmes or forms of advertising often negatively influence and undercut the values inculcated in family life.

Đời sống gia đình như một khung cảnh giáo dục


274. Gia đình là trường học đầu tiên dạy các giá trị nhân bản, nơi ta học cách sử dụng tự do cách khôn ngoan. Một số khuynh hướng phát triển lúc tuổi thơ và bén rễ sâu đến nỗi chúng tồn tại suốt đời, hoặc như những lôi cuốn đối với một giá trị đặc thù nào đó hay như việc tự nhiên không thích lối hành đông nào đó. Nhiều người suy nghĩ và hành động một cách nào đó là vì họ cho cách này đúng đắn dựa vào những gì họ đã học, như thể được thẩm thấu, từ những năm tháng đầu đời: “Tôi được dạy như thế đó”. “Tôi được học làm như thế đó”. Trong gia đình, ta cũng có thể học cách biết phê phán một số sứ điệp do các phương tiện truyền thông loan tải. Điều đáng buồn cần phải nói là một số chương trình truyền hình hay hình thức quảng cáo thường gây ảnh hưởng tiêu cực và cắt xén các giá trị vốn được khắc ghi trong đời sống gia đình.

275. In our own day, dominated by stress and rapid technological advances, one of the most important tasks of families is to provide an education in hope. This does not mean preventing children from playing with electronic devices, but rather finding ways to help them develop their critical abilities and not to think that digital speed can apply to everything in life. Postponing desires does not mean denying them but simply deferring their fulfilment. When children or adolescents are not helped to realize that some things have to be waited for, they can become obsessed with satisfying their immediate needs and develop the vice of “wanting it all now”. This is a grand illusion which does not favour freedom but weakens it. On the other hand, when we are taught to postpone some things until the right moment, we learn self-mastery and detachment from our impulses. When children realize that they have to be responsible for themselves, their self-esteem is enriched. This in turn teaches them to respect the freedom of others. Obviously this does not mean expecting children to act like adults, but neither does it mean underestimating their ability to grow in responsible freedom. In a healthy family, this learning process usually takes place through the demands made by life in common.

275. Thời nay, thời bị lo âu xao xuyến và các tiến bộ nhanh chóng của kỹ thuật thống trị, một trong các trách vụ quan trọng nhất của các gia đình là cung cấp một nền giáo dục hy vọng. Điều này không có nghĩa ngăn cản con cái chơi các trò chơi điện tử, nhưng đúng hơn, tìm những cách thế giúp chúng phát triển các khả năng phê phán, chứ đừng nghĩ có thể áp dụng tốc độ kỹ thuật số vào mọi sự ở trong đời được. Triển hạn các thèm muốn không có nghĩa bác bỏ chúng mà chỉ là hoãn việc thỏa mãn chúng mà thôi. Khi không giúp trẻ em hay các thiếu niên hiểu ra rằng có những điều cần phải biết chờ đợi, thì chúng dễ bị ám ảnh bởi việc phải thoả mãn các nhu cầu tức khắc và phát triển thói hư “muốn nó ngay bây giờ”. Đây là một ảo tưởng lớn không hề cổ vũ tự do mà chỉ làm nó ra suy yếu. Mặt khác, ta được dạy phải trì hoãn một điều gì đó cho tới lúc thích đáng, ta học cách tự chủ và tránh xa các xung động bốc đồng của ta. Khi trẻ em hiểu ra rằng chúng phải chịu trách nhiệm đối với bản thân chúng, lòng tự trọng của chúng được phong phú hóa. Điều này, ngược lại, dạy chúng biết tôn trọng tự do của người khác. Hiển nhiên, việc này không có nghĩa mong trẻ em hành động như người lớn, nhưng nó cũng không có nghĩa đánh giá thấp khả năng lớn mạnh của chúng trong tự do có trách nhiệm. Trong một gia đình lành mạnh, diễn trình học tập này thường diễn ra qua các đòi hỏi do cuộc sống chung đặt ra.

276. The family is the primary setting for socialization, since it is where we first learn to relate to others, to listen and share, to be patient and show respect, to help one another and live as one. The task of education is to make us sense that the world and society are also our home; it trains us how to live together in this greater home. In the family, we learn closeness, care and respect for others. We break out of our fatal self- absorption and come to realize that we are living with and alongside others who are worthy of our concern, our kindness and our affection. There is no social bond without this primary, everyday, almost microscopic aspect of living side by side, crossing paths at different times of the day, being concerned about everything that affects us, helping one another with ordinary little things. Every day the family has to come up with new ways of appreciating and acknowledging its members.

276. Gia đình là khung cảnh hàng đầu để xã hội hóa, vì nó là nơi đầu tiên ta học cách liên hệ với người khác, lắng nghe và chia sẻ, nhẫn nại và tỏ lòng tôn trọng, giúp đỡ nhau và sống như một. Trách vụ của giáo dục là làm chúng ta cảm nhận được điều này: thế giới và xã hội cũng là tổ ấm của ta; nó huấn luyện để ta biết sống với nhau trong tổ ấm rộng lớn hơn này. Trong gia đình, ta học tập sự gần gũi, chăm sóc và tôn trọng người khác. Ta phá vỡ tình trạng có tính định mệnh chỉ biết có mình và tiến tới chỗ hiểu ra rằng ta đang sống với và bên cạnh nhiều người khác đáng được ta quan tâm, tử tế và âu yếm. Sẽ không có bất cứ mối dây liên kết xã hội nào nếu không có việc sống cạnh nhau đầu tiên, hàng ngày và hầu như cực nhỏ này, nếu không có những nẻo đường giao thoa vào những thời điểm khác nhau trong ngày, nếu không biết lưu tâm đến tất cả những gì tác động đến ta, nếu không giúp đỡ nhau qua những việc tầm thường nhỏ nhoi. Ngày nào, gia đình cũng phải nghĩ ra những cách mới mẻ để đánh giá và thừa nhận các thành viên của mình.

277. In the family too, we can rethink our habits of consumption and join in caring for the environment as our common home. “The family is the principal agent of an integral ecology, because it is the primary social subject which contains within it the two fundamental principles of human civilization on earth: the principle of communion and the principle of fruitfulness”.587 In the same way, times of difficulty and trouble in the lives of family life can teach important lessons. This happens, for example, when illness strikes, since “in the face of illness, even in families, difficulties arise due to human weakness. But in general, times of illness enable family bonds to grow stronger... An education that fails to encourage sensitivity to human illness makes the heart grow cold; it makes young people ‘anesthetized’ to the suffering of others, incapable of facing suffering and of living the experience of limitation”.588

277. Cũng trong gia đình, ta có thể suy nghĩ lại các thói quen tiêu thụ của ta và góp phần vào việc săn sóc môi trường như căn nhà chung của ta. “Gia đình là tác nhân chính của môt sinh thái toàn diện, vì nó là chủ thể xã hội hàng đầu chứa đựng trong mình hai nguyên tắc căn bản của nền văn minh nhân bản trên trái đất: nguyên tắc hiệp thông và nguyên tắc sinh hoa trái”589. Cũng thế, những lúc khó khăn và bối rối trong đời sống gia đình có thể dạy ta nhiều bài học quan trọng. Điều này xẩy ra khi bệnh hoạn, chẳng hạn, giáng xuống, vì “đối đầu với bệnh hoạn, ngay trong các gia đình, khó khăn cũng sẽ lộ diện do yếu đuối của con người. Nhưng nói chung, thời gian bệnh hoạn giúp cho các mối dây liên kết gia đình lớn mạnh hơn... Nền giáo dục nào không khuyến khích sự nhậy cảm đối với bệnh tật của con người sẽ làm trái tim ra nguội lạnh; nó khiến người trẻ ‘bị gây mê’ trước nỗi đau khổ của người khác, hết khả năng đối đầu với đau khổ và sống cảm nghiệm có giới hạn”590.

278. The educational process that occurs between parents and children can be helped or hindered by the increasing sophistication of the communications and entertainment media. When well used, these media can be helpful for connecting family members who live apart from one another. Frequent contacts help to overcome difficulties.591 Still, it is clear that these media cannot replace the need for more personal and direct dialogue, which requires physical presence or at least hearing the voice of the other person. We know that sometimes they can keep people apart rather than together, as when at dinnertime everyone is surfing on a mobile phone, or when one spouse falls asleep waiting for the other who spends hours playing with an electronic device. This is also something that families have to discuss and resolve in ways which encourage interaction without imposing unrealistic prohibitions. In any event, we cannot ignore the risks that these new forms of communication pose for children and adolescents; at times they can foster apathy and disconnect from the real world. This “technological disconnect” exposes them more easily to manipulation by those who would invade their private space with selfish interests.

278. Diễn trình giáo dục diễn ra giữa cha mẹ và con cái có thể nhận được trợ giúp hay cản trở từ sự tinh vi mỗi ngày một tăng của các phương tiện truyền thông và tiêu khiển. Khi được sử dụng tốt, các phương tiện này có thể rất hữu ích để nối kết các thành viên gia đình hiện đang sống xa nhau. Các liên lạc thường xuyên sẽ giúp vượt qua nhiều khó khăn592. Tuy nhiên, điều rõ ràng là các phương tiện này không thể thay thế được nhu cầu phải đối thoại liên ngã và trực tiếp nhiều hơn, một cuộc đối thoại đòi sự hiện diện thể lý hoặc ít nhất cũng nghe được giọng nói của người kia. Ta biết rằng đôi khi các phương tiện này giữ người ta xa nhau hơn là ở với nhau, như khi đến giờ ăn, ai cũng bận “lướt sóng” (surf) trên điện thoại di động, hay khi một người phối ngẫu thiếp ngủ trong lúc chờ người kia chơi với các dụng cụ điện tử cả hàng giờ. Đây cũng là một điều mà các gia đình cần phải thảo luận và giải quyết cách nào đó giúp khuyến khích việc tương tác qua lại mà không áp đặt các ngăn cấm không thực tiễn. Dù sao, ta không thể làm ngơ các nguy cơ mà các hình thức truyền thông mới này đặt ra cho trẻ em và các thiếu niên; đôi khi, chúng còn có thể cổ vũ sự lãnh cảm và xa rời thế giới thực nữa. Việc “tách rời kỹ thuật” này khiến các em dễ dàng bị thao túng bởi những người muốn xâm lăng không gian tư riêng của các em vì các quyền lợi ích kỷ.

279. Nor is it good for parents to be domineering. When children are made to feel that only their parents can be trusted, this hinders an adequate process of socialization and growth in affective maturity. To help expand the parental relationship to broader realities, “Christian communities are called to offer support to the educational mission of families”,593 particularly through the catechesis associated with Christian initiation. To foster an integral education, we need to “renew the covenant between the family and the Christian community”.594 The Synod wanted to emphasize the importance of Catholic schools which “play a vital role in assisting parents in their duty to raise their children... Catholic schools should be encouraged in their mission to help pupils grow into mature adults who can view the world with the love of Jesus and who can understand life as a call to serve God”.595 For this reason, “the Church strongly affirms her freedom to set forth her teaching and the right of conscientious objection on the part of educators”.596



279. Cũng không tốt đẹp gì nếu cha mẹ độc đoán. Khi làm cho con cái cảm thấy rằng chỉ có cha mẹ chúng mới đáng tin, thì điều này sẽ cản trở diễn trình xã hội hóa thoả đáng và lớn mạnh trong sự chín chắn về xúc cảm. Để giúp mở rộng mối liên hệ cha mẹ ra các thực tại rộng rãi hơn, “các cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi nâng đỡ sứ mệnh giáo dục của các gia đình”597, nhất là qua việc dạy giáo lý liên quan đến việc khai tâm Kitô Giáo. Để phát huy một nền giáo dục toàn diện, ta cần “canh tân giao ước giữa gia đình và cộng đồng Kitô Giáo”598. Thượng Hội Đồng muốn nhấn mạnh sự quan trọng của các trường Công Giáo, những định chế “đóng một vai trò sinh tử trong việc trợ giúp các cha mẹ trong bổn phận dưỡng dục con cái họ... Nên khuyến khích các trường Công Giáo trong sứ mệnh giúp học sinh lớn lên thành những người trưởng thành chín chắn biết nhìn thế giới với lòng yêu thương của Chúa Giêsu và hiểu đời sống như lời mời gọi phụng sự Thiên Chúa”599. Vì lý do này, “Giáo Hội mạnh mẽ khẳng định quyền tự do của mình được giảng dạy giáo huấn của mình và quyền phản đối lương tâm của các nhà giáo dục”600.

The Need For Sex Education


280. The Second Vatican Council spoke of the need for “a positive and prudent sex education” to be imparted to children and adolescents “as they grow older”, with “due weight being given to the advances in the psychological, pedogogical and didactic sciences”.601 We may well ask ourselves if our educational institutions have taken up this challenge. It is not easy to approach the issue of sex education in an age when sexuality tends to be trivialized and impoverished. It can only be seen within the broader framework of an education for love, for mutual self-giving. In such a way, the language of sexuality would not be sadly impoverished but illuminated and enriched. The sexual urge can be directed through a process of growth in self-knowledge and self- control capable of nurturing valuable capacities for joy and for loving encounter.

Nhu cầu giáo dục tính dục


280. Công Đồng Vatican II đề cập tới việc phải đem lại cho trẻ em và các thiếu niên “một nền giáo dục tích cực và khôn ngoan về tính dục khi họ đang lớn lên” với “trọng tâm thích đáng đặt vào các tiến bộ trong các khoa tâm lý, sư phạm và giáo khoa”602. Ta nên tự hỏi liệu các định chế giáo dục của ta đã tiếp nhận thách đố này chưa. Quả thực không dễ bàn đến vấn đề giáo dục tính dục trong một thời đại trong đó, tính dục bị tầm thường hóa và nghèo nàn hóa. Nó chỉ có thể được xem xét bên trong khuôn khổ giáo dục lòng yêu thương và tự hiến cho nhau. Nhờ cách này, ngôn ngữ tính dục sẽ không bị nghèo nàn hóa một cách đáng buồn nhưng được soi sáng và phong phú hóa. Thúc đẩy tính dục có thể được điều hướng bằng diễn trình lớn mạnh trong việc tự biết và tự kiểm soát chính mình, những việc vốn có thể nuôi dưỡng các khả năng có giá trị để đạt tới niềm vui và những cuộc gặp gỡ yêu thương.

281. Sex education should provide information while keeping in mind that children and young people have not yet attained full maturity. The information has to come at a proper time and in a way suited to their age. It is not helpful to overwhelm them with data without also helping them to develop a critical sense in dealing with the onslaught of new ideas and suggestions, the flood of pornography and the overload of stimuli that can deform sexuality. Young people need to realize that they are bombarded by messages that are not beneficial for their growth towards maturity. They should be helped to recognize and to seek out positive influences, while shunning the things that cripple their capacity for love. We also have to realize that “a new and more appropriate language” is needed “in introducing children and adolescents to the topic of sexuality”.603

281. Giáo dục tính dục cung cấp tín liệu trong khi phải nhớ rằng trẻ em và các thiếu niên chưa đạt tới sự chín chắn trọn vẹn. Tín liệu phải được cung cấp đúng lúc và thích ứng với độ tuổi của các em. Nó sẽ không giúp được gì nếu áp đảo các em bằng đủ mọi dữ kiện mà không giúp chúng phát triển năng khiếu phê phán để xử lý cuộc tấn công vũ bão của các ý tưởng và gợi ý mới, của cơn lũ khiêu dâm và sức nặng kích thích vốn làm méo mó tính dục. Giới trẻ cần hiểu ra rằng họ đang bị oanh kích tới tấp bởi các sứ điệp vô bổ đối với việc tăng trưởng sự chín chắn của họ. Ta nên giúp đỡ để họ nhận ra và đi tìm các ảnh hưởng tích cực, trong khi xa tránh những điều có thể làm tê liệt khả năng yêu thương của họ. Ta cũng phải hiểu ra rằng ta cần “một ngôn ngữ mới và thích đáng hơn để dẫn nhập trẻ em và các thiếu niên vào chủ đề tính dục”604.

282. A sexual education that fosters a healthy sense of modesty has immense value, however much some people nowadays consider modesty a relic of a bygone era. Modesty is a natural means whereby we defend our personal privacy and prevent ourselves from being turned into objects to be used. Without a sense of modesty, affection and sexuality can be reduced to an obsession with genitality and unhealthy behaviours that distort our capacity for love, and with forms of sexual violence that lead to inhuman treatment or cause hurt to others.

282. Nền giáo dục tính dục nào cổ vũ được cảm thức thùy mị nết na lành mạnh là nền giáo dục rất có giá trị, bất kể một số người ngày nay coi thùy mị nết na như phế tích của một thời xa xưa. Thùy mị nết na là một phương thế tự nhiên để ta bảo vệ sự tư riêng bản thân và ngăn ngừa ta khỏi trở thành những đối tượng bị lợi dụng. Không có cảm thức thùy mị nết na này, lòng âu yếm và tính dục có thể bị giản lược chỉ còn là một ám ảnh đối với dục quan và các tác phong không lành mạnh vốn làm méo mó khả năng yêu thương của ta, và đối với các hình thức bạo lực tính dục có thể dẫn tới việc đối xử vô nhân đạo hoặc gây thương tích cho người khác.

283. Frequently, sex education deals primarily with “protection” through the practice of “safe sex”. Such expressions convey a negative attitude towards the natural procreative finality of sexuality, as if an eventual child were an enemy to be protected against. This way of thinking promotes narcissism and aggressivity in place of acceptance. It is always irresponsible to invite adolescents to toy with their bodies and their desires, as if they possessed the maturity, values, mutual commitment and goals proper to marriage. They end up being blithely encouraged to use other persons as an means of fulfilling their needs or limitations. The important thing is to teach them sensitivity to different expressions of love, mutual concern and care, loving respect and deeply meaningful communication. All of these prepare them for an integral and generous gift of self that will be expressed, following a public commitment, in the gift of their bodies. Sexual union in marriage will thus appear as a sign of an all-inclusive commitment, enriched by everything that has preceded it.

283. Giáo dục tính dục thường chủ yếu bàn đến “việc bảo vệ” bằng cách thực hành việc “làm tình an toàn”. Các kiểu nói này chuyên chở một thái độ tiêu cực đối với cùng đích tự nhiên của tính dục là sinh sản, như thể đứa trẻ có thể sinh ra là một kẻ thù cần được phòng thủ. Kiểu suy nghĩ này cổ vũ lòng yêu mình thái quá (narcissism) và tính gây hấn thay vì chấp nhận. Điều luôn luôn vô trách nhiệm là mời gọi thiếu niên đùa bỡn với thân xác và các thèm muốn của họ, như thể họ đã sở đắc được sự chín chắn, các giá trị, sự cam kết hỗ tương và các mục tiêu của riêng hôn nhân. Kết cục, vô tình, họ chỉ được khuyến khích sử dụng người khác như một phương tiện để thoả mãn các nhu cầu hay các giới hạn của mình. Điều quan trọng là phải dạy họ biết nhậy cảm đối với các cách diễn tả khác nhau của lòng yêu thương, biết quan tâm và săn sóc lẫn nhau, biết tôn trọng một cách yêu thương và thông đạt có ý nghĩa sâu xa. Tất cả những điều này sẽ chuẩn bị để họ biết tự hiến thân một cách toàn diện và quảng đại, một hiến thân, sau khi đã công khai cam kết, sẽ được diễn tả qua việc hiến thân xác cho nhau. Do đó, kết hợp tính dục trong hôn nhân sẽ trở thành dấu hiệu của một cam kết bao trùm tất cả, được tất cả những gì đi trước nó phong phú hóa.

284. Young people should not be deceived into confusing two levels of reality: “sexual attraction creates, for the moment, the illusion of union, yet, without love, this ‘union’ leaves strangers as far apart as they were before”.605 The language of the body calls for a patient apprenticeship in learning to interpret and channel desires in view of authentic self-giving. When we presume to give everything all at once, it may well be that we give nothing. It is one thing to understand how fragile and bewildered young people can be, but another thing entirely to encourage them to prolong their immaturity in the way they show love. But who speaks of these things today? Who is capable of taking young people seriously? Who helps them to prepare seriously for a great and generous love? Where sex education is concerned, much is at stake.

284. Giới trẻ không nên bị lừa trong việc lẫn lộn hai bình diện thực tại: “lôi cuốn tính dục tạm thời tạo nên ảo giác kết hợp, thế nhưng, nếu không có lòng yêu thương, ‘sự kết hợp’ này sẽ để những kẻ xa lạ mãi mãi xa lạ như trước”606. Ngôn ngữ thân xác đòi phải có thời kỳ tập việc kiên nhẫn để học tập cách giải thích và vận dụng các thèm muốn để có thể tự hiến một cách chân chính. Khi tham vọng muốn lập tức cho đi mọi sự, rất có thể ta chẳng cho đi được gì. Hiểu rõ tính mỏng dòn và bối rối của người trẻ là một chuyện mà khuyến khích họ kéo dài sự thiếu chín chắn trong cách biểu lộ lòng yêu thương của họ lại là một chuyện khác hẳn. Nhưng ngày nay, ai nói tới những điểu này? Ai có khả năng khiến người trẻ nghiêm túc? Ai giúp họ chuẩn bị cách nghiêm chỉnh để đón nhận lòng yêu thương vĩ đại và quảng đại này? Hiện nay, người ta rất coi nhẹ việc giáo dục tính dục.

285. Sex education should also include respect and appreciation for differences, as a way of helping the young to overcome their self-absorption and to be open and accepting of others. Beyond the understandable difficulties which individuals may experience, the young need to be helped to accept their own body as it was created, for “thinking that we enjoy absolute power over our own bodies turns, often subtly, into thinking that we enjoy absolute power over creation... An appreciation of our body as male or female is also necessary for our own self-awareness in an encounter with others different from ourselves. In this way we can joyfully accept the specific gifts of another man or woman, the work of God the Creator, and find mutual enrichment”.607 Only by losing the fear of being different, can we be freed of self-centredness and self-absorption. Sex education should help young people to accept their own bodies and to avoid the pretension “to cancel out sexual difference because one no longer knows how to deal with it”.608

285. Giáo dục tính dục cũng bao gồm việc tôn trọng và đánh giá cao các dị biệt, như một cách giúp giới trẻ thắng vượt tính chỉ biết có mình ngõ hầu có thể cởi mở và chấp nhận người khác. Ngoài các khó khăn dễ hiểu mà các cá nhân có thể gặp phải, giới trẻ cần được giúp đỡ để chấp nhận thân xác họ như đã được tạo nên, vì “nghĩ rằng ta có quyền tuyệt đối trên thân xác ta, kết cục, một cách tinh tế, sẽ khiến ta nghĩ rằng ta có quyền tuyệt đối trên sáng thế... Biết đánh giá thân xác ta như là nam hay nữ cũng là điều cần thiết để ta tự biết mình trong cuộc gặp gỡ những người khác với ta. Nhờ cách này, ta có thể hân hoan chấp nhận các ơn phúc chuyên biệt của một người đàn ông hay một người đàn bà khác, vốn là công trình của Thiên Chúa Hóa Công, và tìm được sự phong phú hỗ tương”609. Chỉ khi nào hết sợ khác biệt, ta mới thoát khỏi não trạng lấy mình làm trung tâm, chỉ lưu tâm tới mình. Giáo dục tính dục nên giúp giới trẻ biết chấp nhận thân xác họ và tránh cái cao vọng muốn “triệt tiêu sự dị biệt giới tính vì không còn biết phải xử lý với nó ra sao”610.

286. Nor can we ignore the fact that the configuration of our own mode of being, whether as male or female, is not simply the result of biological or genetic factors, but of multiple elements having to do with temperament, family history, culture, experience, education, the influence of friends, family members and respected persons, as well as other formative situations. It is true that we cannot separate the masculine and the feminine from God’s work of creation, which is prior to all our decisions and experiences, and where biological elements exist which are impossible to ignore. But it is also true that masculinity and femininity are not rigid categories. It is possible, for example, that a husband’s way of being masculine can be flexibly adapted to the wife’s work schedule. Taking on domestic chores or some aspects of raising children does not make him any less masculine or imply failure, irresponsibility or cause for shame. Children have to be helped to accept as normal such healthy “exchanges” which do not diminish the dignity of the father figure. A rigid approach turns into an overaccentuation of the masculine or feminine, and does not help children and young people to appreciate the genuine reciprocity incarnate in the real conditions of matrimony. Such rigidity, in turn, can hinder the development of an individual’s abilities, to the point of leading him or her to think, for example, that it is not really masculine to cultivate art or dance, or not very feminine to exercise leadership. This, thank God, has changed, but in some places deficient notions still condition the legitimate freedom and hamper the authentic development of children’s specific identity and potential.



286. Ta cũng không thể làm ngơ sự kiện này: việc tạo hình cho cung cách hiện hữu của ta, bất kể là nam hay nữ, không hề chỉ là kết quả của các nhân tố sinh học hay di truyền học mà thôi, mà của nhiều yếu tố liên quan đến tính khí, lịch sử gia đình, văn hóa, kinh nghiệm, giáo dục, ảnh hưởng của bạn bè, các thành viên trong gia đình và những người được tôn kính, cũng như các hoàn cảnh đào tạo. Đúng là ta không thể tách biệt yếu tố nam yếu tố nữ ra khỏi công trình sáng tạo của Thiên Chúa, một công trình có trước mọi quyết định và kinh nghiệm của ta, và là nơi hiện hữu các yếu tố sinh học mà ta không thể làm ngơ. Nhưng điều cũng đúng là nam tính và nữ tính không phải là những phạm trù cứng ngắc. Cách hiện hữu như người nam của người chồng, chẳng hạn, có thể được thích ứng một cách mềm dẻo với lịch trình làm việc của người vợ. Nhận làm việc nhà hay một vài khía cạnh nuôi dưỡng con cái không làm người chồng bớt là đàn ông chút nào hay hàm nghĩa thất bại, vô trách nhiệm hay gây xấu hổ chi. Con cái cần được giúp đỡ để chấp nhận “các trao đổi” lành mạnh này như những chuyện bình thường, không hề làm giảm phẩm giá của người cha. Phương thức cứng ngắc sẽ biến thành việc quá nhấn mạnh tới yếu tố nam hay yếu tố nữ, và sẽ không giúp trẻ em và các thiếu niên biết đánh giá tính hỗ tương chân chính đã nhập thân trong các điều kiện đích thực của hôn nhân. Sự cứng ngắc này, ngược lại, sẽ gây trở ngại cho việc phát triển các khả năng của cá nhân, đến độ dẫn họ tới chỗ nghĩ, chẳng hạn, rằng tập tành nghệ thuật hay khiêu vũ là không nam tính chút nào, hay thi hành quyền lãnh đạo là không nữ tính chút nào. Cám ơn Chúa, suy nghĩ này nay đã thay đổi, nhưng ở một số nơi, các quan niệm thiếu sót vẫn còn đang giới hạn quyền tự do chính đáng và gây trở ngại cho việc phát triển căn tính và tiềm năng chuyên biệt của trẻ em một cách chân chính.

Passing On The Faith


287. Raising children calls for an orderly process of handing on the faith. This is made difficult by current lifestyles, work schedules and the complexity of today’s world, where many people keep up a frenetic pace just to survive.611 Even so, the home must continue to be the place where we learn to appreciate the meaning and beauty of the faith, to pray and to serve our neighbour. This begins with baptism, in which, as Saint Augustine said, mothers who bring their children “cooperate in the sacred birthing”.612 Thus begins the journey of growth in that new life. Faith is God’s gift, received in baptism, and not our own work, yet parents are the means that God uses for it to grow and develop. Hence “it is beautiful when mothers teach their little children to blow a kiss to Jesus or to Our Lady. How much love there is in that! At that moment the child’s heart becomes a place of prayer”.613 Handing on the faith presumes that parents themselves genuinely trust God, seek him and sense their need for him, for only in this way does “one generation laud your works to another, and declare your mighty acts” (Ps 144:4) and “fathers make known to children your faithfulness” (Is 38:19). This means that we need to ask God to act in their hearts, in places where we ourselves cannot reach. A mustard seed, small as it is, becomes a great tree (cf. Mt 13:31-32); this teaches us to see the disproportion between our actions and their effects. We know that we do not own the gift, but that its care is entrusted to us. Yet our creative commitment is itself an offering which enables us to cooperate with God’s plan. For this reason, “couples and parents should be properly appreciated as active agents in catechesis... Family catechesis is of great assistance as an effective method in training young parents to be aware of their mission as the evangelizers of their own family”.614

Lưu truyền đức tin


287. Việc nuôi dưỡng con cái đòi phải có một diễn trình có thứ tự để lưu truyền đức tin. Việc này hiện đang bị làm cho khó khăn bởi các lối sống đương thời, các lịch trình làm việc và tính phức tạp của thế giới ngày nay, nơi nhiều người đang phải chạy đua với nhịp độ điên cuồng chỉ để sinh tồn615. Dù thế, tổ ấm vẫn phải tiếp tục là nơi ta học cách biết đánh giá ý nghĩa và vẻ đẹp của đức tin, biết cầu nguyện và phục vụ người lân cận. Việc này bắt đầu với phép rửa, trong đó, như Thánh Augustinô từng nói, các bà mẹ mang con cái họ tới “hợp tác vào việc sinh hạ thánh thiêng”616. Cuộc hành trình lớn mạnh trong sự sống mới này bắt đầu như thế đó. Đức tin là hồng ơn của Thiên Chúa, tiếp nhận được trong phép rửa, chứ không phải công trình của ta, thế nhưng cha mẹ là phương thế Chúa dùng để nó lớn lên và phát triển. Do đó, “quả là đẹp đẽ khi các bà mẹ dạy con thơ của mình hôn gió Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Trong cử chỉ này, có biết bao yêu thương trong đó! Lúc ấy, trái tim đứa con trở thành một nơi cầu nguyện617. Truyền thụ đức tin giả thiết cha mẹ phải tín thác thực sự nơi Thên Chúa, tìm kiếm Người và cảm nhận được nhu cầu cần có Chúa, vì chỉ bằng cách này, “thế hệ này mới ca ngợi các công trình của Ngài cho thế hệ kia nghe, và công bố các kỳ công của Ngài” (Tv 144:4) và “các người cha cho con cái họ biết lòng trung tín của Ngài” (Is 38:19). Điều này có nghĩa: ta cần xin Chúa hành động trong trái tim chúng, tức những nơi chính ta không với tới được. Hạt mù-tạt, nhỏ nhoi là thế, đã trở nên cây lớn (xem Mt 13:31-32); điều này dạy ta nhìn thấy sự không tương xứng giữa hành động của ta và các hậu quả của những hành động này. Ta biết rằng ta không sở hữu hồng phúc này, nhưng ta được trao phó việc chăm sóc nó. Thế nhưng, cam kết có tính sáng tạo của ta tự nó là một lễ dâng giúp ta khả năng hợp tác với kế hoạch của Thiên Chúa. Vì lý do này, “các cặp vợ chồng và các cha mẹ nên được đánh giá thích đáng như các tác nhân tích cực trong việc dạy giáo lý... Dạy giáo lý trong gia đình rất có ích như một phương pháp hữu hiệu để huấn luyện các cha mẹ trẻ biết ý thức sứ mệnh làm những nhà truyền giảng Tin Mừng ngay trong gia đình mình”618.

288. Education in the faith has to adapt to each child, since older resources and recipes do not always work. Children need symbols, actions and stories. Since adolescents usually have issues with authority and rules, it is best to encourage their own experience of faith and to provide them with attractive testimonies that win them over by their sheer beauty. Parents desirous of nurturing the faith of their children are sensitive to their patterns of growth, for they know that spiritual experience is not imposed but freely proposed. It is essential that children actually see that, for their parents, prayer is something truly important. Hence moments of family prayer and acts of devotion can be more powerful for evangelization than any catechism class or sermon. Here I would like to express my particular gratitude to all those mothers who continue to pray, like Saint Monica, for their children who have strayed from Christ.

288. Giáo dục đức tin cần được thích ứng với từng đứa con, vì các tài nguyên và công thức cũ không luôn luôn hữu hiệu. Trẻ em cần các biểu tượng, hành động và truyện kể. Vì các thiếu niên thường có vấn đề đối với quyền bính và qui luật, nên tốt nhất, ta nên khuyến khích các trải nghiệm đức tin riêng của các em và cung cấp cho chúng những chứng từ hấp dẫn, những chứng từ chiếm được cảm tình chỉ nhờ vẻ đẹp của chúng mà thôi. Cha mẹ nào mong nuôi dưỡng đức tin của con cái đều phải nhậy cảm đối với các khuôn mẫu lớn mạnh của chúng, vì chúng biết rằng trải nghiệm tâm linh không được áp đặt mà phải được tự do đề xuất. Điều chủ yếu là con cái thực sự thấy được điều này: đối với cha mẹ chúng, cầu nguyện là một việc thực sự quan trọng. Bởi thế, những lúc gia đình cầu nguyện và các hành vi sùng kính có thể mạnh mẽ đối với việc truyền giảng Tin Mừng hơn cả các lớp giáo lý hay các bài giảng. Ở đây, tôi muốn bầy tỏ lòng biết ơn cách riêng tới tất cả các bà mẹ vẫn tiếp tục cầu nguyện, như Thánh Monica, cho những đứa con đã lạc xa Chúa Kitô.

289. The work of handing on the faith to children, in the sense of facilitating its expression and growth, helps the whole family in its evangelizing mission. It naturally begins to spread the faith to all around them, even outside of the family circle. Children who grew up in missionary families often become missionaries themselves; growing up in warm and friendly families, they learn to relate to the world in this way, without giving up their faith or their convictions. We know that Jesus himself ate and drank with sinners (cf. Mk 2:16; Mt 11:19), conversed with a Samaritan woman (cf. Jn 4:7-26), received Nicodemus by night (cf. Jn 3:1-21), allowed his feet to be anointed by a prostitute (cf. Lk 7:36-50) and did not hesitate to lay his hands on those who were sick (cf. Mk 1:40-45; 7:33). The same was true of his apostles, who did not look down on others, or cluster together in small and elite groups, cut off from the life of their people. Although the authorities harassed them, they nonetheless enjoyed the favour “of all the people” (Acts 2:47; cf. 4:21, 33; 5:13).

289. Công việc lưu truyền đức tin cho con cái, theo nghĩa làm dễ dàng việc phát biểu và lớn mạnh của nó, giúp toàn bộ gia đình trong sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng của họ. Tự nhiên nó bắt đầu với việc truyền bá đức tin cho mọi người chung quanh họ, cả bên ngoài khung cảnh gia đình. Con cái lớn lên trong các gia đình có tinh thần truyền giáo thường sẽ trở nên các nhà truyền giáo; lớn lên trong các gia đình ấm cúng và thân thiện, chúng học được cách liên hệ với thế giới theo cách này, mà không từ bỏ đức tin và các xác tín của chúng. Ta biết rằng chính Chúa Giêsu đã ăn uống với các người tội lỗi (xem Mc 2:16; Mt 11:19), chuyện trò với người đàn bà Samaria (xem Ga 4:7-26), tiếp Nicôđêmô lúc đêm hôm (xem Ga 3:1-21), để một gái điếm rửa chân cho mình (xem Lc 7:36-50) và không do dự đặt tay lên người bệnh (xem Mc 1:40-45; 7:33). Điều này cũng đúng đối với các tông đồ của Người: các ngài không coi thường người khác, hoặc tụ tập thành những nhóm ưu tú nho nhỏ, tách biệt hẳn cuộc sống của dân mình. Dù các nhà cầm quyền xách nhiễu các ngài, các ngài vẫn được “toàn dân” thương mến (Cv 2:47; xem 4:21, 33; 5:13).

290. “The family is thus an agent of pastoral activity through its explicit proclamation of the Gospel and its legacy of varied forms of witness, namely solidarity with the poor, openness to a diversity of people, the protection of creation, moral and material solidarity with other families, including those most in need, commitment to the promotion of the common good and the transformation of unjust social structures, beginning in the territory in which the family lives, through the practice of the corporal and spiritual works of mercy”.619 All this is an expression of our profound Christian belief in the love of the Father who guides and sustains us, a love manifested in the total self-gift of Jesus Christ, who even now lives in our midst and enables us to face together the storms of life at every stage. In all families the Good News needs to resound, in good times and in bad, as a source of light along the way. All of us should be able to say, thanks to the experience of our life in the family: “We come to believe in the love that God has for us” (1 Jn 4:16). Only on the basis of this experience will the Church’s pastoral care for families enable them to be both domestic churches and a leaven of evangelization in society.



290. Như thế, gia đình là một tác nhân của hành động mục vụ qua việc minh nhiên công bố Tin Mừng và di sản của nó gồm nhiều hình thức làm chứng: liên đới với người nghèo, cởi mở đối với các dị biệt giữa người ta, gìn giữ sáng thế, liên đới với các gia đình khác, nhất là những gia đình túng thiếu nhất, cả tinh thần lẫn vật chất, cả dấn thân cho việc cổ vũ ích chung bằng việc biến đổi các cơ cấu xã hội bất công, bắt đầu với khu vực họ sinh sống, tham gia các công việc thương người về tinh thần và thể xác”620. Tất cả những điều này đều nói lên niềm tin sâu xa Kitô giáo của ta vào lòng yêu thương của Chúa Cha, Đấng luôn hướng dẫn và nâng đỡ ta, một lòng yêu thương được biểu hiện trong việc tự hiến hoàn toàn của Chúa Giêsu Kitô, Đấng nay vẫn đang sống giữa chúng ta và giúp chúng ta khả năng cùng nhau đương đầu với giông bão cuộc đời trong mọi giai đoạn của nó. Trong mọi gia đình, Tin Mừng cần được vang vọng trở lại, bất kể lúc thịnh vượng cũng như lúc gian nan, làm nguồn ánh sáng khắp nẻo đường đi. Mọi người chúng ta đều có thể nói được rằng nhờ kinh nghiệm sống trong gia đình “chúng ta đã tin vào lòng yêu thương mà Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1Ga 4:16). Chỉ dựa vào kinh nghiệm này việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội dành cho các gia đình mới giúp họ trở nên vừa là Giáo Hội tại gia vừa là chất men của việc truyền giảng Tin Mừng trong xã hội.


tải về 1.45 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương