PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri



tải về 3.72 Mb.
trang41/48
Chuyển đổi dữ liệu09.07.2016
Kích3.72 Mb.
#1608
1   ...   37   38   39   40   41   42   43   44   ...   48

Trả lời (Tại Công văn số 101/BXD-KTTC ngày 18/01/2008):

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002 - 2010 tại Quyết định số 253/QĐ-TTg ngày 05/3/2003, Tập thiết kế điển hình Trụ sở Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân cấp xã Tây Nguyên đã được ban hành kèm theo Quyết định số 1890/QĐ-BXD ngày 06/10/2005 của Bộ Xây dựng. Các mẫu thiết kế này phù hợp với Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và Quyết định số 32/2004/QĐ-BTC ngày 06/4/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc của cơ quan Nhà nước tại xã, phường, thị trấn. Bên cạnh đó, các mẫu thiết kế này trước khi ban hành cũng đã được đưa ra lấy ý kiến tại Hội nghị triển khai thực hiện Quyết định số 253/QĐ-TTg, tổ chức ở tỉnh Kon Tum từ ngày 23 đến 24/6/2003, trong đó có các Chủ tịch, Bí thư tỉnh, các sở ban ngành, huyện thuộc vùng Tây Nguyên tham dự.

Thực hiện Quyết định số 169/2003/QĐ-TTg ngày 12/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới phương thức điều hành và hiện đại hoá công sở của hệ thống hành chính Nhà nước giai đoạn I (2003-2005), Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 2l/2007/QĐ-BXD ngày 28/5/2007 ban hành quy định các yêu cầu về tiêu chuẩn xây dựng công sở các cơ quan hành chính Nhà nước, trong đó Bộ Xây dựng sẽ tổ chức nghiên cứu biên soạn tiêu chuẩn xây dựng công sở các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp.

Theo ý kiến của cử tri việc “bố trí, sắp xếp thì từ 2 đến 3 đoàn thể chung một phòng làm việc rất khó khăn”, Bộ Xây dựng sẽ nghiên cứu xem xét để điều chỉnh thiết kế mẫu cho hợp lý hơn. Tuy nhiên, các địa phương cũng cần căn cứ theo số biên chế được duyệt để sắp xếp chỗ làm việc cho phù hợp tình hình thực tế tại địa phương mình.



4/ Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: “Theo thoả thuận của Bộ Xây dựng, Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai đã ban hành quyết định phê duyệt quy hoạch chung xây dựng dọc tuyến đường Hồ Chí Minh qua tỉnh Gia Lai; trong đó kích thước từ tim đường đến chỉ giới đường đỏ là 16m, từ chỉ giới đường đỏ đến mốc lộ giới mỗi bên là 50m (tính cả 2 bên là 132m). Thực hiện theo quy hoạch này thì diện tích đất ở, đất sản xuất và nhà ở của nhân dân bị giải toả rất lớn, trong khi đó đất để bố trí tái định cư và đất sản xuất ở địa phương rất khó khăn, ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Cử tri đề nghị Bộ cho phép Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng dọc tuyến đường Hồ Chí Minh qua thị trấn Phú Hoà (huyện Chư Păh) và thị trấn Chư Sê (huyện Chư Sê) theo hướng giảm khoảng cách từ chỉ giới đường đò đến mốc lộ giới còn 10m (thay vì 50m như trong quy hoạch) để giảm bớt thiệt hại cho nhân dân khi giải phóng mặt bằng và tạo thuận lợi cho nhân dân ổn định sản xuất, đời sống”.

Trả lời (Tại Công văn số 119/BXD-KTTC ngày 18/01/2008):

Theo Quyết định số 242/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/2/2007 về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể đường Hồ Chí Minh về cơ bản được thiết kế theo tiêu chuẩn đường ô tô cao tốc và tiêu chuẩn đường ô tô thông thường. Riêng đến các đoạn qua thị trấn, thị tứ, thị xã và thành phố được thiết kế phù hợp với quy hoạch địa phương được duyệt.

Theo quy hoạch xây dựng tuyến đường Hồ Chí Minh (Bắc-Nam) giai đoạn I, đoạn qua tỉnh Gia Lai, về cơ bản hướng tuyến đường đi theo Quốc lộ 14. Tuy nhiên, khi đi qua các đô thị trong tỉnh như: thành phố Pleiku, các thị trấn Phú Hoà, Chư Sê... các đoạn tuyến này sẽ được nắn đi ra ngoài thị trấn, tuỳ theo quy hoạch chung xây dựng của từng đô thị. Do vậy, trục đường Quốc lộ 14 hiện hữu sẽ là trục giao thông chính của đô thị, hành lang an toàn của đường được tuân thủ theo Quyết định số 22/2007/QĐ-BXD ngày 30/5/2007 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc ban hành Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam 104:2007 “Đường đô thị - Yêu cầu thiết kế”. Cụ thể là: Thị trấn Phú Hoà (huyện Chư Păh) và thị trấn Chư Sê (huyện Chư Sê) là đô thị loại 5 có đường Hồ Chí Minh đi qua. Theo Quyết định số 60/2003/QĐ-UB ngày 27/5/2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai về việc phê duyệt quy hoạch chung xây dựng dọc tuyến đường Hồ Chí Minh qua tỉnh Gia Lai, thì giai đoạn trước mắt tuyến đường Hồ Chí Minh vẫn đi trên Quốc lộ 14; giai đoạn sau đoạn đi qua các thị trấn này trong quy hoạch sẽ bố trí các hướng tránh để đường Hồ Chí Minh không đi trong đô thị (đối với thị trấn Chư Sê hướng tránh về phía Đông đối với thị trấn Phú Hoà hướng tránh về phía Tây).

Cũng tại Quyết định này mặt cắt điển hình đối với Quốc lộ 14 khi qua đô thị (trong đó có thị trấn Phú Hoà và thị trấn Chư Sê), có chiều rộng là 32m (trong đó hè đường mỗi bên 4m; lòng đường 2 phía - mỗi phía 11,25m và dải cách ly giữa 2 lòng đường là 1,5m).

Ngày 25/7/2006, Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai đã có Quyết định số 52/2006/QĐ-UB phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thị trấn Chư Sê (huyện Chư Sê), trong đó quy hoạch giao thông đô thị vẫn giữ nguyên kích thước như: Mặt cắt ngang cụ thể, chỉ giới đường đỏ, chỉ giới xây dựng của các tuyến đường trong đô thị kể cả tuyến đường chính là Quốc lộ 14 - đường Hồ Chí Minh (theo Quyết định số 60/2003/QĐ-UB).

Việc điều chỉnh và phê duyệt quy hoạch chung xây dựng đối với thị trấn Phú Hoà (huyện Chư Păh) và thị trấn Chư Sê (huyện Chư Sê) thuộc thẩm quyền Uỷ ban nhân dân tỉnh. Vì vậy, đề nghị cử trị tham khảo các quy hoạch đó tại địa phương.



5/ Cử tri tỉnh Hải Phòng và tỉnh Đồng Nai kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ xem xét ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp theo Luật Nhà ở”.

Trả lời (Tại Công văn số 128/BXD-KTTC ngày 21/01/2008):

Trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia phát triển nhà ở xã hội, trong đó có nhà ở cho công nhân làm việc trong các khu công nghiệp tập trung. Những chính sách ưu đãi này được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành. Ngày 07/8/2007, Bộ Xây dựng đã có văn bản số 1694/BXD-QLN về các quy định của pháp luật hiện hành về chính sách ưu đãi khi đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, trong đó tập hợp các chính sách ưu đãi để các địa phương công khai cho các chủ đầu tư và doanh nghiệp biết và thực hiện, cụ thể là:



1. Chính sách ưu đãi về đầu tư

Lĩnh vực đầu tư xây dựng nhà chung cư cho công nhân làm việc tại các khu công nghiệp thuộc danh mục các lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư theo quy định tại Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.

Theo quy định tại Điều 52 của Luật Nhà ở thì vốn đầu tư xây dựng quỹ nhà ở xã hội được hình thành từ các nguồn sau đây: tiền thu từ việc bán, cho thuê và cho thuê mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước; trích từ 30% đến 50% tiền sử dụng đất của các dự án phát triển nhà ở trên địa bàn; ngân sách Nhà nước đầu tư; tiền hỗ trợ, tiền đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; tiền huy động từ các nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

2. Chính sách ưu đãi về đất đai

Theo quy định tại Điều 31 của Luật Nhà ở thì quy hoạch xây dựng đô thị, điểm dân cư nông thôn và các dự án xây dựng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, trường học ở miền núi phải xác định nhu cầu về nhà ở, đất để xây dựng nhà ở và hệ thống hạ tầng phục vụ nhu cầu ở.

Theo quy định tại Điều 33 của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP thì căn cứ quy hoạch tổng lực phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập kế hoạch đầu tư và tổ chức xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cân đối nguồn ngân sách địa phương để hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế.

Theo quy định của Chính phủ tại Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về thu tiền sử dụng đất và Nghị định số 14/02/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước, thì Nhà nước miễn tiền sử dụng đất, miễn tiền thuê đất đối với dự án sử dụng đất xây dựng nhà chung cư cho công nhân của các khu công nghiệp.

Theo quy định tại Điều 20 của Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở thì các dự án nhà ở thương mại và các khu đô thị mới có quy mô sử dụng đất từ 10 ha trở lên phải dành một phần diện tích đất đã đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật để phát triển nhà ở xã hội nhưng trong mọi trường hợp không vượt quá 20% diện tích đất ở dự án.

3. Chính sách ưu đãi về thuế

Theo quy định tại Điều 34 của Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/02/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân khu công nghiệp được áp dụng mức thuế suất 10% áp dụng trong thời gian 15 năm; được miễn thuế 04 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 09 năm tiếp theo kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động kinh doanh.

Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khi xây dựng nhà ở cho người lao động làm trong doanh nghiệp thuê để ở thì được trích khấu hao vốn đầu tư nhà ở vào chi phí sản xuất hợp lý theo quy định tại Thông tư số 134/2007/TT-BTC ngày 23/11/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 24/2007/NĐ-CP./.

6/ Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: “Đề nghị Bộ xem xét, nghiên cứu thiết kế mái nhà chống bão, gió tốc để hạn chế thấp nhất những thiệt hại xảy ra đối với các vùng thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai”.

Trả lời (Tại Công văn số 135/BXD-KHCN ngày 22/01/2008):

Bộ Xây dựng đã thực hiện các nghiên cứu và biên soạn các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật phòng chống bão cho công trình, đặc biệt cho nhà ở của nhân dân. Nội dung các tài liệu bao gồm cả hướng dẫn nhân dân xây nhà mới và gia cố nhà cũ khi có bão, lũ xảy ra. Tài liệu và hướng dẫn kỹ thuật phòng chống bão đã được phổ biến rộng rãi trên Đài truyền hình Việt Nam VTV1 và VTV2.

Hàng năm, Bộ Xây dựng cũng thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn cho các địa phương về kỹ thuật phòng chống bão, lũ. Năm 2007, Bộ đã tổ chức 03 lớp tập huấn tại ba miền Bắc, Trung và Nam bộ:

- Tại thành phố Vũng Tàu vào ngày 10/8/2007.

- Tại thành phố Huế vào ngày 14/8/2007.

- Tại thành phố Hải Phòng vào ngày 24/8/2007.

Trong các đợt tập huấn này Bộ Xây dựng đã cung cấp tài liệu và đĩa CD hướng dẫn kỹ thuật phòng chống bão cho nhà ở của nhân dân. Khi tham gia đoàn công tác của Chính phủ đi kiểm tra tình hình triển khai công tác phòng chống bão, lũ ở các tỉnh Miền Trung và Nam Bộ từ ngày 06 đến 09/11/2007, Bộ Xây dựng cũng đã cung cấp các tài liệu nêu trên cho các địa phương để phổ biến cho nhân dân trên đài truyền hình địa phương. Bộ Xây dựng xin gửi Đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Tây Ninh một bộ tài liệu và đĩa CD hướng dẫn kỹ thuật phòng chống bão cho nhà ở của người dân để phổ biến ở địa phương./.

7/ Cử tri thành phố Hà Nội và thành phố Hải Phòng kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ cần sớm ra văn bản hướng dẫn về xây dựng các quỹ nhà ở xã hội cho những đối tượng xã hội, đối tượng chính sách, thương binh liệt sỹ gặp nhiều khó khăn về nhà ở. Đề nghị cho kiểm tra, đánh giá việc xây dựng nhà ở cho người nghèo, cho sinh viên và thông báo cho cử tri ”.

Trả lời (Tại Công văn số 144/BXD-QLN ngày 23/01/2008):

1. Về chính sách xây dựng quỹ nhà ở xã hội

Việc đầu tư xây dựng quỹ nhà ở xã hội đã được đề cập trong Luật Nhà ở được Quốc hội khoá XI thông qua năm 2005. Để hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở, Bộ Xây dựng đã chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở. Ngày 01/11/2006, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 05/2006/TT-BXD hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở trong đó đã hướng dẫn cụ thể về quy trình đầu tư xây dựng và quản lý quỹ nhà ở xã hội từ việc lập quy hoạch, lập dự án, thẩm định và phê duyệt dự án, xác định nguồn vốn, quy định đối tượng và điều kiện được thuê và thuê mua, giá cho thuê và thuê mua nhà ở xã hội.

Đối với chính sách về nhà ở cho các đối tượng thương binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 118/QĐ-TTg ngày 27/02/1996 về hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở, Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 về hỗ trợ người hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cải thiện nhà ở. Bộ Xây dựng đã soạn thảo trình và được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 117/2007/QĐ-TTg ngày 25/7/2007 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quyết định số 118/QĐ-TTg ngày 27/02/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở và Điều 3 Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ người hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cải thiện nhà ở, trong đó bổ sung đối tượng và hình thức hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công với cách mạng.

Như vậy, việc đầu tư xây dựng các quỹ nhà ở xã hội cho những đối tượng xã hội, đối tượng chính sách thương binh liệt sỹ đã có đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, trên thực tế công tác triển khai đầu tư xây dựng quỹ nhà ở xã hội còn chậm.

Nhằm đẩy mạnh phát triển quỹ nhà ở xã hội, ngày 26/7/2005, Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ Đề án phát triển nhà ở xã hội. Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản số 537/TTg-CN ngày 06/4/2O06 và giao Bộ Xây dựng triển khai thực hiện thí điểm tại 03 địa phương là thành phố Hà Nội, tỉnh Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh để qua đó rút kinh nghiệm và triển khai nhân rộng trên phạm vi cả nước. Bộ Xây dựng đã có các văn bản hướng dẫn 03 địa phương trên xây dựng đề án thí điểm đầu tư xây dựng nhà ở xã hội trên địa bàn.

Đến nay, Bộ Xây dựng đã thẩm định Đề án phát triển nhà ở xã hội của thành phố Hà Nội, tỉnh Bình Dương giai đoạn 2007-2010 và trình Thủ tướng Chính phủ. Bộ Xây dựng đang tiếp tục đôn đốc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh khẩn trương hoàn thiện Đề án phát triển nhà ở xã hội của thành phố Hồ Chí Minh.



2. Về kiến nghị cho kiểm tra, đánh giá việc xây dựng nhà ở cho người nghèo, sinh viên

Bộ Xây dựng với chức năng quản lý Nhà nước đã thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách cũng như việc đầu tư xây dựng nhà ở cho các đối tượng có thu nhập thấp, trong đó có sinh viên tại các địa phương. Đến nay, cả nước đã hỗ trợ xây dựng trên 264.000 căn nhà cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; có trên 110.000 hộ vùng thường xuyên ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long được mua trả chậm nền nhà và nhà ở; hỗ trợ trên 523.000 căn nhà và sửa chữa trên 140.000 căn nhà cho người nghèo từ quỹ vì người nghèo.

Ngày 05/02/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010. Theo đó , từ năm 2006 - 2010 cả nước cần hỗ trợ nhà ở cho khoảng 500.000 hộ nghèo có khó khăn về nhà ở. Ngoài ra, Nhà nước còn có các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo như Chương trình 134, Chương trình xây dựng nhà tình nghĩa, Phong trào xoá nhà tranh tre, tạm bợ...

Trong thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp với các Bộ, ngành tiếp tục kiểm tra, đôn đốc các địa phương đẩy mạnh việc xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho các đối tượng có thu nhập thấp, đối tượng chính sách theo đúng quy định của pháp luật nhà ở.



8/ Cử tri tỉnh Thanh Hoá kiến nghị:

1. Có chính sách bù giá phù hợp với tình hình biến động của thị trường, tạo điều kiện cho các nhà thầu thực hiện hợp đồng với chủ đầu tư. Vì hiện nay, nếu hợp đồng có điều chỉnh về giá thì cũng phải đến tháng thứ 13 trở đi mới được điều chỉnh. Trong khi các loại vật tư, vật liệu thay đổi nhanh chóng. Mặt khác, chế độ chính sách về định mức đơn giá xây dựng cơ bản của Nhà nước thời gian qua có nhiều thay đổi, việc hướng dẫn của các cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương còn chậm. Do đó rất khó khăn cho các nhà thầu thực hiện hợp đồng đảm bảo chất lượng và tiến độ thi công.



2. Đề nghị Bộ Xây dựng xem xét điều chỉnh Thông tư số 02/2007/TT-BXD ngày 14/02/2007 (về hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng, giấy phép xây dựng và tổ chức các Ban quản lý dự án) đảm bảo không mâu thuẫn với các văn bản khác và phù hợp với thực tế, để các địa phương, đơn vị dễ triển khai thực hiện”.

Trả lời (Tại Công văn số 153/BXD-KTTC ngày 24/01/2008):

1. Về việc bù giá nguyên vật liệu trong thi công xây dựng:

Thời gian vừa qua việc xử lý bù giá chậm, không kịp thời gây khó khăn cho nhà thầu thực tế đã xảy ra ở nhiều nơi, do nhiều nguyên nhân:

- Về chính sách: Trong xây dựng cơ bản lâu nay vẫn có chính sách bù giá khi có sự biến động của giá vật liệu, tiền lương. Nhưng việc hướng dẫn không kịp thời. Các căn cứ tính bù giá tại thời điểm phát sinh, thanh toán gần như không đủ cho tính toán.

- Có trường hợp giá xây dựng là giá tổng hợp, việc điều chỉnh giá tính cho từng loại vật tư (hay tiền lương) nên phải có thời gian tính toán lại.

- Đối với công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước còn phải trình các cơ quan quản lý phê duyệt mới được thanh toán.

Đến nay, theo quy định tại Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ về Quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình, thì quyền bù giá đã giao cho chủ đầu tư chủ động xem xét xử lý (trừ trường hợp vượt tổng mức đầu tư) và thanh toán theo hợp đồng (không còn quy định phải đến tháng thứ 13 trở đi mới được điều chỉnh giá). Tuy nhiên, các chủ đầu tư của dự án sử dụng vốn Nhà nước thường hay ỷ lại cơ quan quản lý cấp trên, các nhà thầu không nắm rõ pháp luật, hợp đồng giao nhận thầu không ghi đầy đủ các điều kiện liên quan đến thanh toán điều chỉnh; khi xảy ra sự biến động về giá cả mới có ý kiến. Do đó việc xử lý vẫn còn bị chậm. Đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa giám sát việc thực hiện các quy định của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP đối với chủ đầu tư.



2. Về việc xem xét điều chỉnh Thông tư số 02/2007/TT-BXD:

Thông tư số 02/2007/TT-BXD ngày 14/02/2007 của Bộ Xây dựng là nhằm hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình và tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình theo quy định của Chính phủ tại Nghị định số l6/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 và Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. Theo đó, nội dung của Thông tư số 02/2007/TT-BXD có những nội dung chính như sau:

Phần 1: Hướng dẫn về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình trong đó xác định rõ:

- Chủ đầu tư đối với vốn ngân sách Nhà nước;

Trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc lập dự án; thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình; trình tự, thủ tục thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình.

Phần 2: Hướng dẫn về cấp phép xây dựng:

Trong Thông tư chỉ xác định rõ, cụ thể hơn về việc xin cấp phép xây dựng công trình; hồ sơ xin cấp phép; nội dung giấy phép; thẩm quyền cấp phép và điều chỉnh giấy phép xây dựng .

Phần 3: Hướng dẫn về tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình: Trong đó, nói rõ Ban quản lý dự án là do chủ đầu tư thành lập ra để giúp chủ đầu tư quản lý dự án. Ban quan lý dự án không là chủ đầu tư. Bộ Xây dựng cũng đã có Công văn số 1394/BXD-PC ngày 28/6/2007 hướng dẫn cụ thể hơn cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty Nhà nước trong việc tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. (Gửi kèm theo Công văn số l394/BXD-PC ngày 28/6/2007 của Bộ xây dựng).

Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hoá trong khi thực hiện chức năng giám sát, nếu phát hiện thấy trong văn bản hướng dẫn thực hiện Luật và Nghị định của Bộ Xây dựng có vướng mắc, bất cập hoặc mâu thuẫn với các quy định khác của pháp luật, thì phản ánh bằng văn bản về Bộ Xây dựng để được nghiên cứu, giải quyết.

Nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ công tác giữa các cử tri và Đại biểu Quốc hội cả nước với Ngành Xây dựng, Bộ đã có Công văn số 15/BXD-VP ngày 03/01/2008, trong đó nêu rõ các địa chỉ tiếp nhận (Hộp thư điện tử, Website, điện thoại, fax...), để thuận tiện cho các Đoàn đại biểu Quốc hội và cử tri các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thể thường xuyên gửi các ý kiến, kiến nghị của mình về Bộ Xây dựng không chỉ trong thời gian diễn ra các kỳ họp Quốc hội.



Tại Công văn số 1394/BXD-PC ngày 28 tháng 06 năm 2008 của Bộ Xây dựng về việc hướng dẫn về tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và giải thích rõ hơn về các nội dung xử lý chuyển tiếp về tổ chức quản lý dự án tại mục III phần IV của Thông tư số 02/2007/TT-BXD.

1. Về việc khắc phục một số tồn tại trong việc giao chủ đầu tư và giao nhiệm vụ cho Ban quản lý dự án: Những năm vừa qua, một số Bộ, ngành, địa phương chưa thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong việc giao chủ đầu tư, giao nhiệm vụ và quyền hạn cho Ban quản lý dự án.

Một số trường hợp, các bộ, ngành, địa phương với tư cách là cấp quyết định đầu tư đã giao cho Ban quản lý dự án làm chủ đầu tư là chưa thực hiện đúng các quy định của Luật Xây dựng và các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ.

Một số trường hợp, các bộ, ngành, địa phương với tư cách là chủ đầu tư nhưng đã giao lại cho Ban quản lý dự án làm đại diện chủ đầu tư (có tính chất như khoán trắng), việc giao nhiệm vụ và quyền hạn cho Ban quản lý dự án chưa hợp lý, giao nhiệm vụ thì nhiều nhưng giao quyền hạn lại ít nên vẫn còn nhiều thủ tục hành chính qua lại giữa chủ đầu tư và Ban quản lý dự án. Trách nhiệm giữa chủ đầu tư và Ban quản lý dự án không được phân định rõ ràng. Chủ đầu tư không kiểm soát được quá trình quản lý thực hiện dự án...

Đối với các trường hợp nêu trên, đề nghị các Bộ, ngành, địa phương rà soát, chấn chỉnh lại theo đúng các quy định của pháp luật và bảo đảm các yêu cầu sau:

Việc giao chủ đầu tư phải được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP, Nghị định số 112/2006/NĐ-CP của Chính phủ và hướng dẫn tại thông tư số 02/2007/TT-BXD của Bộ Xây dựng; không giao cho Ban quản lý dự án làm chủ đầu tư. Đối với trường hợp cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư cũng chính là đơn vị quản lý, sử dụng công trình, nhất là ở cấp xã, thì người quyết định đầu tư có thể đồng thời là chủ đầu tư.

- Việc chủ đầu tư giao nhiệm vụ, quyền hạn cho Ban quản lý dự án phải bảo đảm các nguyên tắc: Phân định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án; phân cấp mạnh cho Ban quản lý dự án theo tinh thần nhiệm vụ phải đi đôi với quyền hạn để giảm tối đa các thủ tục hành chính giữa chủ đầu tư và Ban quản lý dự án; đồng thời vẫn bảo đảm nguyên tắc Chủ đầu tư phải kiểm soát được và chịu trách nhiệm về quá trình quản lý thực hiện dự án.

Ban quản lý dự án là đơn vị trực thuộc chủ đầu tư. Chủ đầu tư giao nhiệm vụ, quyền hạn cho Ban quản lý dự án phù hợp với điều kiện thực tế của chủ đầu tư, yêu cầu của dự án và các nguyên tắc nêu trên, trừ một số nhiệm vụ, quyền hạn chủ đầu tư phải trực tiếp thực hiện như: Phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán; quyết định, phê duyệt điều chỉnh thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán; kiểm tra, chấp thuận một số hợp đồng quan trọng trước khi giao cho Ban quản lý dự án ký kết; tổ chức nghiệm thu hoàn thành công trình xây dựng để đưa vào sử dụng. Trường hợp đặc biệt, cần thiết phải uỷ quyền cho Ban quản lý dự án thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên thì chủ đầu tư phải báo cáo người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét, quyết định.

Chủ đầu tư có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc Ban quản lý dự án thực hiện nhiệm vụ, đồng thời phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ của Ban quản lý dự án.

2. Về chuyển đổi, tổ chức lại các Ban quản lý dự án khu vực, Ban quản lý dự án chuyên ngành: Các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp căn cứ tình hình thực tế về số lượng các dự án đầu tư xây dựng công trình do mình đang làm chủ đầu tư và chương trình, kế hoạch triển khai các dự án đầu tư xây dựng công trình của các năm sau để quyết định việc chuyển đổi hoặc tổ chức lại các Ban quản lý dự án chuyên ngành, Ban quản lý dự án khu vực (do mình lập ra và trực tiếp quản lý) cho phù hợp với điều kiện thực tế, các quy định của pháp luật và bảo đảm các yêu cầu nêu tại mục 1 của văn bản này. Việc xử lý có thể theo một trong các phương án sau đây:

a) Trường hợp các bộ, ngành, địa phương có số lượng dự án ít dẫn đến tình trạng có Ban quản lý dự án thiếu việc hoặc hết việc thì cần nghiên cứu sắp xếp, tổ chức lại các Ban quản lý dự án cho phù hợp với yêu cầu thực tế; chỉ giữ lại các Ban quản lý dự án đang quản lý các dự án dở dang hoặc các dự án đã được quyết định đầu tư trong trường hợp áp dụng mô hình “Chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án”; không để tình trạng các Ban quản lý dự án thực hiện theo hướng chuyển thành doanh nghiệp tư vấn quản lý dự án chuyên nghiệp, giúp chủ đầu tư thực hiện quản lý dự án thông qua hợp đồng ký với từng chủ đầu tư. Căn cứ điều kiện thực tế các Bộ, ngành địa phương chỉ đạo thành lập các doanh nghiệp tư vấn quản lý dự án trên cơ sở chuyển đổi từ một Ban quản lý dự án hoặc ghép nhiều Ban quản lý dự án, bảo đảm điều kiện năng lực để quản lý các dự án theo quy định.

Đối với các Ban quản lý dự án không thể sắp xếp, chuyển đổi theo các phương án nêu trên thì bộ, ngành, địa phương ra quyết định giải thể và có trách nhiệm giải quyết dứt điểm các tồn tại của các dự án cũ và quyền lợi của cán bộ nhân viên của Ban quản lý dự án.

b) Trường hợp các bộ, ngành, địa phương có số lượng dự án nhiều, bảo đảm công việc liên tục cho các Ban quản lý dự án thì vẫn giữ lại các Ban quản lý dự án để quản lý các dự án theo mô hình “Chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án” nhưng phải bảo đảm các yêu cầu nêu tại mục 1 của văn bản này. Một Ban quản lý dự án của chủ đầu tư có thể được giao quản lý nhiều dự án nhưng phải được người quyết định đầu tư chấp thuận và phải bảo đảm nguyên tắc: Từng dự án phí được quản lý, theo dõi, ghi chép riêng và quyết toán kịp thời sau khi kết thúc dự án theo đúng quy định. Trường hợp cần thiết chủ đầu tư có thể báo cáo người quyết định đầu tư cho phép thành lập Ban quản lý dự án mới để quản lý đối với các dự án có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp.

Trường hợp các Ban quản lý dự án có nguyện vọng được chuyển đổi thành tổ chức tư vấn nhằm khai thác, phát huy hết năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm sẵn có của Ban quản lý dự án thì bộ, ngành, địa phương quyết định và tạo điều kiện để các Ban quản lý dự án chuyển đổi thành tổ chức tư vấn quản lý dự án chuyên nghiệp, tuy nhiên phải bảo đảm không làm gián đoạn quá trình quản lý thực hiện các dự án.

3. Đối với những dự án quy mô nhỏ, đơn giản mà chủ đầu tư có điều kiện về nhân lực và chuyên môn thì chủ đầu tư có thể không thành lập Ban quản lý dự án mà sử dụng các đơn vị chuyên môn của mình để kiêm nhiệm việc quản lý dự án; trường hợp cần thiết có thể thuê người có chuyên môn, kinh nghiệm để giúp quản lý dự án. Trường hợp chủ đầu tư đồng thời triển khai thực hiện nhiều dự án có quy mô nhỏ như trên thì chủ đầu tư có thể thành lập Ban quản lý dự án để quản lý đồng thời nhiều dự án nhưng phải bảo đảm yêu cầu từng dự án phải được theo dõi, ghi chép riêng và quyết toán kịp thời .

4. Ban quản lý dự án của chủ đầu tư có thể thuê tổ chức, cá nhân tư vấn đi tham gia quản lý, giám sát một số phần việc khi không có đủ điều kiện, năng lực chuyên môn để tự thực hiện, nhưng phải được chủ đầu tư chấp thuận. Nhà thầu tư vấn quản lý dự án được thực tổ chức, cá nhân tư vấn tham gia một số phần việc quản lý dự án, nhưng phải được chủ đầu tư chấp thuận và phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn trong hợp đồng đã ký với Chủ đầu tư.

5. Trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình: Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về những công việc thuộc nhiệm vụ quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật, kể cả những công việc đã giao cho Ban quản lý dự án hoặc thuê nhà thầu tư vấn quản lý dự án thực hiện.

Trường hợp áp dụng hình thức chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án thì chủ đầu tư phải phân công ít nhất một cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị phụ trách việc quản lý thực hiện dự án và giao nhiệm vụ cho các đơn vị chuyên môn thuộc bộ máy của cơ quan, đơn vị mình để tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chủ đầu tư và theo dõi, kiểm tra, đôn đốc Ban quản lý dự án thực hiện đúng các nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Trường hợp áp dụng hình thức thuê tư vấn quản lý dự án thì chủ đầu tư cũng phải phân công ít nhất một cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị phụ trách việc quản lý thực hiện dự án và giao nhiệm vụ cho các đơn vị chuyên môn thuộc bộ máy của cơ quan, đơn vị mình để tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chủ đầu tư và kiểm tra, theo dõi việc thực hiện hợp đồng của tư vấn quản lý dự án nhằm bảo đảm dự án được thực hiện đúng nội dung, tiến độ, chất lượng và hiệu quả.

6. Về yêu cầu năng lực của Ban quản lý dự án: Cơ cấu tổ chức của Ban quản lý dự án gồm có giám đốc, các phó giám đốc và các đơn vị chuyên môn, nghiệp vụ. Những người tham gia Ban quản lý dự án làm việc theo chế độ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Giám đốc, các phó giám đốc và những người phụ trách về kỹ thuật, kinh tế, tài chính phải có trình độ đại học thuộc chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực phụ trách và có kinh nghiệm làm việc chuyên môn tối thiểu 3 năm. Riêng đối với các dự án nhóm C ở vùng sâu, vùng xa thì các chức danh nêu trên có thể giao cho những người có trình độ cao đẳng hoặc trung cấp thuộc các chuyên ngành phù hợp.

Đối với trường hợp chủ đầu tư không phải là đơn vị quản lý, sử dụng công trình thì đơn vị quản lý, sử dụng công trình có trách nhiệm cử người tham gia với chủ đầu tư để quản lý dự án. Người do đơn vị quản lý, sử dụng công trình cử tham gia vào Ban quản lý dự án được bổ nhiệm làm phó giám đốc Ban quản lý dự án và không nhất thiết phải bảo đảm những yêu cầu về chuyên môn và kinh nghiệm nêu trên.

9/ Cử tri tỉnh Ninh Thuận, Yên Bái kiến nghị: “Hiện nay, việc quy định thủ tục trong xây dựng đối với các công trình nhỏ do Nhà nước đầu tư (dưới 100 triệu) còn quá hình thức, cứng nhắc. Nhiều công trình như nhà làm việc của thôn, khu phố... vốn đầu tư thấp nhưng phải lập dự án, thiết kế công trình... nên số kinh phí còn lại không còn nhiều, dẫn đến chất lượng và hiệu quả sử dụng không đảm bảo. Cử tri đề nghị đối với những dự án đầu tư công trình nhỏ, vốn đầu tư ít cần đơn giản hoá tối đa các thủ tục không cần thiết”.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 3.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   37   38   39   40   41   42   43   44   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương