Post-synodal apostolic exhortation amoris lætitia


Chapter Two: The Experiences And Challenges Of Families



tải về 1.45 Mb.
trang3/20
Chuyển đổi dữ liệu24.08.2017
Kích1.45 Mb.
#32722
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20

Chapter Two: The Experiences And Challenges Of Families


31. The welfare of the family is decisive for the future of the world and that of the Church. Countless studies have been made of marriage and the family, their current problems and challenges. We do well to focus on concrete realities, since “the call and the demands of the Spirit resound in the events of history”, and through these “the Church can also be guided to a more profound understanding of the inexhaustible mystery of marriage and the family”.15 I will not attempt here to present all that might be said about the family today. Nonetheless, because the Synod Fathers examined the situation of families worldwide, I consider it fitting to take up some of their pastoral insights, along with concerns derived from my own experience.

Chương Hai: Các trải nghiệm và thách đố của các gia đình


31. Phúc lợi của gia đình có tính quyết định đối với tương lai thế giới và tương lai Giáo Hội. Rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về hôn nhân và gia đình, các vấn đề và thách đố hiện thời của họ. Ta nên tập chú vào các thực tại cụ thể, vì “lời kêu gọi và các đòi hỏi của Thần Khí vang vọng trong các biến cố của lịch sử”, và qua các biến cố này, “Giáo Hội cũng có thể được dẫn tới một cái hiểu sâu sắc hơn về mầu nhiệm khôn thấu của hôn nhân và gia đình”16. Ở đây, tôi sẽ không cố gắng trình bầy mọi điều có thể nói về gia đình ngày nay. Tuy nhiên, vì các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khảo sát tình thế các gia đình khắp thế giới, nên tôi coi là thích hợp việc bàn tới một số tầm nhìn mục vụ thấu suốt của các ngài, cùng với các quan tâm từ chính kinh nghiệm của tôi.

The Current Reality Of The Family


32. “Faithful to Christ’s teaching we look to the reality of the family today in all its complexity, with both its lights and shadows... Anthropological and cultural changes in our times influence all aspects of life and call for an analytic and diversified approach”.17 Several decades ago, the Spanish bishops noted that families have come to enjoy greater freedom “through an equitable distribution of duties, responsibilities and tasks”; indeed, “a greater emphasis on personal communication between the spouses helps to make family life more humane”, while “neither today’s society nor that to which we are progressing allow an uncritical survival of older forms and models”.18 It is also evident that “the principal tendencies in anthropological-cultural changes” are leading “individuals, in personal and family life, to receive less and less support from social structures than in the past”.19

Thực tại hiện thời của gia đình


32. “Trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô, chúng tôi nhìn vào thực tại của gia đình ngày nay trong mọi tính phức tạp của nó, với cả các điểm sáng lẫn điểm tối của nó... Các thay đổi nhân học và văn hóa thời ta đang ảnh hưởng tới mọi khía cạnh của cuộc sống và đòi hỏi phải có một lối tiếp cận có phân tích và đa dạng hóa”20. Mấy thập niên trước đây, các giám mục Tây Ban Nha từng ghi nhận rằng các gia đình đã tiến tới chỗ hưởng được một sự tự do lớn hơn “nhờ việc phân phối bổn phận, trách nhiệm và trách vụ cách công bình hơn; quả vậy, “sự nhấn mạnh nhiều hơn tới việc thông đạt có tính bản vị giữa các người phối ngẫu đã giúp làm cho đời sống gia đình trở nên nhân đạo hơn”, trong khi “cả xã hội ngày nay lẫn xã hội chúng ta đang tiến tới đều không cho phép các hình thức và mẫu mực cũ xưa sống sót một cách không phê phán”21. Điều cũng hiển nhiên là “các khuynh hướng chính trong các thay đổi nhân học và văn hóa” đang dẫn “các cá nhân, trong cuộc sống bản thân và trong cuộc sống gia đình của họ, tới chỗ càng ngày càng tiếp nhận được ít sự trợ giúp hơn so với quá khứ từ các cơ cấu xã hội”22.

33. On the other hand, “equal consideration needs to be given to the growing danger represented by an extreme individualism which weakens family bonds and ends up considering each member of the family as an isolated unit, leading in some cases to the idea that one’s personality is shaped by his or her desires, which are considered absolute”.23 “The tensions created by an overly individualistic culture, caught up with possessions and pleasures, leads to intolerance and hostility in families”.24 Here I would also include today’s fast pace of life, stress and the organization of society and labour, since all these are cultural factors which militate against permanent decisions. We also encounter widespread uncertainty and ambiguity. For example, we rightly value a personalism that opts for authenticity as opposed to mere conformity. While this can favour spontaneity and a better use of people’s talents, if misdirected it can foster attitudes of constant suspicion, fear of commitment, self-centredness and arrogance. Freedom of choice makes it possible to plan our lives and to make the most of ourselves. Yet if this freedom lacks noble goals or personal discipline, it degenerates into an inability to give oneself generously to others. Indeed, in many countries where the number of marriages is decreasing, more and more people are choosing to live alone or simply to spend time together without cohabiting. We can also point to a praiseworthy concern for justice; but if misunderstood, this can turn citizens into clients interested solely in the provision of services.

33. Mặt khác, “cũng phải lưu ý như thế tới mối nguy mỗi ngày một lớn do chủ nghĩa duy cá nhân cực đoan đại diện, một chủ nghĩa đang làm suy yếu các mối dây nối kết gia đình và nhiên hậu chỉ coi các thành viên của gia đình như một đơn vị biệt lập, trong một số trường hợp, còn dẫn tới ý nghĩ cho rằng nhân cách của người ta được lên khuôn bởi chính các thèm muốn được coi như tuyệt đối của họ”25. “Các căng thẳng do nền văn hóa quá duy cá nhân chủ nghĩa gây ra, một nền văn hóa luôn ám ảnh với của cải và khoái lạc, đang dẫn tới sự bất khoan dung và cảnh thù nghịch trong các gia đình”26. Ở đây, tôi cũng muốn thêm vào đó nhịp sống vội vã, sự căng thẳng và việc tổ chức xã hội và lao động ngày nay, vì tất cả đều là các nhân tố văn hóa chống lại khả năng đưa ra các quyết định vĩnh viễn. Chúng ta cũng gặp sự bất chắc chắn và hàm hồ phổ biến hiện nay. Thí dụ, chúng ta đúng khi trân quí chủ nghĩa nhân vị vì chủ nghĩa này chọn tính chân thực chống lại thái độ chỉ biết sống theo qui ước. Dù việc này có thể cổ vũ tính tự phát cũng như giúp người ta sử dụng năng khiếu của họ một cách tốt đẹp hơn, nhưng nếu bị hướng dẫn sai, nó có thể khuyến khích thái độ ngờ vực khôn cùng, trốn chạy việc dấn thân, tự giam mình vào tiện nghi, ngạo mạn. Tự do chọn lựa giúp ta dự phóng được đời mình và vun sới được những điều tốt hơn trong ta, nhưng nếu không có các mục tiêu cao thượng cũng như kỷ luật bản thân, nó sẽ thoái hóa, khiến ta bất lực, không thể tự hiến thân một cách quảng đại nữa. Thực vậy, tại nhiều quốc gia nơi con số hôn phối đang giảm dần, số người quyết định sống độc thân hay dành thì giờ cho nhau nhưng không sống chung với nhau, càng ngày càng gia tăng. Chúng ta cũng có thể nhấn mạnh tới việc quan tâm tới công lý rất đáng khâm phục; nhưng, nếu bị hiểu sai, quan tâm này có thể biến các công dân thành các khách hàng chỉ biết quan tâm đến việc được cung cấp các dịch vụ mà thôi.

34. When these factors affect our understanding of the family, it can come to be seen as a way station, helpful when convenient, or a setting in which rights can be asserted while relationships are left to the changing winds of personal desire and circumstances. Ultimately, it is easy nowadays to confuse genuine freedom with the idea that each individual can act arbitrarily, as if there were no truths, values and principles to provide guidance, and everything were possible and permissible. The ideal of marriage, marked by a commitment to exclusivity and stability, is swept aside whenever it proves inconvenient or tiresome. The fear of loneliness and the desire for stability and fidelity exist side by side with a growing fear of entrapment in a relationship that could hamper the achievement of one’s personal goals.

34. Khi các nhân tố trên ảnh hưởng tới cái hiểu của chúng ta về gia đình, thì gia đình có thể tự biến thành một nơi quá giang, để ta chạy tới khi thấy thuận tiện, hoặc là nơi để ta tới đòi hỏi quyền lợi, còn các mối dây liên kết thì được phó mặc cho tính bấp bênh dễ thay đổi của thèm muốn và hoàn cảnh. Ngày nay, xét cho cùng, người ta rất dễ lẫn lộn tự do chân chính với ý nghĩ cho rằng mỗi người được phán đoán là tốt điều xem ra là tốt đối với họ; như thể, ngoài các cá nhân ra, không còn chi là sự thật, là giá trị, là nguyên tắc để hướng dẫn ta nữa, như thể thẩy đều như nhau, và bất kể là điều gì, cũng phải làm được và được phép làm. Trong ngữ cảnh này, lý tưởng hôn nhân, với sự cam kết độc chiếm và bền vững của nó, kết cục sẽ bị gạt sang một bên, bất cứ khi nào tỏ ra bất tiện hay gây mệt mỏi. Người ta sợ sự cô độc, họ muốn có một môi trường che chở và trung thành, nhưng đồng thời lại khuếch đại nỗi sợ phải sa vào một mối liên hệ có thể ngăn cản việc thể hiện các khát vọng bản thân.

35. As Christians, we can hardly stop advocating marriage simply to avoid countering contemporary sensibilities, or out of a desire to be fashionable or a sense of helplessness in the face of human and moral failings. We would be depriving the world of values that we can and must offer. It is true that there is no sense in simply decrying present-day evils, as if this could change things. Nor it is helpful to try to impose rules by sheer authority. What we need is a more responsible and generous effort to present the reasons and motivations for choosing marriage and the family, and in this way to help men and women better to respond to the grace that God offers them.

35. Là các Kitô hữu, chúng ta khó có thể ngưng, không cổ vũ hôn nhân, chỉ để tránh đụng chạm tới các nhậy cảm hiện thời, hoặc vì muốn hợp thời thượng hoặc vì cảm thấy bất lực trước các thất bại nhân bản và luân lý. Làm như thế chúng ta đã tước bỏ cả một thế giới giá trị mà chúng ta vốn có thể và phải cung ứng. Đã đành, chỉ biết tố cáo các cái xấu hiện thời như thể ta chẳng thay đổi được gì là điều vô nghĩa. Cũng chẳng ích lợi gì khi cố gắng áp đặt các qui luật chỉ bằng thẩm quyền của mình mà thôi. Điều cần là chúng ta phải ra sức một cách có trách nhiệm và quảng đại hơn trong việc trình bầy các lý lẽ và nguyên động lực cho việc quyết định kết hôn và lập gia đình, và nhờ cách này, giúp các người nam nữ đáp ứng ơn thánh mà Thiên Chúa cung ứng cho họ một cách tốt đẹp hơn.

36. We also need to be humble and realistic, acknowledging that at times the way we present our Christian beliefs and treat other people has helped contribute to today’s problematic situation. We need a healthy dose of self-criticism. Then too, we often present marriage in such a way that its unitive meaning, its call to grow in love and its ideal of mutual assistance are overshadowed by an almost exclusive insistence on the duty of procreation. Nor have we always provided solid guidance to young married couples, understanding their timetables, their way of thinking and their concrete concerns. At times we have also proposed a far too abstract and almost artificial theological ideal of marriage, far removed from the concrete situations and practical possibilities of real families. This excessive idealization, especially when we have failed to inspire trust in God’s grace, has not helped to make marriage more desirable and attractive, but quite the opposite.

36. Chúng ta cũng cần phải khiêm tốn và hiện thực, thừa nhận rằng có lúc, cung cách ta trình bầy các niềm tin Kitô Giáo và việc cư xử với người khác chỉ giúp làm gia trọng tình thế đang gây vấn nạn hiện nay mà thôi. Ta cần liều thuốc tự phê lành mạnh. Rồi, ta còn hay trình bầy hôn nhân (tệ đến nỗi) khiến cho ý nghĩa nên một của nó, lời mời gọi lớn lên trong yêu thương của nó và lý tưởng trợ giúp nhau của nó bị che khuất bởi việc hầu như chỉ chuyên chú nhấn mạnh tới nhiệm vụ truyền sinh. Ta cũng đã không luôn cung cấp được sự hướng dẫn vững chắc cho những cặp vợ chồng trẻ, hiểu biết thời khóa biểu của họ, cách suy nghĩ và các quan tâm cụ thể của họ. Có lúc, ta cũng đã đề xuất một lý tưởng thần học về hôn nhân quá trừu tượng và gần như giả tạo, quá xa rời các hoàn cảnh cụ thể và các khả thể thực tế của các gia đình đích thực. Việc lý tưởng hóa thái quá này, nhất là khi ta thất bại trong việc gây hứng cho lòng tín thác vào ơn thánh Chúa, không giúp làm cho hôn nhân trở thành đáng ước muốn và lôi cuốn hơn, nhưng trở thành điều trái ngược hẳn.

37. We have long thought that simply by stressing doctrinal, bioethical and moral issues, without encouraging openness to grace, we were providing sufficient support to families, strengthening the marriage bond and giving meaning to marital life. We find it difficult to present marriage more as a dynamic path to personal development and fulfilment than as a lifelong burden. We also find it hard to make room for the consciences of the faithful, who very often respond as best they can to the Gospel amid their limitations, and are capable of carrying out their own discernment in complex situations. We have been called to form consciences, not to replace them.

37. Từ lâu chúng ta vốn nghĩ rằng chỉ bằng cách nhấn mạnh tới các vấn đề tín lý, sinh học và luân lý, không cần phải khuyến khích sự cởi mở với ơn thánh, ta đã đang cung cấp cho các gia đình sự trợ giúp thỏa đáng, củng cố dây hôn phối và đem lại ý nghĩa cho đời sống vợ chồng rồi. Ta thấy khó có thể trình bầy hôn nhân như con đường năng động để phát triển và hoàn thành bản thân hơn là một gánh nặng suốt đời. Ta cũng thấy khó có thể dành chỗ cho lương tâm tín hữu, những người thường hết mình đáp ứng Tin Mừng, bất chấp các hạn chế bản thân, và có khả năng thực hiện sự biện phân về chính họ trong các hoàn cảnh phức tạp. Chúng ta vốn được kêu gọi đào tạo các lương tâm, chứ không thay thế chúng.

38. We must be grateful that most people do value family relationships that are permanent and marked by mutual respect. They appreciate the Church’s efforts to offer guidance and counselling in areas related to growth in love, overcoming conflict and raising children. Many are touched by the power of grace experienced in sacramental Reconciliation and in the Eucharist, grace that helps them face the challenges of marriage and the family. In some countries, especially in various parts of Africa, secularism has not weakened certain traditional values, and marriages forge a strong bond between two wider families, with clearly defined structures for dealing with problems and conflicts. Nowadays we are grateful too for the witness of marriages that have not only proved lasting, but also fruitful and loving. All these factors can inspire a positive and welcoming pastoral approach capable of helping couples to grow in appreciation of the demands of the Gospel. Yet we have often been on the defensive, wasting pastoral energy on denouncing a decadent world without being proactive in proposing ways of finding true happiness. Many people feel that the Church’s message on marriage and the family does not clearly reflect the preaching and attitudes of Jesus, who set forth a demanding ideal yet never failed to show compassion and closeness to the frailty of individuals like the Samaritan woman or the woman caught in adultery.

38. Ta phải biết ơn khi phần lớn người ta còn trân quí các mối liên hệ gia đình vĩnh viễn và có đặc điểm tôn trọng lẫn nhau. Họ biết đánh giá các cố gắng của Giáo Hội nhằm cung ứng sự hướng dẫn và huấn đạo trong các lãnh vực liên hệ tới việc lớn mạnh trong tình yêu, thắng vượt tranh chấp và dưỡng dục con cái. Nhiều người được đánh động bởi ơn thánh tiếp nhận nơi bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, ơn thánh giúp họ đương đầu với các thách đố hôn nhân và gia đình. Ở một số quốc gia, nhất là ở một số nơi tại Châu Phi, chủ nghĩa duy thế tục vẫn chưa làm suy yếu một số giá trị truyền thống, và các cuộc hôn nhân vẫn tạo nên dây nối kết mạnh mẽ giữa hai đại gia đình, với những cơ cấu đuợc ấn định rõ ràng nhằm xử lý các nan đề và tranh chấp. Ngày nay, ta cũng biết ơn các chứng tá hôn nhân, không những chứng tỏ lâu bền, mà còn sinh hoa trái và đầy yêu thương. Tất cả các nhân tố này có sức gợi hứng cho một phương thức mục vụ tích cực và chào đón, có khả năng giúp các cặp vợ chồng lớn lên trong việc biết trân quí các đòi hỏi của Tin Mừng. Ấy thế nhưng, ta thường hay có tư thế phòng ngự, phí phạm năng lực mục vụ vào việc tố cáo thế giới sa đọa mà không đồng lực trong việc đề ra các cách thế tìm được hạnh phúc đích thực. Nhiều người cảm thấy sứ điệp của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình không phản ảnh rõ ràng giáo huấn và các thái độ của Chúa Giêsu, Đấng đã đặt ra một lý tưởng có tính đòi hỏi, nhưng chưa bao giờ bỏ lỡ việc tỏ lòng cảm thương và gần gũi với sự yếu đuối mỏng manh của các cá nhân như người đàn bà Samaria hay người đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình.

39. This is hardly to suggest that we cease warning against a cultural decline that fails to promote love or self-giving. The consultation that took place prior to the last two Synods pointed to the various symptoms of a “culture of the ephemeral”. Here I think, for example, of the speed with which people move from one affective relationship to another. They believe, along the lines of social networks, that love can be connected or disconnected at the whim of the consumer, and the relationship quickly “blocked”. I think too of the fears associated with permanent commitment, the obsession with free time, and those relationships that weigh costs and benefits for the sake of remedying loneliness, providing protection, or offering some service. We treat affective relationships the way we treat material objects and the environment: everything is disposable; everyone uses and throws away, takes and breaks, exploits and squeezes to the last drop. Then, goodbye. Narcissism makes people incapable of looking beyond themselves, beyond their own desires and needs. Yet sooner or later, those who use others end up being used themselves, manipulated and discarded by that same mind-set. It is also worth noting that breakups often occur among older adults who seek a kind of “independence” and reject the ideal of growing old together, looking after and supporting one another.

39. Điều trên không có ý nói rằng ta nên ngưng, không cảnh giác trước sự xuống dốc của văn hóa nữa, một sự xuống dốc khiến người ta không còn cổ vũ tình yêu hay việc tự hiến nữa. Cuộc tham khảo ý kiến diễn ra trước khi có hai Thượng Hội Đồng trước đây cho ta thấy một số triệu chứng khác nhau của “nền văn hóa phù phiếm”. Chẳng hạn, ở đây, tôi nghĩ tới vận tốc độ thay đổi mau chóng của người ta từ mối liên hệ xúc cảm này sang mối liên hệ xúc cảm kia. Theo đường hướng của các mạng lưới xã hội, họ tin rằng tình yêu có thể được nối kết hay tháo gỡ, là tùy ở sở thích của người tiêu thụ, và mối liên hệ mau chóng “bị khóa cứng”. Tôi cũng nghĩ tới các nỗi sợ sệt của người ta khiến họ không dám cam kết vĩnh viễn, tới việc họ bị ám ảnh với thì giờ được tự do và tới các mối liên hệ luôn so đo lợi hại trong việc tránh bị cô đơn, được bảo vệ hay được phục vụ cách nào đó. Chúng ta xử sự với các mối liên hệ xúc cảm theo lối xử lý các đồ vật và môi trường vật chất: mọi sự đều có thể dùng rồi vứt bỏ; mọi người đều dùng rồi liệng bỏ, lấy rồi đập bể, khai thác và vắt cho tới giọt cuối cùng. Rồi, tạm biệt nhé! Tự yêu mình thái quá khiến người ta không còn khả năng nhìn quá con người của họ, quá các thèm muốn và nhu cầu của họ nữa. Ấy thế nhưng, chẳng sớm thì muộn, những người sử dụng người khác kết cục chính họ sẽ bị sử dụng, thao túng và vứt bỏ bởi cùng một não trạng. Điều cũng đáng lưu ý là: các cuộc tan vỡ thường xẩy ra nơi những người cao tuổi chỉ muốn đi tìm một thứ “độc lập” nào đó, chứ không chấp nhận lý tưởng cùng về già với nhau, cùng chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau.

40. “At the risk of oversimplifying, we might say that we live in a culture which pressures young people not to start a family, because they lack possibilities for the future. Yet this same culture presents others with so many options that they too are dissuaded from starting a family”.27 In some countries, many young persons “postpone a wedding for economic reasons, work or study. Some do so for other reasons, such as the influence of ideologies which devalue marriage and family, the desire to avoid the failures of other couples, the fear of something they consider too important and sacred, the social opportunities and economic benefits associated with simply living together, a purely emotional and romantic conception of love, the fear of losing their freedom and independence, and the rejection of something conceived as purely institutional and bureaucratic”.28 We need to find the right language, arguments and forms of witness that can help us reach the hearts of young people, appealing to their capacity for generosity, commitment, love and even heroism, and in this way inviting them to take up the challenge of marriage with enthusiasm and courage.

40. “Trong nguy cơ đơn giản hóa thái quá, ta dám cho rằng ta sống trong một nền văn hóa chỉ biết áp lực người trẻ đừng lập gia đình, vì họ thiếu các khả thể đối với tương lai. Ấy thế nhưng, cũng chính nền văn hóa này đã trình bầy với nhiều người khác quá nhiều giải pháp đến nỗi cả người này nữa cũng không dám lập gia đình”29. Ở một số quốc gia, nhiều người trẻ “hoãn việc cưới xin vì các lý do kinh tế, việc làm hay học hành. Một số làm thế vì các lý do khác, như ảnh hưởng của các ý thức hệ vốn hạ giá hôn nhân và gia đình, muốn tránh thất bại của các cặp vợ chồng khác, sợ điều gì đó họ coi là quá quan trọng và thánh thiêng, các cơ hội xã hội và lợi ích kinh tế vốn liên kết với việc chỉ sống chung với nhau, chỉ quan niệm tình yêu về phương diện thuần cảm xúc và thơ mộng, sợ mất tự do và độc lập, và bác bỏ bất cứ điều bị coi là có tính định chế và bàn giấy thuần túy”30. Ta cần tìm ra thứ ngôn ngữ, các luận điểm và hình thức làm chứng đúng đắn có khả năng giúp ta đụng chạm tới tâm hồn giới trẻ, lôi cuốn khả năng đại lượng, dấn thân, yêu thương và thậm chí anh hùng của họ nữa, và nhờ cách này, mời gọi họ tiếp nhận thách đố hôn nhân một cách hứng khởi và can đảm.

41. The Synod Fathers noted that “cultural tendencies in today’s world seem to set no limits on a person’s affectivity”; indeed, “a narcissistic, unstable or changeable affectivity does not always allow a person to grow to maturity”. They also expressed concern about the current “spread of pornography and the commercialization of the body, fostered also by a misuse of the internet, and about those “reprehensible situations where people are forced into prostitution”. In this context, “couples are often uncertain, hesitant and struggling to find ways to grow. Many tend to remain in the early stages of their affective and sexual life. A crisis in a couple’s relationship destabilizes the family and may lead, through separation and divorce, to serious consequences for adults, children and society as a whole, weakening its individual and social bonds”.31 Marital problems are “often confronted in haste and without the courage to have patience and reflect, to make sacrifices and to forgive one another. Failures give rise to new relationships, new couples, new civil unions, and new marriages, creating family situations which are complex and problematic for the Christian life”.32

41. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “các xu hướng văn hóa trong thế giới ngày nay xem ra không đặt bất cứ giới hạn nào cho cảm giới của người ta”; quả thế, “một cảm giới tự yêu mình thái quá, bất ổn hay dễ thay đổi không luôn giúp người ta trưởng thành”. Các ngài cũng tỏ ý quan tâm tới “việc lan tràn văn hóa khiêu dâm hiện nay và việc thương mãi hóa thân xác, vốn cũng được cổ vũ bởi việc lạm dụng liên mạng”, và tới “các hoàn cảnh đáng chê trách trong đó, người ta bắt buộc phải bước vào mãi dâm”. Trong bối cảnh này, “các cặp vợ chồng thường không chắc chắn, do dự và loay hoay tìm cách lớn lên. Nhiều cặp có khuynh hướng ở lỳ trong các giai đoạn khởi đầu của cuộc sống cảm giới và tính dục của họ. Khủng hoảng trong mối liên hệ vợ chồng sẽ làm gia đình bất ổn và, qua ly thân và ly dị, có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng cho người lớn, cho con cái và cả xã hội như một toàn thể, làm suy yếu các mối dây liên kết cá nhân và xã hội”33. Các vấn đề vợ chồng “thường được xử lý một cách vội vã, không can đảm kiên nhẫn và suy nghĩ, hy sinh và tha thứ cho nhau. Các thất bại này tạo ra các mối liên hệ mới, các cặp vợ chồng mới, các vụ kết hợp dân sự mới, và các cuộc hôn nhân mới, tạo ra các tình huống gia đình phức tạp và có vấn đề đối với đời sống Kitô hữu”34.

42. Furthermore, “the decline in population, due to a mentality against having children and promoted by the world politics of reproductive health, creates not only a situation in which the relationship between generations is no longer ensured but also the danger that, over time, this decline will lead to economic impoverishment and a loss of hope in the future. The development of bio-technology has also had a major impact on the birth rate”.35 Added to this are other factors such as “industrialization, the sexual revolution, the fear of overpopulation and economic problems... Consumerism may also deter people from having children, simply so they can maintain a certain freedom and life-style”.36 The upright consciences of spouses who have been generous in transmitting life may lead them, for sufficiently serious reasons, to limit the number of their children, yet precisely “for the sake of this dignity of conscience, the Church strongly rejects the forced State intervention in favour of contraception, sterilization and even abortion”.37 Such measures are unacceptable even in places with high birth rates, yet also in countries with disturbingly low birth rates we see politicians encouraging them. As the bishops of Korea have said, this is “to act in a way that is self-contradictory and to neglect one’s duty”.38

42. Hơn nữa, “việc suy giảm dân số, vì não trạng chống đối việc có con và được cổ vũ bởi nền chính trị ngừa thai trên thế giới, đã tạo nên không những một tình thế trong đó mối liên hệ giữa các thế hệ không còn được bảo đảm mà cả mối nguy này: với thời gian, việc suy giảm này sẽ dẫn đến cảnh bần cùng hóa kinh tế và mất hết hy vọng vào tương lai. Việc phát triển kỹ thuật sinh học cũng có tác động lớn đối với sinh suất”39. Thêm vào đó, còn có các nhân tố khác như “kỹ nghệ hóa, cách mạng tình dục, sợ nhân mãn và các vấn nạn kinh tế... Chủ nghĩa duy tiêu thụ cũng khiến người ta không dám có con, chỉ để họ duy trì được một chút tự do hay lối sống nào đó”40. Lương tâm ngay thẳng của vợ chồng nào biết quảng đại trong việc truyền sinh có thể dẫn họ, vì các lý do đủ nghiêm túc, tới việc giới hạn số con, ấy thế nhưng “vì phẩm giá của lương tâm này, Giáo Hội mạnh mẽ bác bỏ sự can thiệp cưỡng bức của Nhà Nước đòi người ta phải ngừa thai, triệt sản và thậm chí phá thai”41. Các biện pháp này không thể chấp nhận được ngay ở những nơi có sinh suất cao, ấy thế nhưng ở các quốc gia có sinh suất thấp đến độ gây bối rối, chúng ta vẫn thấy các chính khách khuyến khích các biện pháp này. Như các giám mục Đại Hàn từng nói, việc này “hành động một cách tự mâu thuẫn và sao lãng bổn phận của mình”42.

43. The weakening of faith and religious practice in some societies has an effect on families, leaving them more isolated amid their difficulties. The Synod Fathers noted that “one symptom of the great poverty of contemporary culture is loneliness, arising from the absence of God in a person’s life and the fragility of relationships. There is also a general feeling of powerlessness in the face of socio-cultural realities that oftentimes end up crushing families... Families often feel abandoned due to a lack of interest and attention on the part of institutions. The negative impact on the social order is clear, as seen in the demographic crisis, in the difficulty of raising children, in a hesitancy to welcome new life, in a tendency to see older persons as a burden, and in an increase of emotional problems and outbreaks of violence. The State has the responsibility to pass laws and create work to ensure the future of young people and help them realize their plan of forming a family”.43

43. Việc suy yếu đức tin và thực hành tôn giáo trong một số xã hội đã gây nhiều hậu quả đối với các gia đình, khiến họ càng bị cô lập hơn khi gặp các khó khăn. Các Nghị Thượng Hội Đồng từng ghi nhận rằng “một triệu chứng của sự nghèo nàn lớn lao trong nền văn hóa hiện thời là sự cô đơn, phát sinh từ việc thiếu vắng Thiên Chúa trong đời sống con người và sự mỏng manh trong các mối liên hệ. Cũng có một cảm thức bất lực tổng quát trước các thực tại kinh tế xã hội đôi khi có tác dụng đè bẹp các gia đình... Các gia đình này thường cảm thấy bị bỏ rơi bởi sự thờ ơ và thiếu quan tâm của các định chế. Tác dụng tiêu cực đối với trật tự xã hội khá rõ ràng, như đã thấy trong cuộc khủng hoảng dân số, trong khó khăn nuôi dưỡng con cái, trong do dự chào đón sự sống mới, trong khuynh hướng coi người cao niên như một gánh nặng, và trong việc gia tăng các vấn đề xúc cảm và bùng nổ bạo lực. Nhà Nước có trách nhiệm ban hành các đạo luật và tạo ra việc làm để bảo đảm tương lai cho giới trẻ và giúp họ thể hiện được kế hoạch tạo lập gia đình của họ”44.

44. The lack of dignified or affordable housing often leads to the postponement of formal relationships. It should be kept in mind that “the family has the right to decent housing, fitting for family life and commensurate to the number of the members, in a physical environment that provides the basic services for the life of the family and the community”.45 Families and homes go together. This makes us see how important it is to insist on the rights of the family and not only those of individuals. The family is a good which society cannot do without, and it ought to be protected.46 “The Church has always held it part of her mission to promote marriage and the family and to defend them against those who attack them”,47 especially today, when they are given scarce attention in political agendas. Families have the right to “to be able to count on an adequate family policy on the part of public authorities in the juridical, economic, social and fiscal domains”.48 At times families suffer terribly when, faced with the illness of a loved one, they lack access to adequate health care, or struggle to find dignified employment. “Economic constraints prohibit a family’s access to education, cultural activities and involvement in the life of society. In many ways, the present-day economic situation is keeping people from participating in society. Families, in particular, suffer from problems related to work, where young people have few possibilities and job offers are very selective and insecure. Workdays are long and oftentimes made more burdensome by extended periods away from home. This situation does not help family members to gather together or parents to be with their children in such a way as to nurture their relationships each day”.49

44. Việc thiếu nhà ở xứng đáng và hợp túi tiền thường dẫn tới việc trì hoãn các mối liên hệ chính thức. Cần nhớ rằng “gia đình có quyền có nhà ở xứng đáng, thích hợp cho cuộc sống gia đình và tương xứng với con số thành viên của nó, trong một môi trường thể lý có thể cung cấp các dịch vụ căn bản cho cuộc sống gia đình và cộng đồng”50. Gia đình và tổ ấm luôn đi đôi với nhau. Điều này giúp ta thấy việc nhấn mạnh tới quyền gia đình chứ không phải chỉ quyền cá nhân là điều quan trọng như thế nào. Gia đình là một thiện ích mà xã hội không thể không có, và nó cần được bảo vệ.51 “Giáo Hội vốn luôn coi việc cổ vũ hôn nhân và gia đình và bảo vệ chúng chống lại những người tấn công chúng là một phần trong sứ mệnh của mình”52, nhất là ngày nay, khi chúng ít được lưu ý trong các nghị trình chính trị. Các gia đình có quyền “có khả năng trông chờ một chính sách gia đình thoả đáng từ phía các nhà cầm quyền công cộng trong các lãnh vực tư pháp, kinh tế, xã hội và tài chánh”53. Đôi lúc, nỗi lo âu của các gia đình trở nên bi đát khi, đương đầu với bệnh tật của người thân, họ không có được sự chăm sóc y tế thỏa đáng, hay lao đao trong việc tìm được việc làm xứng đáng. “Các hạn chế kinh tế ngăn cản các gia đình tham dự vào giáo dục, các sinh hoạt văn hóa và can dự vào đời sống xã hội. Bằng nhiều cách, tình hình kinh tế hiện nay đang ngăn cản người ta tham dự vào xã hội. Cách riêng, các gia đình chịu nhiều nan đề liên quan tới việc làm, trong đó, giới trẻ có ít khả thể và việc cung ứng việc làm khá lựa lọc và không chắc chắn. Ngày làm việc dài hơn và thường còn trở nên nặng nề do những thời kỳ phải sống xa gia đình dài hơn. Tình thế này không giúp các thành viên trong gia đình tụ họp với nhau hay giúp cha mẹ ở với con cái một cách có thể nuôi dưỡng các mối liên hệ hàng ngày của họ”54.

45. “A great number of children are born outside of wedlock, many of whom subsequently grow up with just one of their parents or in a blended or reconstituted family... The sexual exploitation of children is yet another scandalous and perverse reality in present-day society. Societies experiencing violence due to war, terrorism or the presence of organized crime are witnessing the deterioration of the family, above all in large cities, where, on their outskirts, the so-called phenomenon of ‘street-children’ is on the rise”.55 The sexual abuse of children is all the more scandalous when it occurs in places where they ought to be most safe, particularly in families, schools, communities and Christian institutions.56

45. “Một số lớn trẻ em sinh ngoài hôn nhân, nhiều em sau đó lớn lên chỉ có một trong các cha mẹ hay trong các gia đình pha trộn hay tái tạo... Việc khai thác tình dục trẻ em là một trong những thực tại tai tiếng và đồi trụy nhất của xã hội hiện nay. Các xã hội trải qua bạo lực vì chiến tranh, vì chủ nghĩa khủng bố hay vì sự hiện hữu của tội ác có tổ chức cũng đang chứng kiến nhiều tình huống gia đình thoái hóa, nhất là tại các đô thị lớn, nơi, trong các khu ngoại ô, hiện tượng gọi là trẻ em hè phố đang gia tăng”57. Việc lạm dụng tình dục trẻ em càng trở nên tai tiếng hơn nữa khi nó diễn ra ở những nơi đáng lý ra chúng phải được bảo vệ, đặc biệt, trong gia đình, ở trường học và trong các cộng đồng và định chế Kitô Giáo58.

46. “Migration is another sign of the times to be faced and understood in terms of its negative effects on family life”.59 The recent Synod drew attention to this issue, noting that “in various ways, migration affects whole populations in different parts of the world. The Church has exercised a major role in this area. Maintaining and expanding this witness to the Gospel (cf. Mt 25:35) is urgently needed today more than ever... Human mobility, which corresponds to the natural historical movement of peoples, can prove to be a genuine enrichment for both families that migrate and countries that welcome them. Furthermore, forced migration of families, resulting from situations of war, persecution, poverty and injustice, and marked by the vicissitudes of a journey that often puts lives at risk, traumatizes people and destabilizes families. In accompanying migrants, the Church needs a specific pastoral programme addressed not only to families that migrate but also to those family members who remain behind. This pastoral activity must be implemented with due respect for their cultures, for the human and religious formation from which they come and for the spiritual richness of their rites and traditions, even by means of a specific pastoral care... Migration is particularly dramatic and devastating to families and individuals when it takes place illegally and is supported by international networks of human trafficking. This is equally true when it involves women or unaccompanied children who are forced to endure long periods of time in temporary facilities and refugee camps, where it is impossible to start a process of integration. Extreme poverty and other situations of family breakdown sometimes even lead families to sell their children for prostitution or for organ trafficking”.60 “The persecution of Christians and ethnic and religious minorities in many parts of the world, especially in the Middle East, are a great trial not only for the Church but also the entire international community. Every effort should be encouraged, even in a practical way, to assist families and Christian communities to remain in their native lands”.61

46. “Di dân là một dấu chỉ thời đại khác cần phải đương đầu và hiểu biết, với tất cả các hậu quả tiêu cực của nó đối với cuộc sống gia đình”62. Thượng Hội Đồng mới đây đã làm ta lưu ý tới vấn đề này, khi ghi nhận rằng “bằng nhiều cách, việc di dân đang ảnh hưởng tới toàn bộ dân số thuộc nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Giáo Hội vốn đóng một vai trò hàng đầu trong lãnh vực này. Ngày nay, việc duy trì và mở rộng chứng tá Tin Mừng này (xem Mt 25:35) đang khẩn thiết hơn bao giờ hết... Có thể minh chứng tính di động của con người, một tính vốn tương ứng với việc di chuyển tự nhiên của các dân tộc trong lịch sử, là một sự phong phú chân chính, đối với cả các gia đình di dân lẫn xứ sở tiếp đón họ. Nhưng việc gia đình bị cưỡng ép di dân lại là một chuyện khác, khi phát sinh từ các tình huống chiến tranh, bách hại, nghèo khổ, bất công, đầy những thăng trầm của một cuộc hành trình đôi lúc lâm nguy tới chính mạng sống, gây chấn thương cho các cá nhân và làm bất ổn các gia đình. Việc đồng hành với các di dân đòi phải có một nền mục vụ chuyên biệt dành cho các gia đình đang di dân, nhưng cũng dành cho các thành viên của gia đình còn ở lại nguyên quán. Việc này phải được thực hiện song song với việc tôn trọng nền văn hóa của họ, việc đào tạo tôn giáo và nhân bản của nơi họ phát xuất, sự phong phú tâm linh trong các nghi lễ và truyền thống của họ, dù là với một nền mục vụ chuyên biệt... Việc di dân đặc biệt bi thảm và phá hoại đối với các gia đình và các cá nhân khi nó diễn ra cách bất hợp pháp và được trợ giúp bởi các mạng lưới buôn người quốc tế. Ta cũng có thể nói như thế về các phụ nữ và trẻ em không có người đi theo, buộc phải ở lâu tại các nơi tạm cư, các trại tỵ nạn, nơi không thể có việc khởi đầu diễn trình hội nhập. Cảnh nghèo cùng cực và các tình huống khác của việc tản cư đôi lúc còn dẫn các gia đình tới chỗ bán con cho đĩ điếm hoặc cho việc buôn bán bộ phận người”63. “Việc bách hại các Kitô hữu tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại Trung Đông, hiện là những thử thách lớn lao: không những đối với Giáo Hội, mà còn đối với toàn thể cộng đồng quốc tế nữa. Phải khuyến khích mọi cố gắng, cả trong bình diện thực tế, nhằm trợ giúp các gia đình và cộng đồng Kitô Giáo ở lại các nước nguyên quán của họ”64.

47. The Fathers also called particular attention to “families of persons with special needs, where the unexpected challenge of dealing with a disability can upset a family’s equilibrium, desires and expectations... Families who lovingly accept the difficult trial of a child with special needs are greatly to be admired. They render the Church and society an invaluable witness of faithfulness to the gift of life. In these situations, the family can discover, together with the Christian community, new approaches, new ways of acting, a different way of understanding and identifying with others, by welcoming and caring for the mystery of the frailty of human life. People with disabilities are a gift for the family and an opportunity to grow in love, mutual aid and unity... If the family, in the light of the faith, accepts the presence of persons with special needs, they will be able to recognize and ensure the quality and value of every human life, with its proper needs, rights and opportunities. This approach will promote care and services on behalf of these disadvantaged persons and will encourage people to draw near to them and provide affection at every stage of their life”.65 Here I would stress that dedication and concern shown to migrants and to persons with special needs alike is a sign of the Spirit. Both situations are paradigmatic: they serve as a test of our commitment to show mercy in welcoming others and to help the vulnerable to be fully a part of our communities.

47. Các Nghị Phụ cũng đã kêu gọi phải đặc biệt chú ý tới “các gia đình có các thành viên có nhu cầu đặc biệt, nơi thách đố bất ngờ phải đương đầu với một khuyết tật có thể phá vỡ thế quân bình, các ước nguyện và hoài mong của gia đình… Những gia đình nào biết yêu thương chấp nhận một đứa con khuyết tật đáng được ta hết lời ca ngợi. Họ đem lại cho Giáo Hội và xã hội một chứng tá quí giá về lòng trung thành đối với ơn phúc sự sống. Cùng với cộng đồng Kitô hữu, gia đình sẽ khám phá ra nhiều cử chỉ và ngôn từ mới, những cách hiểu và nhận diện mới, trong hành trình chào đón và chăm sóc mầu nhiệm yếu đuối mỏng manh. Người khuyết tật đem lại cho gia đình một ơn phúc và một dịp may để phát triển yêu thương, giúp đỡ nhau và hợp nhất với nhau… Gia đình nào biết dùng viễn kiến đức tin để tiếp nhận sự hiện diện của những người khuyết tật sẽ biết nhìn nhận và bảo đảm phẩm chất và giá trị của mọi sự sống, với các nhu cầu, quyền lợi và cơ hội của nó. Phương thức này sẽ cổ vũ việc chăm sóc và phục vụ cho người kém may mắn, và khuyến khích người ta xích lại gần họ, tỏ tình âu yếm ở mọi giai đoạn của cuộc sống họ”66. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng sự tận tụy và quan tâm đối với các di dân và những người có nhu cầu đặc biệt đều là dấu hiệu của Thần Khí. Cả hai hoàn cảnh này đều có tính điển hình: chúng được dùng để thử nghiệm cam kết tỏ lòng thương xót của ta trong việc chào đón người khác và giúp những người yếu thế trở nên các thành phần trọn vẹn của cộng đồng ta.

48. “Most families have great respect for the elderly, surrounding them with affection and considering them a blessing. A special word of appreciation is due to those associations and family movements committed to serving the elderly, both spiritually and socially... In highly industrialized societies, where the number of elderly persons is growing even as the birth rate declines, they can be regarded as a burden. On the other hand, the care that they require often puts a strain on their loved ones”.67 “Care and concern for the final stages of life is all the more necessary today, when contemporary society attempts to remove every trace of death and dying. The elderly who are vulnerable and dependent are at times unfairly exploited simply for economic advantage. Many families show us that it is possible to approach the last stages of life by emphasizing the importance of a person’s sense of fulfilment and participation in the Lord’s paschal mystery. A great number of elderly people are cared for in Church institutions, where, materially and spiritually, they can live in a peaceful, family atmosphere. Euthanasia and assisted suicide are serious threats to families worldwide; in many countries, they have been legalized. The Church, while firmly opposing these practices, feels the need to assist families who take care of their elderly and infirm members”.68

48. Phần lớn các gia đình biểu lộ được lòng tôn kính đối với các vị cao niên, bảo bọc các ngài bằng tình âu yếm và coi các ngài như một ơn phúc. Ta phải đánh giá cao các hiệp hội và các phong trào gia đình biết làm việc vì lợi ích của người cao niên, trong cả hai chiều kích thiêng liêng và xã hội… Trong các xã hội đã kỹ nghệ hóa cao, nơi các ngài đang gia tăng về con số trong khi sinh suất giảm, có nguy cơ các ngài bị coi như một gánh nặng. Đàng khác, sự săn sóc mà các ngài đòi hỏi thường gây ra nhiều thử thách cam go thực sự cho những kẻ thân yêu của các ngài”69. “Ngày nay, việc chăm sóc và quan tâm tới giai đoạn cuối đời càng cần thiết hơn bao giờ hết, khi người ta bị cám dỗ muốn dùng mọi cách loại bỏ giây phút lâm chung. Sự yếu đuối và lệ thuộc của người cao niên đang bị cái lợi hoàn toàn về kinh tế khai thác một cách bất chính. Nhiều gia đình đang cho chúng ta thấy rằng chúng ta có thể tiếp cận giai đoạn cuối cùng của sự sống bằng cách nhấn mạnh tới sự quan trọng trong cảm thức của người ta về việc họ đã chu toàn và nay có thể hòa nhập trọn cuộc hiện sinh của họ vào mầu nhiệm vượt qua. Đa số người cao niên đang được đón tiếp vào các cơ sở của Giáo Hội nơi họ có thể sống trong một bầu không khí thanh thản và giống như ở gia đình về cả mặt vật chất lẫn tinh thần. An tử và trợ giúp tự sát đang đặt ra nhiều đe dọa trầm trọng cho các gia đình khắp thế giới. Tại nhiều quốc gia, việc thực hành này nay đã thành hợp pháp. Dù cực lực phản đối các thực hành này, Giáo Hội vẫn cảm thấy có bổn phận phải giúp đỡ các gia đình đang chăm sóc người cao niên và các thành viên yếu ớt của họ”70.

49. Here I would also like to mention the situation of families living in dire poverty and great limitations. The problems faced by poor households are often all the more trying.71 For example, if a single mother has to raise a child by herself and needs to leave the child alone at home while she goes to work, the child can grow up exposed to all kind of risks and obstacles to personal growth. In such difficult situations of need, the Church must be particularly concerned to offer understanding, comfort and acceptance, rather than imposing straightaway a set of rules that only lead people to feel judged and abandoned by the very Mother called to show them God’s mercy. Rather than offering the healing power of grace and the light of the Gospel message, some would “indoctrinate” that message, turning it into “dead stones to be hurled at others”.72

49. Ở đây, tôi cũng muốn nhắc đến hoàn cảnh các gia đình đang sống trong cảnh nghèo cùng cực và bị giới hạn lớn lao. Các vấn đề mà các gia đình nghèo phải đương đầu thường càng có tính thử thách hơn73. Thí dụ, nếu một bà mẹ đơn chiếc phải tự nuôi dưỡng một đứa con và cần phải để đứa con ở nhà một mình để đi làm, thì đứa con có thể lớn lên chịu đủ mọi loại nguy hiểm và trở ngại đối với việc tăng triển bản thân. Trong những hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn như thế, Giáo Hội phải đặc biệt quan tâm để cung ứng sự hiểu biết, an ủi và chấp nhận, hơn là thẳng thừng áp đặt cả một loạt qui luật chỉ khiến người ta cảm thấy bị phán xử và bỏ rơi bởi chính Người Mẹ vốn được kêu gọi biểu lộ với họ lòng thương xót của Thiên Chúa. Thay vì cung ứng sức mạnh chữa lành của ơn thánh và ánh sáng của sứ điệp Tin Mừng, một số người lại “nhồi sọ” sứ điệp này, biến nó thành “những viên đá chết dùng để ném người khác”74.

Some Challenges


50. The responses given to the two pre-synodal consultations spoke of a great variety of situations and the new challenges that they pose. In addition to those already mentioned, many of the respondents pointed to the problems families face in raising children. In many cases, parents come home exhausted, not wanting to talk, and many families no longer even share a common meal. Distractions abound, including an addiction to television. This makes it all the more difficult for parents to hand on the faith to their children. Other responses pointed to the effect of severe stress on families, who often seem more caught up with securing their future than with enjoying the present. This is a broader cultural problem, aggravated by fears about steady employment, finances and the future of children.

Một số thách đố


50. Các bản trả lời cho các cuộc tham khảo trước hai Thượng Hội Đồng đề cập tới hàng loạt hoàn cảnh đa dạng và các thách đố mới do các hoàn cảnh này đặt ra. Thêm vào các điều đã được nhắc đến, nhiều câu trả lời nhấn mạnh các vấn đề liên quan tới việc dưỡng dục con cái. Trong nhiều trường hợp, cha mẹ về nhà mệt nhoài, không muốn nói, và nhiều gia đình đến chia sẻ bữa cơm chung cũng không còn nữa. Sao lãng liên miên, trong đó có việc ghiền truyền hình. Điều này càng làm cha mẹ khó lòng truyền thụ được đức tin cho con cái. Các câu trả lời khác đề cập tới hậu quả của căng thẳng trầm trọng đối với các gia đình; họ thường phải lo lắng nhiều tới việc bảo đảm tương lai hơn là vui hưởng hiện tại. Đây là một vấn đề văn hóa rộng lớn hơn, bị làm cho trầm trọng hơn bởi nỗi sợ không có việc làm đều đặn, các vấn đề tài chánh và tương lai con cái.

51. Drug use was also mentioned as one of the scourges of our time, causing immense suffering and even breakup for many families. The same is true of alcoholism, gambling and other addictions. The family could be the place where these are prevented and overcome, but society and politics fail to see that families at risk “lose the ability to act to help their members... We see the serious effects of this breakdown in families torn apart, the young uprooted and the elderly abandoned, children who are orphans of living parents, adolescents and young adults confused and unsupported.”75 As the Bishops of Mexico have pointed out, violence within families breeds new forms of social aggression, since “family relationships can also explain the tendency to a violent personality. This is often the case with families where communication is lacking, defensive attitudes predominate, the members are not supportive of one another, family activities that encourage participation are absent, the parental relationship is frequently conflictual and violent, and relationships between parents and children are marked by hostility. Violence within the family is a breeding-ground of resentment and hatred in the most basic human relationships”.76

51. Sử dụng ma túy cũng được nhắc tới như là một trong các tai họa của thời đại ta, gây nên đau khổ mênh mông và cả việc tan nát cho nhiều gia đình. Điều này cũng đúng đối với nạn rượu chè, bài bạc và các hình thức nghiện ngập khác. Gia đình có thể là nơi những tệ nạn đó được ngăn ngừa và lướt thắng, nhưng xã hội và chính trị không nhận ra điều này: các gia đình lâm nguy “không còn khả năng hành động để trợ giúp các thành viên của họ... Chúng tôi thấy các hậu quả nghiêm trọng của sự đổ vỡ trong các gia đình bị tan nát này, người trẻ bị bứng gốc, người già bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi cha mẹ, thiếu niên và thanh niên bối rối và không được nâng đỡ”77. Như các giám mục Mễ Tây Cơ đã chỉ ra, bạo lực bên trong gia đình phát sinh ra nhiều hình thức mới cho việc gây hấn xã hội, vì “các mối liên hệ gia đình cũng có thể giải thích khuynh hướng bạo động trong nhân cách người ta. Đây thường là trường hợp các gia đình thiếu thông đạt, trong đó, các thái độ phòng ngự luôn trổi vượt, các thành viên không nâng đỡ nhau, các sinh hoạt gia đình nhằm khuyến khích sự tham gia không có, mối liên hệ của cha mẹ thường có đặc điểm tranh chấp và bạo động, và mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái có đặc điểm thù nghịch. Bạo động bên trong gia đình là mảnh đất phát sinh oán hận và thù ghét trong các mối liên hệ căn bản nhất của con người”78.

52. No one can think that the weakening of the family as that natural society founded on marriage will prove beneficial to society as a whole. The contrary is true: it poses a threat to the mature growth of individuals, the cultivation of community values and the moral progress of cities and countries. There is a failure to realize that only the exclusive and indissoluble union between a man and a woman has a plenary role to play in society as a stable commitment that bears fruit in new life. We need to acknowledge the great variety of family situations that can offer a certain stability, but de facto or same-sex unions, for example, may not simply be equated with marriage. No union that is temporary or closed to the transmission of life can ensure the future of society. But nowadays who is making an effort to strengthen marriages, to help married couples overcome their problems, to assist them in the work of raising children and, in general, to encourage the stability of the marriage bond?

52. Không ai nghĩ rằng việc suy yếu của gia đình như một xã hội tự nhiên được thiết lập trên hôn nhân lại có lợi cho xã hội như một toàn thể. Điều ngược lại mới đúng: nó đặt ra một mối đe doạ đối với việc trưởng thành của các cá nhân, việc vun sới các giá trị cộng đồng và tiến bộ luân lý của các đô thị và quốc gia. Hiện người ta không hiểu ra điều này: chỉ có sự kết hợp độc chiếm và bất khả tiêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà mới có vai trò đầy đủ để đóng trong xã hội như là một cam kết vững bền sẽ sinh hoa trái nơi sự sống mới. Ta cần nhìn nhận tính đa dạng trong các hoàn cảnh gia đình, sự đa dạng này vẫn có thể cung ứng một sự ổn định nào đó, nhưng các cuộc kết hợp de facto (trên thực tế) hay đồng tính, chẳng hạn, không thể đơn giản ngang hàng với hôn nhân. Không cuộc kết hợp tạm bợ hay không nhằm truyền sinh nào có thể bảo đảm tương lai cho xã hội. Nhưng hiện nay, ai là người cố gắng củng cố hôn nhân, giúp các cặp vợ chồng vượt qua các vấn đề của họ, trợ giúp họ trong việc dưỡng dục con cái và, nói chung, khuyến khích sự bền vững của dây hôn phối?

53. “Some societies still maintain the practice of polygamy; in other places, arranged marriages are an enduring practice... In many places, not only in the West, the practice of living together before marriage is widespread, as well as a type of cohabitation which totally excludes any intention to marry”.79 In various countries, legislation facilitates a growing variety of alternatives to marriage, with the result that marriage, with its characteristics of exclusivity, indissolubility and openness to life, comes to appear as an old-fashioned and outdated option. Many countries are witnessing a legal deconstruction of the family, tending to adopt models based almost exclusively on the autonomy of the individual will. Surely it is legitimate and right to reject older forms of the traditional family marked by authoritarianism and even violence, yet this should not lead to a disparagement of marriage itself, but rather to the rediscovery of its authentic meaning and its renewal. The strength of the family “lies in its capacity to love and to teach how to love. For all a family’s problems, it can always grow, beginning with love”.80

53. “Một số xã hội vẫn còn duy trì tập quán đa hôn; tại nhiều nơi khác, các cuộc hôn nhân sắp đặt vẫn còn được thực hành... Tại nhiều nơi, không chỉ ở Tây Phương, tập tục sống chung với nhau trước khi cưới nhau khá phổ biến, cũng như hình thức sống chung với nhau không hề có ý định kết hôn”81. Tại nhiều quốc gia, luật lệ đang làm dễ hàng loạt các hình thức càng ngày càng nhân bội nhằm thay thế cho hôn nhân, kết quả là: hôn nhân với các đặc tính độc chiếm, bất khả tiêu và chào đón sự sống của nó, bị coi như một chọn lựa cổ lỗ và lỗi thời. Nhiều quốc gia đang chứng kiến việc dùng luật pháp để tháo bỏ gia đình, hướng tới việc tiếp nhận các mẫu mực gần như hoàn toàn dựa vào sự tự lập của ý chí cá nhân. Đã đành là hợp pháp và đúng đắn khi bác bỏ các hình thức gia đình truyền thống cổ xưa có đặc điểm độc tài và thậm chí bạo động, ấy thế nhưng việc này không nên dẫn người ta tới chỗ miệt thị chính hôn nhân, mà đúng hơn, tới chỗ khám phá lại ý nghĩa chân chính của nó cũng như các canh tân của nó. Sức mạnh của gia đình “hệ ở khả năng yêu thương và truyền dạy yêu thương của nó. Bất chấp các vấn đề của nó, gia đình vẫn luôn có thể phát triển, khởi đầu với tình yêu”82.

54. In this brief overview, I would like to stress the fact that, even though significant advances have been made in the recognition of women’s rights and their participation in public life, in some countries much remains to be done to promote these rights. Unacceptable customs still need to be eliminated. I think particularly of the shameful ill-treatment to which women are sometimes subjected, domestic violence and various forms of enslavement which, rather than a show of masculine power, are craven acts of cowardice. The verbal, physical, and sexual violence that women endure in some marriages contradicts the very nature of the conjugal union. I think of the reprehensible genital mutilation of women practiced in some cultures, but also of their lack of equal access to dignified work and roles of decision-making. History is burdened by the excesses of patriarchal cultures that considered women inferior, yet in our own day, we cannot overlook the use of surrogate mothers and “the exploitation and commercialization of the female body in the current media culture”.83 There are those who believe that many of today’s problems have arisen because of feminine emancipation. This argument, however, is not valid, “it is false, untrue, a form of male chauvinism”.84 The equal dignity of men and women makes us rejoice to see old forms of discrimination disappear, and within families there is a growing reciprocity. If certain forms of feminism have arisen which we must consider inadequate, we must nonetheless see in the women’s movement the working of the Spirit for a clearer recognition of the dignity and rights of women.

54. Trong cái nhìn tổng quát vắn vỏi này, tôi muốn nhấn mạnh sự kiện này: dù nhiều tiến bộ đã thực hiện được liên quan tới việc nhìn nhận nữ quyền và việc tham dự của họ vào đời sống công cộng, ở một số quốc gia, vẫn còn nhiều việc phải làm để cổ vũ các quyền này. Các tập quán không thể nào chấp nhận được vẫn còn cần được loại trừ. Tôi đặc biệt nghĩ tới việc đối xử tàn tệ đáng xấu hổ mà các phụ nữ đôi khi vẫn phải chịu: bạo lực gia đình và nhiều hình thức nô dịch khác nhau, thay vì để chứng tỏ quyền lực nam giới, thì thực ra chỉ là những hành vi hèn nhát đê tiện. Bạo lực ngôn từ, thể lý và tính dục mà phụ nữ gánh chịu trong một số cuộc hôn nhân mâu thuẫn với chính bản chất của kết hợp vợ chồng. Tôi nghĩ tới việc đáng trách cắt bỏ cơ quan sinh dục của phụ nữ ở một số nền văn hóa, nhưng cũng nghĩ tới việc thiếu công bình trong việc có việc làm xứng đáng và các vai trò đưa ra quyết định. Lịch sử nặng chĩu các quá trớn trong các nền văn hóa có tính tổ phụ vốn coi phụ nữ là thấp kém, ấy thế nhưng, trong chính thời đại ta, ta vẫn không thể xem thường việc sử dụng các bà mẹ đẻ giùm và “việc khai thác và thương mãi hóa thân xác phụ nữ trong nền văn hóa truyền thông hiện thời”85. Có những người tin rằng nhiều vấn đề ngày nay phát sinh là do việc giải phóng phụ nữ. Tuy nhiên, luận điểm này vô giá trị, “nó sai lầm, không đúng, một hình thức bá quyền (chauvinism) nam giới”86. Phẩm giá bình đẳng của đàn ông đàn bà làm ta hân hoan thấy các hình thức kỳ thị ngày xưa biến mất, và bên trong các gia đình, tính hỗ tương mỗi ngày mỗi tăng tiến. Nếu một số hình thức của chủ nghĩa duy nữ đã phát sinh mà ta buộc phải coi là không thỏa đáng, thì trái lại, ta phải nhìn ra công trình của Thần Khí trong các phong trào phụ nữ nhằm thừa nhận rõ ràng hơn phẩm giá và quyền lợi của phụ nữ.

55. Men “play an equally decisive role in family life, particularly with regard to the protection and support of their wives and children... Many men are conscious of the importance of their role in the family and live their masculinity accordingly. The absence of a father gravely affects family life and the upbringing of children and their integration into society. This absence, which may be physical, emotional, psychological and spiritual, deprives children of a suitable father figure”.87

55. Người đàn ông “đóng một vai trò có tính quyết định ngang nhau trong đời sống gia đình, nhất là liên quan tới việc che chở và nâng đỡ vợ con... Nhiều người đàn ông ý thức được sự quan trọng của vai trò họ trong gia đình và sống nam tính của họ theo đó. Việc vắng bóng người cha ảnh hưởng trầm trọng tới cuộc sống gia đình và việc dưỡng dục con cái cũng như việc hội nhập chúng vào xã hội. Việc vắng bóng có thể là thể lý, xúc cảm, tâm lý và tâm linh này lấy mất khỏi đứa con khuôn mặt người cha thích đáng”88.

56. Yet another challenge is posed by the various forms of an ideology of gender that “denies the difference and reciprocity in nature of a man and a woman and envisages a society without sexual differences, thereby eliminating the anthropological basis of the family. This ideology leads to educational programmes and legislative enactments that promote a personal identity and emotional intimacy radically separated from the biological difference between male and female. Consequently, human identity becomes the choice of the individual, one which can also change over time”.89 It is a source of concern that some ideologies of this sort, which seek to respond to what are at times understandable aspirations, manage to assert themselves as absolute and unquestionable, even dictating how children should be raised. It needs to be emphasized that “biological sex and the socio-cultural role of sex (gender) can be distinguished but not separated”.90 On the other hand, “the technological revolution in the field of human procreation has introduced the ability to manipulate the reproductive act, making it independent of the sexual relationship between a man and a woman. In this way, human life and parenthood have become modular and separable realities, subject mainly to the wishes of individuals or couples”.91 It is one thing to be understanding of human weakness and the complexities of life, and another to accept ideologies that attempt to sunder what are inseparable aspects of reality. Let us not fall into the sin of trying to replace the Creator. We are creatures, and not omnipotent. Creation is prior to us and must be received as a gift. At the same time, we are called to protect our humanity, and this means, in the first place, accepting it and respecting it as it was created.

56. Ấy thế nhưng, một thách đố khác nữa đã được đặt ra do nhiều hình thức khác nhau của ý thức hệ phái tính nhằm “bác bỏ sự dị biệt và hỗ tương trong bản chất người đàn ông và người đàn bà và vạch ra một xã hội không có dị biệt giới tính, do đó, loại bỏ căn bản nhân học của gia đình. Ý thức hệ này dẫn tới nhiều chương trình giáo dục và đạo luật nhằm cổ vũ một bản sắc bản thân và một sự thân mật xúc cảm hoàn toàn tách biệt với sự dị biệt sinh học giữa nam và nữ. Hậu quả là: bản sắc con người trở thành sự chọn lựa của cá nhân, một sự chọn lựa cũng có thể thay đổi với thời gian”92. Quả là một nguồn gây lo ngại khi một số ý thức hệ thuộc loại này, trong lúc tìm cách đáp ứng các khát vọng đôi khi có thể hiểu được, đã dám tự coi mình là tuyệt đối và không thể bị tra hỏi, thậm chí còn ra lệnh phải dưỡng dục các trẻ em ra sao. Cần phải nhấn mạnh rằng “người ta có thể phân biệt nhưng không được tách biệt giữa giới tính sinh học và vai trò văn hóa xã hội của giới tính (phái tính)”93. Đàng khác, “cuộc cách mạng kỹ thuật trong lãnh vực sinh sản nhân bản đã đem lại khả năng thao túng được hành vi sinh sản, làm nó thành độc lập đối với mối liên hệ tính dục giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Qua cách này, sự sống nhân bản và việc làm cha mẹ đã trở thành các thực tại tháo rời (modular) và tách biệt được, chủ yếu tùy thuộc ý muốn của các cá nhân hay các cặp vợ chồng”94. Thông cảm sự yếu đuối của con người và các phức tạp của sự sống là một chuyện, và chấp nhận các ý thức hệ mưu toan tách biệt những điều vốn là các khía cạnh không thể tách biệt của thực tại lại là một chuyện khác. Ta đừng sa vào tội muốn thay thế Đấng Tạo Hóa. Chúng ta là tạo vật, chứ không toàn năng. Tạo thế có trước chúng ta và phải được tiếp nhận như một ân ban. Đồng thời, ta được kêu gọi bảo vệ nhân tính của ta, và điều này trước nhất có nghĩa: chấp nhận nó và tôn trọng nó như nó đã được tạo dựng.

57. I thank God that many families, which are far from considering themselves perfect, live in love, fulfil their calling and keep moving forward, even if they fall many times along the way. The Synod’s reflections show us that there is no stereo- type of the ideal family, but rather a challenging mosaic made up of many different realities, with all their joys, hopes and problems. The situations that concern us are challenges. We should not be trapped into wasting our energy in doleful laments, but rather seek new forms of missionary creativity. In every situation that presents itself, “the Church is conscious of the need to offer a word of truth and hope... The great values of marriage and the Christian family correspond to a yearning that is part and parcel of human existence”.95 If we see any number of problems, these should be, as the Bishops of Colombia have said, a summons to “revive our hope and to make it the source of prophetic visions, transformative actions and creative forms of charity”.96

57. Tôi tạ ơn Thiên Chúa vì nhiều gia đình, dù không hề tự coi mình hoàn hảo, vẫn đã sống trong yêu thương, chu toàn ơn gọi của họ và nhất quyết tiến về phía trước, bất kể sai phạm nhiều lần dọc hành trình này. Các suy nghĩ của Thượng Hội Đồng cho ta thấy: không hề có tiên mẫu (stereotype) gia đình lý tưởng, mà đúng hơn là bức tranh ghép đầy thách thức gồm rất nhiều thực tại khác nhau, với đủ niềm vui, hy vọng lẫn nan đề. Các hoàn cảnh được chúng ta quan tâm thẩy đều là thách đố. Chúng ta đừng để mình bị vây cứng vào vòng phí phạm năng lực cho những than vãn ai oán, mà đúng hơn, nên tìm những hình thức truyền giáo sáng tạo mới mẻ. Trong mọi hoàn cảnh tự chúng xuất hiện, “Giáo Hội đều ý thức được việc cần phải đem lại lời sự thật và hy vọng... Các giá trị lớn lao của hôn nhân và gia đình Kitô Giáo đều tương hợp với khát vọng vốn là thành phần trong hiện sinh con người”97. Nếu ta thấy bất cứ số lượng vấn đề nào, thì, như các giám mục Colombia từng nói, các vấn đề này nên là những lời mời ta “làm sống lại niềm hy vọng của mình và biến nó thành nguồn viễn kiến tiên tri, nguồn hành động biến đổi và hình thức sáng tạo bác ái”98.



tải về 1.45 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương