NIỆm phật pháp yếU 念佛法要 Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập (惕園毛凌雲敬緝)



tải về 1.38 Mb.
trang11/19
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1.38 Mb.
#8425
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   19

Nhận định:
Do niệm Phật, tâm chuyên chú, đã đạt đến cảnh giới Nhất Tâm nên lúc niệm Phật chỉ biết niệm Phật, không còn niệm nào khác; tiếng niệm Phật lớn hay nhỏ có làm phiền người khác hay không ngài cũng chẳng hay! Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt và Ðại Trang Nghiêm Kinh Luận đều bảo lớn tiếng niệm Phật có mười công đức:

1. Một là bài trừ Cái chướng mê ngủ.

2. Hai là thiên ma kinh sợ.

3. Ba là tiếng vọng khắp mười phương.

4. Bốn là tam đồ được dứt khổ.

5. Năm là những tiếng động bên ngoài chẳng lọt vào.

6. Sáu là khiến cho tâm chẳng tán loạn.

7. Bảy là dũng mãnh tinh tấn.

8. Tám là chư Phật hoan hỷ.

9. Chín là tam muội hiện tiền.

10. Mười là vãng sanh Tịnh Ðộ.

Những điều ấy là những chứng cớ khiến ta càng thêm tin tưởng.


25. Chuyên niệm Quán Âm
Ðại sư Kim Trược thời Dân Quốc, người Ðài Châu. Tám tuổi xuất gia, ít lâu sau là được thọ giới. Ðược thầy dạy tụng chú Ðại Bi và niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, ngài liền mỗi ngày tụng chú bốn mươi tám biến; ngoài ra, chuyên trì thánh hiệu chưa hề gián đoạn.

Ngài xem danh lợi như bào ảnh; tập khí, thị hiếu đều tiêu trừ hết chẳng còn sót. Lúc bấy giờ, ngài trị bịnh cho người khác, vừa đặt tay lên bịnh đã được lành, chẳng nhận thù lao. Ngài ngụ trong một ngôi miếu nhỏ, gặp phải nạn cướp. Bọn cướp thấy ngoại trừ chiếc cà sa rách, không còn có vật gì khác, giận quá liền dùng thương đâm ngài, đâm hai nhát vào phía phải trên trán, đâm một nhát trúng tay phải, chưa chết. Ít lâu sau, thương thế lành, nhưng vết thương vẫn còn in dấu.

Ðột nhiên, ngài qua tạm trú ở chùa A Dục Vương thuộc thành phố Ninh Ba. Vị tăng quản đường kê đơn, ngài liền bảo:

- Tôi ở đây chẳng lâu sẽ vãng sanh Tây Phương. Kính xin ngài từ bi!

Liền bảo đại chúng:

- Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm đài bạc đã hiện thân trước mặt tôi, trong ba ngày nữa, tôi sẽ vãng sanh. Xin các vị đồng tham hãy thiệt thà niệm Phật hoặc niệm Bồ Tát. Nhất tâm xưng danh quyết sẽ sanh về Tây Phương. Phật chẳng nói dối.

Ðến thời, ngài liền hướng về vị sư quản đường nói:

- Sau chánh ngọ một giờ, tôi sẽ sanh Tây.

Mọi người cho là ngài nói dối. Giữa trưa, ngài vẫn dùng cơm như thường, lễ Phật tại các điện xong bèn ngồi hướng mặt về Tây mà hóa.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản in lần thứ ba)


Nhận định:
Vị này chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thoát khỏi nạn chết, cũng muốn làm gương tốt vãng sanh Tây Phương nên chẳng chết trong miếu nhỏ mà tọa hóa tại ngôi chùa A Dục Vương danh tiếng, vì đại chúng hiện thân thuyết pháp.
26. Làm việc nặng vẫn niệm Phật không gián đoạn
Ðại sư Cụ Hạnh Nhật Biện thời Dân Quốc, người huyện Hội Lý ở Vân Nam. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải đi ở rể nhà họ Tăng ở Diêm Nguyên, sanh được hai con trai. Nhà nghèo, ngài phải làm thuê cho Chúc Thánh ở núi Kê Túc. Năm hai mươi mốt tuổi, ngài dẫn cả nhà tám người xin đi xuất gia, thọ Cụ Túc. Hòa Thượng Hư Vân dạy ngài tu pháp môn Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Ðộ. Ngài bèn dứt bỏ các duyên, nhất tâm hệ niệm. Ngài tai điếc, mặt mũi xấu xí, không biết chữ, ngày trồng rau, đêm lễ bái, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát.

Rảnh rỗi thì tập tịnh tọa, học khóa tụng và các kinh điển, tự siêng gắng hết sức. Sư vừa đi tham bái tứ đại danh sơn trở về đất Ðiền (Vân Nam), gặp lúc ngài Hư Vân trùng hưng chùa Vân Thê, hỏi:

- Thầy đã đi thăm quyến thuộc chưa?

Sư thưa:

- Con chẳng bận tâm đến họ.

Hòa Thượng lại hỏi:

- Thầy tính làm gì?

Thưa:


- Những việc nặng nhọc nhất không ai chịu nổi, con sẽ gánh vác.

Phàm là những việc nặng như đắp tường, lợp nhà, trồng rau, trồng cây, vác đá, đào đất, quét tước, nấu nướng, ngài đều làm không lúc nào ngơi tay, nhưng không một khắc nào để câu niệm Phật bị gián đoạn. Khi đêm xuống, vào lúc chỉ tịnh, ngài bèn lễ các kinh Kim Cang, Dược Sư, các kinh Tịnh Ðộ; cứ một chữ là một lạy. Tảng sáng, hồng chung vừa gióng, đã lên điện tham dự khóa tụng như thường, chưa hề ngủ nghỉ. Ngài tự vá áo, hoặc chằm vá áo giùm bạn đồng tham, mỗi một mũi kim là một câu Phật hiệu.

Trong kỳ hạn kết giới, được thỉnh làm Tôn Chứng, ngài bèn bán y, đem hết tiền mua sắm vật dụng để thiết trai cúng dường đại chúng. Hỏi ngài sẽ đi đâu, chỉ cười không nói. Giới đàn hoàn tất, ngài ngầm lên điện sau cùng, ngồi xếp bằng, hướng về Tây niệm Phật, dùng lửa tự thiêu, thọ ba mươi sáu tuổi. Hình trạng vẫn như lúc sống, mùi hương lạ lan tận ra xa. Ðại chúng tranh nhau đến xem, vừa đánh khánh, di thể ngài chợt sụp xuống, hóa thành tro (theo Hư Vân Hòa Thượng Niên Phổ)
Nhận định:
Một chữ chẳng biết, nhưng lúc làm công việc nặng nhọc chưa hề gián đoạn niệm Phật. Chúng ta là những kẻ biết chữ đọc được sách, nếu cứ lơi là để uổng phí ngày tháng trôi qua há chẳng biết thẹn chăng? Nhưng tự thiêu là chưa đắc tam muội. Chớ nên manh nha vọng niệm như vậy để khỏi bị ma dựa phát cuồng, vĩnh viễn đọa trong ác đạo!
27. Bế quan tinh tu

Ðại sư Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang Thánh Lượng là Tổ thứ mười ba của Liên Tông. Ngài họ Triệu, là người huyện Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây. Thuở nhỏ học Nho, từng bài xích Phật, mắc bịnh mắt mấy lượt suýt mù, mới biết lỗi trước.

Năm hai mươi mốt tuổi, xuất gia thọ Cụ Túc Giới. Ðọc cuốn Long Thư Tịnh Ðộ Văn, biết được Niệm Phật chính là đạo trọng yếu để liễu sanh thoát tử, ngài liền chuyên niệm Phật hiệu. Trong lúc làm lụng, tâm chẳng rời niệm Phật. Sau ngài trụ tại chùa Tư Phước ở núi Hồng Loa, chuyên tu Tịnh Ðộ và thâm nhập Kinh tạng, diệu khế Phật tâm. Ngài triều bái Ngũ Ðài, đến kinh đô, theo hòa thượng Hóa Văn thỉnh Ðại Tạng về Phổ Ðà, trụ tại chùa Pháp Vũ, dốc chí tinh tu, bế quan suốt sáu năm, lấy đó làm kỳ hạn, ngày đêm niệm Phật hòng sớm đắc Niệm Phật Tam Muội. Các vị như cư sĩ Từ Úy Như v.v… đem in bộ Văn Sao của ngài khiến cho sự giáo hóa của ngài càng được rộng rãi. Ngài tự hành và dạy người, một lòng lấy Tịnh Ðộ làm chỗ quy hướng, chẳng lìa nhân quả, chẳng lạm bàn huyền luận diệu. Người quy y ngài hơn hai mươi vạn, kẻ y giáo phụng hành được sanh Tây Phương cũng rất nhiều.

Ngài còn hóa độ cả những tù nhân và dị loại, thường trì chú Ðại Bi vào nước và gạo để chữa các bịnh. Về sau, ngài bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu. Ngoài những lúc hành trì thời khóa lại lo hiệu đính, bổ cứu những bản tự chí của các núi Phổ Ðà, Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa v.v… Xưa kia ngài đã nguyện chẳng làm trụ trì, chẳng thâu đồ chúng; nhân vì Tăng, tục theo về quá đông, ngài mới khai sáng Tịnh Tông Ðạo Tràng ở núi Linh Nham để đại chúng cùng tu. Ngài sáng lập Hoằng Hóa Xã (nhà xuất bản Hoằng Hóa), in tặng năm trăm vạn bộ kinh sách Phật, hơn trăm vạn bức hình Phật. Ngài bảo vệ pháp môn, trung hưng Tịnh Tông, cứu tế kẻ đói nghèo, quyên góp trợ giúp kẻ túng ngặt, công chẳng thể nghĩ bàn nổi.

Về sau, ngài về lại Linh Nham, biết trước đã đến lúc, dạy đại chúng:

- Niệm Phật thấy Phật, quyết định sanh Tây. Ðược Phật tiếp dẫn, ta đi đây!

Ngài hướng về Tây niệm Phật, tọa hóa, thọ tám mươi tuổi. Lúc trà tỳ, hàm răng còn nguyên, xá lợi ngũ sắc thu được mấy ngàn hạt.

(theo Ấn Quang Ðại Sư Hạnh Nghiệp Ký)


Nhận định:

Tổ Sư là Ðại Thế Chí Bồ Tát lai thế nhằm trung hưng Tịnh Tông mà vẫn còn thường bế quan tinh tu, ngày đêm niệm Di Ðà! Bọn phàm phu ta há nên qua loa biếng nhác chẳng chịu dũng mãnh tinh tấn sao?


28. Thường ngồi chẳng nằm
Ðại sư Quảng Khâm Chiếu Kính thời Dân Quốc, họ Hoàng, người huyện Huệ An tỉnh Phước Kiến. Năm ngài mới bốn tuổi, vì nhà nghèo nên phải bán vào nhà họ Lý ở Tấn Giang làm con nuôi. Ngài thể chất yếu đuối, lắm bịnh, theo mẹ nuôi thờ Phật, ăn chay. Năm mười một tuổi, vì cha mẹ nuôi đều mất cả, ngài bèn xin xuất gia tại chùa Thừa Thiên ở Tuyền Châu. Nhà chùa sai làm các việc bên ngoài như trồng rau, nhổ cỏ… Sau ngài qua Nam Dương, đến năm ba mươi sáu tuổi mới trở về chùa Thừa Thiên chính thức thế phát. Thế phát xong, ngài chuyên chí tu khổ hạnh, thường ngồi chẳng nằm, nhất tâm niệm Phật.

Năm bốn mươi hai tuổi, sau khi thọ Cụ Túc Giới, ngài càng quyết chí tiềm tu, qua thạch động bên sườn núi Thanh Nguyên ở Tuyền Châu để tọa Thiền niệm Phật, chỉ dùng các loài khoai rừng, quả dại để đỡ lòng. Trong núi có nhiều hổ, vượn. Từ đó, khỉ, vượn đến dâng quả, mãnh hổ đến quy y nên ngài được xưng tặng nhã hiệu là Phục Hổ Sư (vị thầy hàng phục hổ). Sư thường nhập định, từng có lần nhập định cả mấy tháng chẳng ăn uống, chẳng động đậy.

Tháng Sáu năm Dân Quốc thứ 36 (1947), lúc đã năm mươi sáu tuổi, ngài vượt biển đến Ðài Loan, khoét thạch động Quảng Minh ở phía sau núi Tân Ðiếm thuộc Ðài Bắc để ẩn cư tiềm tu. Chỗ ấy về sau khuếch trương thành chùa Quảng Minh. Mặt sau phía bên phải động có vách đá lớn, ngài bèn chạm khắc thành tượng Phật A Di Ðà lớn bằng đá. Phía dưới, về bên trái lại khoét thành thạch động; sau được mở rộng thành chùa Quảng Chiếu. Sau này, ngài tìm được thạch động thiên nhiên ở Thổ Thành, đột nhiên có suối nước trong từ đá phun ra, mãng xà quy y. Ngài lại khuếch trương nơi ấy thành chùa Thừa Thiên, tiếp dẫn đệ tử đồng tu. Năm Dân Quốc 58 (1969), sư khai sáng Quảng Thừa Nham ở trấn Thổ Thành. Ðáp lời cầu thỉnh nhiều lượt của tín chúng, sư đến các địa phương Hoa Liên, Ðài Trung, Nam Ðầu, Gia Nghĩa, Cao Hùng v.v… hoằng pháp độ chúng. Kế đó, ngài kiến lập chùa Tường Ðức ở Thiên Tường, chùa Quảng Long ở núi Long Tỉnh v.v… thâu nạp đông đảo đồ chúng.

Ngài thường ngồi xếp bằng niệm Phật, từng nhập định ba lần, mỗi lần ước chừng cả tuần trở lên. Hằng ngày, sư chỉ ăn trái cây, uống nước để sống nên lại được tặng nhã hiệu là Thủy Quả Sư. Sau cùng, ngài hoạch định việc tạo dựng chùa Diệu Thông ở làng Lục Quy thuộc thành phố Cao Hùng, truyền thọ tam đàn thành công viên mãn. Tứ chúng đệ tử cầu giới nơi ngài nhiều đến cả mấy ngàn. Ðệ tử quy y nhiều hơn nữa. Ngài có những tác phẩm Khai Thị Lục, Truyền Kỳ Sự Tích… được ấn hành lưu truyền trong đời.

Sư thân gầy gò nhưng thể chất mạnh khỏe, hành động mẫn tiệp. Ngày hai mươi sáu tháng Chạp năm Dân Quốc bảy mươi bốn (1985), sư cấp tốc trở về chùa Thừa Thiên. Ngày mồng Một tháng Giêng năm sau, vào lúc sáng sớm, sư triệu tập đệ tử phụ trách các phân viện và đại chúng chùa Thừa Thiên, nhất nhất phó chúc hậu sự xong, liền trở về chùa Diệu Thông, suất lãnh đại chúng ngày đêm niệm Phật, tinh thần càng mạnh mẽ, tinh tường.

Hai giờ chiều ngày mồng Năm, sư chợt bảo đại chúng:

- Chẳng đến cũng chẳng đi, chẳng có việc gì!

Ngài hướng về đại chúng gật đầu, mỉm cười, an tường tọa hóa, thọ chín mươi lăm tuổi. Trà tỳ, lưu lại xá lợi rất nhiều.

(theo Quảng Khâm Hòa Thượng Niên Phổ và Lược Sử)
Nhận định:
Ðại Sư tuy chưa từng đọc sách, lúc nhỏ tuổi, thể chất yếu đuối lắm bịnh, theo dưỡng mẫu thờ Phật, ăn chay. Sau khi xuất gia chuyên chí tu khổ hạnh, thường ngồi chẳng nằm, nhất tâm niệm Phật. Sau khi đến Ðài Loan, tuy Ðại Sư tiềm tu, chỉ dùng trái cây và nước lã để sống, nhưng thân nhẹ nhàng, mạnh khỏe, lại sống rất thọ.

Dựng chùa, truyền giới, hoằng pháp độ chúng. Ðột nhiên, sư suất lãnh đại chúng niệm Phật, mỉm cười, tọa hóa thì ắt phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.


29. Xả Quán niệm Phật
Ðại sư Huệ Tam Tư Nguyên thời Dân Quốc, người huyện Uyển Bình tỉnh Hà Bắc. Năm mười bảy tuổi xuất gia. Ít lâu sau, thọ Cụ Túc, vào học trường Phật Giáo Học Hiệu tại tỉnh An Huy, nghiên cứu tinh tường nội điển.

Ngài nhận trách nhiệm trụ trì chùa Sùng Thọ và Quảng Thiện ở Bắc Kinh. Ngài kiến lập, hưng khởi đạo tràng Hoa Nghiêm. Trước giờ Ngọ mỗi ngày, ngài tụng kinh Hoa Nghiêm. Cuối năm, ngài kết Hoa Nghiêm Phật Thất, lãnh đạo đại chúng huân tu pháp Chơn Không Pháp Giới Quán; từng đốn nhập Pháp Giới Ðịnh. Sau khi khai tịnh, mới ngộ được hư không pháp giới lý sự vô ngại, pháp hỷ tràn đầy, khen là chưa từng có.

Từ đấy, ngài càng thêm tinh tấn, tu Quán chẳng lùi. Tháng Mười Một năm Dân Quốc thứ ba mươi bảy (1948), ngài đến Ðài Loan lúc bốn mươi tám tuổi, lãnh trọng trách giảng dạy tại Phật Học Viện chùa Viên Quang ở Trung Lịch. Năm sau, ngài đến Sở Giảng Dạy Học Tập Phật Học ở Tân Trúc giảng dạy Phật giáo, đồng thời giảng kinh ở chùa Nhất Ðồng suốt bảy năm.

Sư thường sống tại các chùa ở Ðài Bắc, Nội Hồ, Nam Ðầu… để giảng kinh, độ chúng không đếm nổi. Năm năm mươi lăm tuổi, ngài sáng lập chùa Phước Huệ trên núi Linh Sơn ở xã Thọ Lâm, Ðài Bắc. Mỗi năm, vào tháng Bảy, ngài lập pháp hội Ðịa Tạng kéo dài bảy ngày, truyền U Minh Giới một lần. Mỗi năm, tại Ðài Loan, khi truyền tam đàn đại giới và giới tại gia, sư thường được suy cử vào một trong tam sư. Cả cõi âm lẫn dương gian đều được lợi, pháp hóa lợi ích vô cùng!

Năm sáu mươi sáu tuổi, sư lại càng thêm thường tinh tấn, hằng khóa niệm Phật mỗi ngày là ba vạn câu. Năm tám mươi tuổi liền bắt đầu niệm Phật, tọa thiền cộng tu, và khởi xướng nghĩa chẩn cứu dân nghèo và thí thuốc trong khuôn viên nhà chùa; sáng lập thư viện để mọi người đến đọc sách; đề xướng, lo liệu việc giảng giải, học hỏi Phật học. Hạnh lẫn giải càng thêm sâu, phước huệ song tu.

Sư từng đáp ứng lời thỉnh sang Mỹ hoằng pháp, qua Ðại Hàn truyền giới, người thọ giới lên đến hơn năm ngàn người. Giữa trưa ngày mồng Tám tháng Bảy năm Dân Quốc 75 (1986), sau khi dùng cơm, sư chợt nói:

- Ta muốn đi đây!

Liền triệu tập tất cả đệ tử trong chùa, dặn dò:

- Sau khi ta mất, các con nên hợp tác với nhau.

Sau bữa cơm chiều, ngài không bịnh gì, đang đứng mà hóa, thọ tám mươi sáu tuổi.

(theo tạp chí Từ Vân số 126)
Nhận định:

Ðại Sư mỗi ngày tụng kinh Hoa Nghiêm, tu Chơn Không Quán, từng nhập Pháp Giới Ðịnh, từ đấy tu Quán chẳng lui sụt. Ðến năm sáu mươi tuổi, bắt đầu mỗi ngày hằng khóa niệm Phật ba vạn tiếng; đấy là bỏ Quán niệm Phật.

Từ năm tám mươi tuổi trở đi, chợt lại tọa Thiền, niệm Phật cộng tu. Ðấy là tuổi già tịnh tọa niệm Phật, chứ chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu. Không bịnh, đang đứng mà hóa, nhất định phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.
30. Tinh tấn Phật thất
Ðại sư Chử Vân Thật Tuyền Tỉnh Thế thời Dân Quốc, người huyện Như Cao, tỉnh Giang Tô. Ðến tuổi nhược quan (tuổi đôi mươi), xuất gia thọ giới. Ngài lần lượt tốt nghiệp các đại Phật Học Viện tại Hoa Lục, thâm nhập Tam Tạng, chuyên tu Tịnh Ðộ.

Năm Dân Quốc 39 (1950), sư theo quân đội sang Ðài Loan, lãnh chức thầy truyền giáo ở y viện hậu phương, tiếp dẫn vô số thương binh quy y Tam Bảo. Về sau đáp ứng lời thỉnh cầu khẩn khoản của phân hội Phật Giáo Ðài Loan, ngài trở về đảo truyền giáo, thâm nhập vùng thôn dã, hoằng dương Tịnh Ðộ. Ngài lần lượt chống tích trượng ra hải ngoại, viếng thăm các nước Mỹ, Gia Nã Ðại, Ðại Hàn, Thái, Việt Nam v.v… tuyên dương Phật pháp, thăm hỏi kiều bào. Ngài vì nước vì đạo dốc bao công lao!

Năm Dân Quốc 47 (1958), sau khi bế quan tiềm tu, ngài hoằng pháp lợi sanh chẳng tiếc sức. Năm Dân Quốc 61 (1972), ngài bắt đầu đề xướng việc tu tập Tinh Tấn Phật Thất, mỗi ngày niệm Phật đến tàn hết chín cây hương, lễ Phật một ngàn lạy, lấy thân mình làm gương để hóa đạo tứ chúng và các sinh viên đại học chuyên ngành Phật học. Suốt mười lăm năm, Sư đều giữ đúng như buổi đầu. Ngài lại dự trù kiến lập chùa Thanh Lương Hộ Quốc ở Hoa Sơn thuộc Ðài Trung, dựng Tịnh Tông Phật Học Viện để chuyên hoằng truyền Tinh Tấn Phật Thất Tịnh Ðộ Ðạo Tràng.

Trước tác có: Phật Giáo Dữ Cơ Ðốc Giáo Tỷ Giảo (so sánh Phật giáo và Cơ Ðốc giáo), Nam Hải Phổ Ðà Sơn Truyền Kỳ Dị Văn Lục (ghi chép về những chuyện kỳ lạ được lưu truyền ở núi Phổ Ðà trong Nam Hải), Phật Môn Dị Ký (ghi chép những chuyện lạ nơi cửa Phật), Chử Vân Pháp Sư Giảng Diễn Tập, Tinh Tấn Phật Thất Khai Thị Lục… hơn mười cuốn, được lưu hành rộng rãi trong nước lẫn hải ngoại, rộng tiếp độ tín chúng.

Tháng Bảy năm Dân Quốc 75 (1986), ngài biết trước thời khắc, từ tinh xá Di Ðà ở Ðài Bắc điện thoại cho pháp sư Huệ Khải chùa Thanh Lương Hộ Quốc ở Thái Bình, Ðài Trung:

- Tôi muốn đến Liên Xã ở Phụng Hoàng Sơn tạm ngụ hai mươi ngày, tôi muốn đi rồi!

Quả nhiên, 9 giờ tối ngày hai mươi ngài tới Liên Xã, mỗi ngày niệm Phật, kiêm trì chú Vãng Sanh một trăm hai mươi biến. Ðến chín giờ tối ngày mồng Chín tháng Tám, vừa đúng hai mươi ngày (ngài ngụ tại đó), ngài liền nằm yên lành, tay lần xâu chuỗi, môi khẽ động niệm Phật, chợt dặn dò đệ tử đứng hầu:

- Mọi người hãy chăm chỉ niệm Phật.

Rồi an tường vãng sanh, thọ sáu mươi tám tuổi.

(theo Chử Vân HòaThượng Kỷ Niệm Chuyên Tập)


Nhận định:
Phật dạy: “Nghe nói A Di Ðà Phật, chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Lúc lâm chung liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc” cho nên phải tinh tấn niệm Phật trong bảy ngày thì mới hòng đạt được nhất tâm bất loạn.

Nếu bảy ngày chẳng thành thì điều dưỡng tinh thần, lại tinh tấn thêm một thất, hai thất cho đến bảy thất. Nếu vẫn chẳng đắc Nhất Tâm Bất Loạn phải dõng mãnh, tinh tấn, thường tu Phật thất thì lâu ngày sẽ tự đạt được Nhất Tâm Bất Loạn. Xin hãy bắt chước đại sư tinh tấn.


31. Luật Tịnh song hoằng (hoằng dương Luật tông và Tịnh tông đồng thời)

Ðại sư Ðạo Nguyên Trung Luân Năng Tín thời Dân Quốc, họ Vương, người Thương Thủy tỉnh Hà Nam. Từ bé đã thông duệ, bảy tuổi vào trường đọc sách; hai mươi tuổi xuất gia. Không lâu sau, thọ Cụ Túc, thân cận đại sư Từ Châu ở tỉnh Giang Tô và đại sư Ấn Quang chùa Linh Nham. Ðối với hai tông: Luật tông và Tịnh tông, ngài được thọ truyền và tâm đắc thâm sâu. Ngài liền bế quan ba năm, tiềm tu Tịnh nghiệp, dùng hai tông Luật và Tịnh để tự hành và hóa độ người, chẳng tiếc sức. Sư triều lễ ba đại danh sơn: Phổ Ðà, Cửu Hoa, Ngũ Ðài; từng đảm nhiệm chức giáo sư và chủ giảng tại các Phật học viện.

Sư liên tiếp đảm nhiệm vai trò Giáo Thọ trong sáu lần Giới Ðàn. Ngài trụ trì các chùa Ðâu Suất ở Hà Bắc, chùa Vân Tuyền Sơn ở Trương Gia Khẩu, chùa Tịnh An ở Thượng Hải… Ngài luôn giảng diễn Giới Luật, hoằng dương Tịnh Ðộ. Giải hạnh đều thâm sâu, tứ chứng quy ngưỡng!

Tháng Ba năm Dân Quốc ba mươi tám (1949), sư qua Ðài Loan, sáng lập Tịnh Ðộ Tông Hải Hội Tự ở núi Chánh Ðạo thuộc phường Bát Ðổ, thành phố Cơ Long. Sư thường chủ trì Phật thất, hoằng truyền Tịnh Ðộ. Ở Ðài Loan, mỗi năm truyền tam đàn đại giới một hoặc hai lần, truyền giới tại gia nhiều lần, hầu như đại sư luôn đảm nhiệm một chức vị trong Tam Sư.

Lúc được suy cử làm Lý Sự Trưởng của hội Phật Giáo Trung Quốc, khi đại hội Hoa tăng thế giới khai mạc, sư lại được cử làm chủ tịch của chủ tịch đoàn đại hội. Ðức hạnh của sư vang dội cả hoàn cầu. Sư thường du hóa tại các nước Mỹ, Gia Nã Ðại, Nhật Bản, Ðại Hàn, Thái Lan, Tinh Châu (Singapore), Mã Lai, Cao Miên v.v… Hương Cảng là nơi sư thường đến để giảng kinh, truyền giới. Pháp duyên thù thắng, ít vị tăng nào bằng nổi.

Về già, sư sáng lập Năng Nhân Phật Học Viện để bồi dưỡng, đào tạo tăng tài hoằng dương Tịnh Tông. Cả một đời, sư thường ở khắp các chùa viện để giảng kinh, thuyết pháp, hoằng truyền Tịnh Ðộ ngũ kinh, nhất luận15 Nhằm thích ứng với cơ duyên các nơi, Sư cũng thường giảng các kinh luận như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Ðịa Tạng, Khởi Tín Luận v.v… Giảng kinh luận nào, sư cũng đều quy hướng Tịnh Ðộ. Người nghe pháp khởi lòng tin, trì giới niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ chẳng biết là bao nhiêu! Tiếc là những kinh, luận Sư đã giảng chưa được ghi chép đầy đủ, chỉ có những cuốn giảng lục kinh Di Ðà, Quán Kinh và Phật Ðường Giảng Thoại Ngũ Tập là được ấn loát và lưu hành trong đời, nhưng cũng đủ để làm chỉ nam phổ độ chúng sanh đồng quy Tịnh Ðộ.

Ngày mồng Hai tháng Chạp năm Dân Quốc 76 (1987), sư chợt thị hiện có bệnh, nằm điều dưỡng trong bịnh viện. Biết thời giờ đã đến, ngài liền phó chúc hậu sự. Ðêm ngày Rằm tháng Tư năm sau, Sư chợt bảo đồ chúng đang hầu cận đưa ngài về chùa Hải Hội. Sư ngồi ngay ngắn, hướng dẫn đại chúng niệm Phật. Một chốc sau, sư lên giường nằm an tường bên hông hữu, môi khẽ động niệm Phật. Ðến bảy giờ rưỡi tối hôm sau, giữa tiếng niệm Phật của đại chúng, sư an tường xả báo, vãng sanh Cực Lạc.

Ðến ngày 18, khi làm lễ đại liệm, toàn thân Sư vẫn mềm mại, sắc mặt như còn sống. Ngày mười ba tháng Năm, di quan trà tỳ, thu được hơn ngàn viên xá lợi ngũ sắc, chiếu sáng rực rỡ. Sư thọ 89 tuổi.

(theo Ðạo Nguyên Lão Pháp Sư Kỷ Niệm Tập)
Nhận định:

Ðại sư học pháp từ hai vị đại lão Từ Châu và Ấn Quang. Tiếp nối nghiệp thầy nên lấy Tịnh Luật song hoằng làm trách nhiệm, phổ khuyến đại chúng trì giới niệm Phật, hóa độ phổ cập khắp Trung Hoa lẫn hải ngoại. Từ sau lúc vị Tổ thứ mười ba của Tịnh Tông là Ấn Quang đại sư quy hồi An Dưỡng, chỉ có mình đại sư hoằng truyền Tịnh Tông, là chỗ hướng về của đại chúng.

Ngài đáng được tôn xưng là Tổ thứ mười bốn của Tịnh tông vì đã tiếp nối người trước, mở đường cho người sau, tiếp lối cũ, mở lối mới, ắt có lẽ tứ chúng trong Tịnh tông ta đều cùng tán đồng vậy!
32. Trì giới niệm Phật

Cư sĩ Lưu Trình Chi, tự Trọng Tư, hiệu Di Dân đời Tấn, người Bành Thành. Thuở nhỏ mồ côi, thờ mẹ hiếu thuận, thích Lão Trang, giữ chức Phủ Tham Quân. Ông cực lực từ bỏ chuyện tiến dẫn trên đường công khanh, đến Lô Sơn theo học với Tổ Huệ Viễn. Tổ hỏi:

- Quan chức, bổng lộc vòi vọi sao lại chẳng làm?

- Nhà Tấn không có được sự bền vững như đá tảng, dân tình mang nỗi nguy như trứng chồng, con biết làm thế nào?

Ông cùng những vị sĩ phu có lòng tin thanh tịnh như Tông Khác v.v… một trăm hai mươi ba người dựng am, kết xã đồng tu Tịnh Nghiệp, khắc đá lập thệ. Ông nghiên cứu đạo huyền một cách tinh tường, kiêm trì giới cấm, làm thơ Niệm Phật Tam Muội. Ở Lô Sơn mới được nửa năm, trong khi nhập Ðịnh, ông thấy kim quang của Phật chiếu sáng mặt đất. Mười lăm năm sau, trong khi đang niệm Phật, thấy tướng ngọc hào quang của Phật chiếu soi, Phật xòe tay đón tiếp, vỗ về. Ông Lưu nguyện:

- Xin Phật xoa đầu con, dùng y trùm thân con!

Phật liền xoa đầu ông, lại dùng áo ca sa trùm lên. Tiếp đó, ông lại mộng thấy mình vào trong ao bảy báu, thấy hoa sen xanh, trắng, và thấy một vị sau cổ có viên quang, trên ngực có chữ Vạn, chỉ nước trong ao bảo:

- Nước tám công đức đó, ông nên uống đi!

Uống vào thấy nước ngon ngọt. Tỉnh giấc, thấy mùi hương lạ bốc ra từ lỗ chân lông, bèn nói:

- Ðây là duyên Tịnh Ðộ của mình đã đến rồi!

Ông đốt hương, lễ nguyện:

- Nguyện cho hết thảy hữu tình đều sanh Tịnh Ðộ.

Ông từ biệt đại chúng, hướng về Tây tọa hóa, thọ năm mươi chín tuổi.

(theo Ðông Lâm Truyện)


Nhận định:
Từ lúc ngài Huệ Viễn đề xướng Tịnh Ðộ, trong những cư sĩ theo ngài kết xã niệm Phật thì vị cư sĩ này là người thứ nhất vãng sanh nên được nêu lên đầu tiên để làm khuôn phép vĩnh viễn cho việc trì giới niệm Phật.
33. Xâu chuỗi chẳng rời tay
Cư sĩ Vương Cổ tự Mẫn Trọng đời Tống, người Ðông Quận, là tằng tôn (chắt) của Văn Chánh Vương Công Ðán (ông Ðán làm Tướng Quốc đời Tống, từng tham gia Tịnh Hạnh Xã của tổ Tỉnh Thường). Trong bảy đời trước, ông từng giữ giới không sát sanh, phát tâm phóng sanh mấy trăm vạn mạng.

Lúc đầu, ông học hỏi những sự trong Tông môn. Ít lâu sau, viết tác phẩm Trực Chỉ Tịnh Ðộ Quyết Nghi Tập để hoằng dương Thánh giáo. Lúc nhàn cư, xâu chuỗi chẳng rời tay; đi, đứng, nằm, ngồi đều tu hành Tịnh nghiệp chưa hề gián đoạn. Ông làm quan đến chức Hộ Bộ Thị Lang; do bè đảng trong triều xâu xé nhau, ông bị mất chức, ít lâu sau liền tịch. Có vị Tăng nhập định lên Tịnh Ðộ, thấy ông và ông Cát Phồn đều ở tại đó.

(theo Tống Sử, phần Pháp Hỷ Chí)
Nhận định:
Kinh Sổ Châu Công Ðức nói: “Nếu có người tay cầm xâu chuỗi dù chẳng niệm tụng danh hiệu Phật và đà ra ni thì người ấy cũng được phước vô lượng”, huống hồ là xâu chuỗi chẳng rời tay, niệm Phật không gián đoạn?

Quán kinh nói: “Từ tâm chẳng giết, đủ các giới hạnh sẽ thượng phẩm thượng sanh”, huống hồ là phóng sanh đến cả trăm vạn mạng?


34. Mỗi ngày làm một điều lành

Cư sĩ Cát Phồn đời Tống, người xứ Trừng Giang. Lúc đầu mỗi ngày làm một điều lợi cho người, rồi hành hai điều, ba điều cho đến mười điều. Suốt mấy mươi năm chưa hề bỏ phế một ngày nào. Lúc làm quan Thái Thú trấn nhậm vùng Giang Tô, có người hỏi làm thế nào để làm lợi cho người, ông chỉ ngay cái bệ lót chân ở chỗ mình ngồi, bảo:

- Nếu vật này chẳng đặt ngay thì sẽ làm người ta què chân, tôi liền kê ngay lại, đấy cũng là việc lợi người. Nếu ai khát, tôi cho uống nước thì cũng là việc lợi người. Chỉ tùy theo từng việc mà làm lợi. Trên cho đến khanh tướng, dưới xuống đến kẻ ăn mày, ai nấy đều làm được. Chỉ cốt sao lâu ngày chẳng buông bỏ mà thôi.

Ông làm quan đến chức Triêu Tán Ðại Phu, dù là phủ đường hay nhà tư, ông đều sắp dọn một gian tịnh thất bày tượng Phật. Một ngày kia, trong lúc ông đang lễ bái niệm Phật, xá-lợi từ trên không hạ xuống. Sau ông không bịnh tật gì, ngồi ngay ngắn hướng về Tây mà tịch.

(theo Tống Sử và Long Thư Tịnh Ðộ Văn)
Nhận định:
Tùy việc lợi người là trợ hạnh cho Tịnh nghiệp. Xá-lợi từ trên không giáng xuống là do lòng tinh thành cảm nên. Người hay than không tiền nên chẳng làm công đức nổi, hoặc niệm Phật không cảm ứng thì do đây sẽ thấy công đức chẳng tốn phí tiền bạc, công niệm Phật chẳng luống uổng, ai nấy chẳng nên quan tâm ra sức tu hành hay sao?

Xin hãy bắt chước ông Cát gắng sức tu hành. Phàm bất cứ việc gì có lợi cho người, chẳng cần biết là việc lớn hay nhỏ, bản thân nhàn hay bận, sức mình cáng đáng nổi hay không, đều cứ hoan hỷ thi hành, làm được đến đâu hay đến đó! Trì đã thuần thục, hễ động thì vạn thiện đều nương theo, không việc gì là chẳng lành. Dùng đấy để niệm Phật hồi hướng, ắt vãng sanh trong phẩm vị cao!


35. Thập niệm hồi hướng

Cư sĩ Mã Vu tự Trọng Ngọc đời Tống, người huyện Hợp Phì. Cha là Trung Túc Công Mã Lương, làm thái thú Hàng Châu, được ngài Từ Vân Tuân Thức dạy cho pháp môn Tịnh Ðộ, cả nhà bèn thờ Phật. Cư sĩ gặp được vị Tăng tên Quảng Sơ truyền cho cuốn Thập Nghi Luận của Tổ Thiên Thai, mừng rỡ bảo:

- Tôi nay đã tìm được chỗ về rồi!

Ông liền áp dụng pháp Thập Niệm Hồi Hướng của ngài Tuân Thức, tu tập suốt hơn hai mươi năm. Về sau, giao du với ông Vương Cổ, ông càng thêm tinh tấn niệm Phật, thường lấy việc phóng sanh làm Phật sự. Ông lần lượt làm thái thú ở Chuy Châu, Tân Ðịnh, cai trị bằng lòng nhân từ, độ lượng. Hằng ngày ông luôn định thời khóa tụng kinh chú.

Thuở đó, phu nhân của Hình Vương (Hình Vương là chú của vua Tống Triết Tông) nằm mộng dạo chơi Liên Trì, trông thấy ông mặc triều phục ngồi trên hoa sen. Sau đó, ông mắc bệnh, bèn tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật mà qua đời. Người nhà đều nằm mộng thấy ông bảo:

- Ta đã được sanh vào Thượng Phẩm của Tịnh Ðộ!

Con ông là Vĩnh Dật cũng tu pháp Thập Niệm suốt ba mươi năm hơn; sau cũng mắc bệnh, thấy Phật và hai vị Bồ Tát tiếp dẫn, bèn kết ấn, thị tịch. Mùi thơm tràn ngập cả nhà.

(theo Lạc Bang Văn Loại)


Nhận định:
Sáng ra niệm mười niệm thì dù là người bận rộn cũng dễ làm được. Nếu có thể mỗi ngày chí thành như thế thì không ai là không vãng sanh. Trường hợp của Mã công tử (Mã Vĩnh Dật) đủ để chứng nghiệm vậy.

Do sau khi đã tinh tấn niệm Phật, ông Mã lại còn thường phóng sanh và dùng lòng nhân từ, độ lượng để cai trị, phước huệ song tu nên ngay lúc còn sống thần thức đã ngao du Tịnh Ðộ; chết đi, liền sanh trong Thượng Phẩm. Những người đang nắm giữ quyền chức hãy nên học theo gương ông.


36. Ngàn lạy trong khóa tụng hằng ngày
Cư sĩ Vương Nhật Hưu hiệu Hư Trung đời Tống, người huyện Long Thư. Ðược cử vào chức Quốc Học Tấn Sĩ, ông bỏ quan chức chẳng nhận. Ông bác thông kinh sử, nhưng một bữa kia buông bỏ hết, bảo:

- Ðều là những thứ tạo thêm nghiệp, chẳng phải là pháp rốt ráo, ta lấy Tây Phương làm chỗ quay về!

Từ đấy, ông tinh tấn niệm Phật. Năm sáu mươi tuổi, ông mặc áo vải, ăn rau, nhật khóa lễ một ngàn lạy đến nửa đêm mới nghỉ. Trong tác phẩm Long Thư Tịnh Ðộ Văn, từ hạng vua, quan cho đến những kẻ đồ tể, nấu rượu, hạng người tội lỗi, ông đều khuyên trì danh niệm Phật, phổ khuyến tu trì.

Ba ngày trước khi mất, ông từ biệt tất cả thân hữu, khuyên họ nên tinh tấn Tịnh nghiệp, bảo: mình sắp có việc phải đi, không gặp lại nhau nữa. Ðến kỳ, ông giảng sách cho học trò xong, lễ niệm như thường, chợt cao giọng niệm Phật mấy tiếng, bảo: “Phật đến đón ta!”, đứng trơ trơ mà hóa.

(theo Tịnh Ðộ Văn)
Nhận định:
Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy:

Lễ Phật một lạy được mười thứ công đức:



1. Một là được sắc thân đẹp đẽ.

2. Hai là nói ra được người khác tin tưởng.

3. Ba là ở giữa đại chúng không sợ hãi.

4. Bốn là được chư Phật hộ niệm.

5. Năm là đầy đủ oai nghi.

6. Sáu là mọi người thân cận.

7. Bảy là chư thiên kính yêu.

8. Tám là đủ đại phước báo.

9. Chín là chết đi sẽ vãng sanh.

10. Mười là mau chứng Niết Bàn”

Huống hồ là nhật khóa ngàn lạy ư?

Tác phẩm Tịnh Ðộ Văn của ông tuy lời lẽ đơn giản, nhưng thí dụ sâu xa đều là do ông bác thông kinh luận và thân hạnh cùng tột mà thành. Phổ khuyến tu trì thật là thiết tha, khẩn khoản; ai đọc đến mà chẳng phát khởi tín tâm? Xin hãy ấn hành lưu thông rộng rãi tác phẩm ấy để khuyên khắp mọi người lễ niệm, đồng sanh Tịnh Ðộ.
37. Ðoạn tuyệt đồ mặn, vãng sanh Tây Phương
Cư sĩ Châu Sở Phong, hiệu Đình Chương đời Minh, người tỉnh Vân Nam. Ông tánh hiền lương, thích niệm Phật, trị gia chẳng kể được, mất; có gì đều chia ngay cho người nghèo khổ hết. Ai khen ông chỉ cười; ai mắng chửi, nhục mạ, ông cũng chỉ cười mà thôi! Mỗi sáng sớm, ông tụng kinh Kim Cang, kinh Di Ðà và niệm Phật hiệu rất vui vẻ, sung sướng! Ông thường bảo:

- Tôi chẳng bỏ công việc hằng ngày, nhưng chẳng dính vào tham ái, cứ như thế mà thôi!

Năm tám mươi chín tuổi, vào tiết Thanh Minh, ông đi viếng mộ để từ biệt tổ tiên, cha mẹ; trở về, bảo vợ:

- Tôi sắp đi đây, Phật Di Ðà đón tôi, Quán Âm và Thế Chí đều đến cả!

Lại bảo:

- Ðức Quán Âm bảo tôi dứt trọn đồ mặn trong năm ngày mới được vãng sanh Tây Phương!

Mỗi ngày, ông liền ăn một bữa cháo, một bữa rau. Ðến kỳ, tắm gội, đội mão, sai con cháu tụng Phật hiệu. Tự mình tụng kinh xong, ông đoan tọa mà hóa. Thân bốc ra mùi thơm, vẻ mặt hệt như lúc sống.

(theo Kim Cang Linh Dị Lục)


Nhận định:
Ai khen chỉ cười là mật hạnh tinh tấn. Ai mắng chửi cũng cười là sân độc đã hết sạch. Có của cải gì liền chia hết là tham độc cũng đã tận. Phật và Bồ Tát đến đón, còn dặn phải kiêng đồ mặn trong năm ngày mới có thể vãng sanh, đủ chứng minh rằng dù chưa thể ngưng tay dao, miệng còn tham vị ngon vẫn có thể được vãng sanh. Xin hãy lấy việc ăn chay, kiêng giết chóc làm nhiệm vụ cấp bách.
38. Lâm chung dũng mãnh
Cư sĩ Văn Trọng Tử, tự Tử Dữ, hiệu Khải Sơ và Ðại Thịnh đời Minh, người huyện Tiền Ðường. Thuở bé lắm bịnh, chí muốn thoát sanh tử, không có ý định lập gia đình. Ông quy y với Tổ Vân Thê, thọ trì pháp môn Niệm Phật, dốc lòng tin, cật lực tu hành.

Em rể là cư sĩ Hoàng Nguyên Phù tự Thừa Huệ, hiệu Tịnh Minh tính người khẳng khái, thanh cảnh, không thích bon chen cõi tục, hiếu thuận, thích bố thí. Ông Văn thấy em rể thanh bần như thế bèn hướng dẫn đến quy y với tổ Vân Thê. Sau ông Hoàng mửa ra máu, lâu ngày càng nặng, ông Văn lại dạy em rể hãy niệm Phật. Ông Hoàng càng thống khổ; vừa mới tỉnh, Văn cư sĩ đã lớn tiếng hỏi:

- Lúc mắt chú dại đi thì lúc ấy mới biết khổ, rốt cục sẽ đi về đâu?

Ông Hoàng run sợ:

- Phải làm thế nào đây?

Ông Văn bảo:

- Chẳng gì bằng niệm Phật!

Ông Hoàng hỏi:

- Bác dạy em niệm tự tánh Di Ðà hay là niệm Cực Lạc Di Ðà?

Ông Văn bảo:

- Chú cho là có hai hay sao?

Ông Hoàng có phần tỉnh ngộ, liền thỉnh Tăng, bày tượng Phật, giảng nhân duyên Tịnh Ðộ, xuống tóc, thọ giới Sa Di và trợ niệm cho mình; tự suất lãnh cả nhà niệm Phật suốt bảy ngày. Chợt nghe mùi hoa sen, ông Hoàng mỉm cười, nói kệ, ngồi ngay ngắn qua đời.

Ðến khi ngài Hám Sơn Ðức Thanh đến điếu tang ngài Vân Thê, ông Văn cũng đến lễ thỉnh, xin được thế phát. Ðại Sư bảo:

- Tứ đại chẳng thể ngăn trở được Phật tánh, râu tóc có trở ngại chi! Cha mẹ còn, Phật tử đành cam bất hiếu hay sao?

Ông mới thôi. Về sau, bị bịnh nặng, ông tự thị mình tín lực mạnh mẽ, vãng sanh chẳng khó khăn gì. Ðến lúc bịnh gần chết, bao nhiêu nghiệp tích tập hiện tiền, tâm thần hoảng hốt, ông mới biết là Tịnh nghiệp chưa thuần, vãng sanh chẳng dễ dàng, bèn cố nhỏm dậy, kêu ầm lên:

- Mau thỉnh thiện tri thức niệm Phật giúp ta!

Bạn bè nhóm lại, niệm Phật suốt mấy ngày, nhưng những nghiệp cảnh tập khí vẫn vần vũ, ông lại kêu:

- Căn bản sanh tử không người nào khác dẹp nổi!

Liền đứng dậy, mặc áo, tắm gội, đối trước Phật đốt hương trên cánh tay, buồn thương, thành khẩn sám hối, niệm Phật suốt đêm không chút mệt mỏi. Ông tự biết túc chướng đã băng tiêu, tâm an thần sảng, Tịnh Ðộ hiện tiền, hoan hỷ tịch định, vội cạo tóc, khoác ca-sa ra dáng tăng sĩ, từ biệt mọi người, ngồi ngay ngắn qua đời.

(theo Mộng Du Tập)


Nhận định:
Ông Hoàng bịnh càng ngày càng nặng, chợt được nghe khai thị bèn tỉnh ngộ, liền nhất niệm kiên quyết nên bèn có thể buông xuống vạn duyên, niệm Phật bảy ngày, vãng sanh ngay chẳng trở ngại gì.

Ông Văn tuy sớm dốc lòng tin, tận lực tu hành, nhưng tự thị mình tín lực mạnh mẽ, vãng sanh chẳng khó khăn; đến lúc nguy ách, tập khí hiện tiền, mới biết Tịnh nghiệp chưa thuần, vãng sanh chẳng dễ! Cho đến khi nhờ tri thức trợ niệm suốt mấy ngày vô hiệu mới rõ căn bản sanh tử không ai bạt trừ giùm mình được nổi!

Ðại sư Hám Sơn nói: “Tập cảnh hiện tiền lúc lâm chung há chẳng phải là để thấy trước ác đạo ư? Sao chẳng dũng mãnh, phấn khởi, hô to một tiếng giận dữ, bạt trừ cội gốc sanh tử bao kiếp, biến nẻo khổ thành Tịnh Ðộ, há chẳng phải là những bậc trượng phu hay sao? Ðạo lý ấy há có thể dùng âm thanh, vẻ mặt cười cợt để thực hành nổi ư?”

Nếu tự thị là dễ thì sẽ lười nhác, còn biết là khó thì sẽ dũng mãnh, tinh tấn!


39. Thầy thuốc khuyên niệm Phật
Cư sĩ Trầm Khải Bạch tự Trung Húc đời Thanh, người Ngô Huyện; thuở nhỏ tánh hào đãng, thích giúp đỡ người hoạn nạn. Sau ông nổi danh về tài làm thuốc, càng ưa bố thí. Ðối với người nghèo, ông chẳng lấy tiền khám bịnh, hoặc còn cho thêm tiền. Năm hai mươi lăm tuổi, vợ mất, ông không tái giá, dốc lòng tu Tịnh nghiệp. Trên những tăng phường, đầu đường, thành cầu đi qua, ông đều đề danh hiệu Tây Phương Phật và những lời cảnh sách khuyên người niệm Phật. Gặp phải người bịnh nguy ngập, ông đều nghiêm nghị bảo:

- Tội nghiệt sâu nặng, sức tôi chẳng cứu nổi biết làm sao đây!

Người bịnh khóc lóc cố van nài, ông liền bảo:

- Chỉ có đức A Di Ðà Phật ở thế giới Cực Lạc nơi phương Tây, nếu ông có thể chí tâm xưng niệm một tiếng thì diệt được tội trong tám mươi kiếp sanh tử. Ông có tin nổi, niệm nổi hay không?

Kẻ ấy vâng vâng, dạ dạ. Ông bảo:

- Nếu đúng là như vậy thì bịnh có thể trị được!

Liền cắt thuốc, lần nào cũng hiệu nghiệm lạ kỳ nên từ đó, những người quy hướng Phật rất nhiều. Lúc hơn bảy mươi tuổi, ông niệm Phật rồi tịch.

(theo sách Nhị Lâm Cư, tập cuối)


Nhận định:

Bố Thí là độ đầu trong Lục Ðộ. Ông Vương Long Thư nói:



“Kẻ làm thầy thuốc nên thường tự nghĩ: Thân người bịnh khổ nào khác thân ta. Chớ nề quý, tiện, nghèo, giàu, chuyên tâm cứu người để kết nhân duyên, để tích phước cho mình. Trong chốn u minh sẽ tự được thánh hiền gia hộ. Nếu luôn giữ được tấm lòng như vậy, hồi hướng Tịnh Ðộ ắt sẽ sanh trong Thượng Phẩm.

Nếu nhân lúc người khác bị bịnh khổ mà mình khuyên dạy họ Tịnh Ðộ thì họ dễ sanh tín tâm. Lại khiến cho họ phát đại nguyện: sẽ lưu truyền rộng rãi chuyện của họ để bù chuộc túc nghiệp, cầu mong được lành bệnh thì ắt sẽ được thỏa nguyện. Nếu như tuổi thọ đã hết thì cũng nhờ vào nguyện lực ấy chóng sanh về Tịnh Ðộ.

Thường giáo hóa người khác như vậy thì chẳng những chỉ sau khi xả thân được sanh trong Thượng Phẩm mà ngay trong hiện đời cũng được hưởng phước báo vô tận vậy!”
40. Làm quan thờ Phật
Ông Trương Lan Chử, tự Sư Thành, hiệu Nhất Tây Cư Sĩ đời Thanh, người huyện Quy An ở Hồ Châu. Lúc trẻ, đỗ đạt, đi trấn nhậm những vùng biên cương. Ông làm tuần vũ tỉnh Giang Tô, thấy sát nghiệp quá nặng bèn nhiều lần ra yết thị khuyên tránh sát sanh, lập con sông phóng sanh, nghiêm cấm đánh cá; trong dinh không thết tiệc đãi khách, không sát sanh, trường trai thờ Phật, gởi lòng nơi Tịnh Ðộ. Ông chọn lấy những luận thuyết Tịnh Ðộ của các bậc tiên hiền, soạn thành cuốn Kính Trung Kính Hựu Kính (con đường tắt hơn con đường tắt nhất trong những đường tắt) để phổ khuyến niệm Phật.

Lúc đã ngoài sáu mươi tuổi, ông xin từ quan, về làng, ở yên trong một gian nhà hẹp, một dạ quy Tây. Lâm chung, tụng kinh Di Ðà xong, vừa mới niệm Phật hiệu được năm câu, ông lặng lẽ tịch.

(theo Trương Lan Chử Niên Phổ)
Nhận định:
Phú quý học đạo khó vì kẻ theo đuổi công danh lấy việc thăng quan tiến chức làm trọng; kẻ ham vui phóng dật coi tịnh tu là khổ, đâu ai chịu buông bỏ trần lao để gởi lòng nơi Tịnh Ðộ, trường trai thờ Phật?

Xin những người làm quan hãy lấy ông Trương làm gương.


41. Từ Ðạo Giáo chuyển sang Phật giáo
Ông Bành Xích Mộc tự Thiệu Thăng, hiệu Tế Thanh, Nhị Lâm Cư Sĩ, Tri Quy Tử… đời Thanh là người Trường Châu. Năm mười tám tuổi, ông liên tiếp đỗ đầu, được danh hiệu Tấn Sĩ.

Ðột nhiên, ông tự tỉnh ngộ, bảo: “Ta chưa minh được cái tâm mình, biết làm sao đây!” Bèn tu luyện theo cách tu của Ðạo Gia suốt ba năm, chẳng kết quả gì. Ðọc sách Phật, ông sảng khoái nói: “Ðạo chính là đây!”. Từ đấy, ông tin tưởng đạo Phật, bỏ hết những điều mình đang tu tập, chuyên tâm niệm Phật. Ít lâu sau, ông thọ Bồ Tát giới, thôi ăn thịt, chẳng gần đàn bà; thường bảo: “Chí nơi Tây Phương, hạnh tại Phạm Võng”. Ông bế quan tại Văn Tinh Các tu Nhất Hạnh Tam Muội; đề biển Nhất Hạnh Cư. Ông sai thợ vẽ tranh Cực Lạc Thế Giới dựa theo cảnh y báo, chánh báo trang nghiêm được dạy trong ba kinh Tịnh Ðộ.

Ông viết cuốn Nhất Thừa Quyết Nghi Luận; do thông đạt cả Nho lẫn Thích nên ông còn soạn cuốn Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận để dàn hòa cuộc tranh luận giữa Thiền và Tịnh. Ông soạn ra Tịnh Ðộ Tam Kinh Tân Luận để xiển dương những ý chỉ chưa được bàn luận rốt ráo trong Liên Tông. Những tác phẩm của ông như Cư Sĩ Truyện, Thiện Nữ Nhân Truyện, Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục v.v… tùy cơ tiếp dẫn, được truyền tụng nhiều trong đời.

Ông bỏ ra cả vạn lượng vàng như không để lập chùa thờ Phật, ấn tống kinh điển, nuôi cơm tăng chúng, mở ra Cận Thủ Ðường để chữa bịnh cho người nghèo túng, dùng ruộng của người giàu trong họ để giúp đỡ họ hàng nghèo. Ông sáng lập Tuất Ly Hội để giúp đỡ những người ở góa, lập nên Phóng Sanh Hội để chuộc mạng cho loài vật. Việc nào ông cũng làm văn phát nguyện hồi hướng Tịnh Ðộ. Ông ẩn cư trong các tăng xá ở đất Tô, Hàng hơn mười năm, mỗi ngày đều có thời khóa tụng niệm.

Sau ông mắc bịnh hạ lỵ, biết trước ngày mất, chẳng lập kẻ thừa tự, đem những tài sản của các hội giao phó cho con rể, dặn dò duy trì lâu dài, đừng để tan rã. Ông làm kệ từ biệt cõi đời, hướng về Tây niệm Phật tọa thoát. Thọ năm mươi bảy tuổi.

(theo Cư Sĩ Truyện)


Nhận định:
Tuổi trẻ đã đỗ đạt cao, nhưng chẳng tham luyến vinh hoa cõi trần, chỉ cầu minh tâm, từ Ðạo giáo chuyển sang Phật giáo. Chánh hạnh, trợ hạnh kiêm tu, làm kệ, tọa thoát, nếu chẳng phải là thiện căn vốn sẵn đủ từ bao đời trước, đã thâm nhập Tam Muội thì sao mà làm nổi như vậy được?
42. Tiếng niệm Phật chẳng dứt
Cư sĩ Trầm Diên Du đời Thanh, người huyện Gia Hưng. Ông tánh tình đoan chánh, cẩn trọng, làm gì cũng hết sức, nhưng cứ liền miệng niệm Phật thao thao chẳng ngưng. Ai có cười cũng mặc. Mấy mươi năm như thế, tự nói:

- Niệm Phật càng được thuần thục thì xử sự càng sáng suốt.

Năm bảy mươi ba tuổi, ông thị hiện bịnh nhẹ, chợt bảo người nhà rằng:

- Phật đến rồi đó, hãy đem đuốc cho ta.

Tự tay thắp hương mà thác.

(theo Nhiễm Hương Tập)


Nhận định:
Cư sĩ Hồ Liên Quy bảo:

Niệm Phật càng được thuần thục thì xử sự càng sáng suốt. Ðây thật là động tịnh đều giống hệt như nhau, là bậc thâm nhập tam muội. Người dốc lòng mong cầu danh lợi động đến liền nói: ‘Tôi phân tâm xử sự đâu có rảnh mà niệm Phật. Ðến khi sanh tử xảy đến, đành phải trắng tay, là lỗi của ai vậy?”

Xin hãy mạnh mẽ tỉnh ngộ để gấp bắt chước gương này.
43. Ở một mình niệm Phật
Cư sĩ Bùi Vĩnh Ðộ đời Thanh người huyện Thái Châu tỉnh Giang Tô. Ông sống bằng nghề nông, tánh tình điềm đạm, không ham thích gì, cứ thấy việc lành là làm. Từ nhỏ đã dốc trọn lòng tin tưởng vào Phật pháp, ăn chay trường, định thời khóa niệm Phật không gián đoạn. Sau đấy, ông thọ trì Tam Quy Ngũ Giới, hành trì nghiêm khiết, chưa hề khuyết lậu. Vợ cũng niệm Phật, thọ giới, tuy cùng ở chung một nhà, nhưng đối đãi với nhau trinh bạch. Chỉ có một con gái, cũng ăn chay niệm Phật. Về sau, cô này xuất gia thọ Cụ Túc giới, biến nhà thành am.

Ông dạy vợ con cùng tu Tịnh nghiệp. Ông lập riêng một căn tịnh thất, ở một mình niệm Phật hơn mấy mươi năm. Lúc tuổi gần thất tuần, chợt bảo thân tộc rằng:

- Năm ngày sau nữa ta sẽ chia tay, xin hãy thiêu hóa giùm cái xác thừa. Thân này như huyễn, đừng lầm lẫn mà tiếc nuối!

Ðến kỳ, ông trì danh tọa hóa. Trà-tỳ, thu được hơn trăm viên xá-lợi ngũ sắc lóng lánh.

(theo Nhiễm Hương Tục Tập)
Nhận định:
Cả nhà thờ Phật, vốn có thể đồng tu. Do con gái đã xuất gia biến nhà thành am nên ông cất một tịnh thất, ở một mình niệm Phật; không qua lại với vợ con nữa là ái căn đã đoạn, thân còn tại gia mà tâm đã xuất gia vậy!
44. Thân đau tâm niệm

Ðời Thanh, cư sĩ Châu Quang tự Tây Liên, sanh ở Giang Ninh. Ông tánh thuần hậu, nhạt nhẽo danh lợi, tuy gia thế quý hiển nhưng không quen thói hưởng thụ. Tuổi trung niên, ông trường trai thờ Phật, mỗi ngày tụng Phật hiệu cả vạn tiếng để cầu sanh Tịnh Ðộ. Anh em, bè bạn gặp nhau, hàn huyên đôi câu xong là ông liền đem pháp môn Tịnh Ðộ khuyên đi, khuyên lại. Ông quyên tiền in lại bộ Di Ðà Sớ Sao, đích thân dò lỗi, sửa sai để tác phẩm này được lưu truyền rộng rãi.

Tuổi già, thần khí suy yếu nhưng niệm Phật càng thêm hăng hái. Ðột nhiên, ông bị mắc bệnh sa đì (còn gọi là thoát vị, tức chứng hernia) rất nặng, nhưng chẳng hề bỏ lỡ việc chấp trì danh hiệu. Bịnh ngày càng nặng thêm, có người thấy thế khen ngợi [tinh thần niệm Phật của ông], ông bảo:

- Trong những khi bị đau như vậy, lúc mới đầu tôi cũng đau đớn, khó chịu đựng nổi, nhưng rồi nghĩ đến thân này đã là giả thì khổ cũng chẳng phải là thật, huống hồ mức độ tinh và thô giữa thân và tâm đã rõ rành rành! Cái thân kia thống khổ tôi chẳng biết làm cách nào; tâm tôi tự niệm Phật thì cái thân kia cũng chẳng làm gì được. Lúc mới đầu còn thấy có tâm và thân đối lập nhau, dần dần chỉ biết có tâm, chẳng còn biết có thân, thống khổ cũng dần dần hết!

Sau ông niệm Phật mà tịch.

(theo Nhiễm Hương Tập)


Nhận định:
Niệm Phật trị được trọng bịnh vạn kiếp sanh tử, huống hồ đã biết là thân giả, khổ chẳng thật thì sẽ nhẫn được điều khó nhẫn, chẳng những thống khổ sẽ tự tuyệt, mà đến lúc vãng sanh thì do trong lúc bịnh nguy ngập đau đớn đã làm chủ được, lúc lâm chung vãng sanh ắt sẽ tự chủ được!
45. Giác chiếu niệm Phật
Cư sĩ Phạm Dụng Hòa tự Nguyên Lễ đời Thanh, người huyện Tiền Ðường. Lúc nhỏ học Nho, thờ cha mẹ rất có hiếu. Lúc cha mẹ bịnh, trước sau, ông đã cắt thịt bắp tay hòa với thuốc trị lành bịnh cho cha.

Bước vào tuổi tráng niên, cha mẹ mất, vợ chết, ông từ bỏ trần duyên, tu tập huyền công (cách tu hành của Ðạo giáo) hơn mười năm, đạt chút linh nghiệm. Về sau, ông đọc những tác phẩm của ngài Vân Thê có phần tỉnh ngộ, bèn thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhất chí kiên trì, thậm chí những thứ làm bằng lông thú, dệt bằng tơ tằm, ông chẳng hề khoác vào thân. Bỏ hết những điều mình đã tu tập, chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông ham làm lành, thí thuốc, phóng sanh, giúp đỡ người nghèo, chẳng nề nhọc mỏi. Gặp Tăng chúng nghèo bịnh, ông liền cúng dường chẳng thiếu gì.

Về sau, ông bế quan niệm Phật suốt trăm ngày. Lúc hơi thở ông vừa trở nên yên tịnh thì cách tu huyền thuật trước kia chợt hiện ra, nhận thấy khí Thiên Ðịa cuồn cuộn, mù mịt trong không trung xông thẳng vào miệng, mũi, chạy thẳng vào huyệt Ðan Ðiền, hòa hợp với nguyên khí của chính mình, [cảm thấy] khinh an chẳng thể diễn tả nổi. Giây lát, có một đứa bé cao mấy tấc từ đảnh đầu vọt ra, lãng đãng trước mặt; được một chốc, nó lại theo đảnh đầu trở vào. Từ đấy trở đi, mỗi khi đến lúc hết sức tịch tịnh, vong niệm (không còn ý niệm nữa) thì liền có đứa bé bước ra, trở vào như trên. Thoạt đầu, ông rất vui; lúc sau, ông chợt nghĩ:

- Ðây há chẳng phải là năm mươi thứ Ấm Ma như đã nói trong kinh Lăng Nghiêm đó ư? Nếu cho là kỳ đặc thì sẽ bị lạc vào quần ma! Niệm Phật chí tại Tây Phương, thánh cảnh chẳng hiện, sự này ích chi?

Ngay khi đó, ông liền giác chiếu, chánh niệm hiện tiền, đứa bé chẳng xuất hiện nữa. Ðối với yếu chỉ Duy Tâm, ông khế ngộ sâu xa; Tín - Hạnh - Nguyện lực càng thêm thuần thục. Thường bảo với mọi người rằng:

- Ðối với cửa ải hiểm yếu bậc nhất trong cuộc đời này nếu có chút phần chẳng rõ thì sẽ lạc vào bàng môn. Vì vậy, tu hành chẳng thể không thận trọng vậy!

Chợt ông kết liễu mọi việc, dặn dò, từ biệt bè bạn, ngồi niệm Phật qua đời. Lúc liệm, đảnh đầu vẫn còn nóng, thọ sáu mươi ba tuổi.

(theo Nhiễm Hương Tục Tập)


Nhận định:
Từng tu tập huyền công của ngoại đạo, nguyện thường giác chiếu nên khỏi bị đọa vào bàng môn. Chánh niệm hiện tiền, quần tà tự diệt.
46. Mật hạnh tinh tấn

Cư sĩ họ Trần đời Thanh, không rõ tên là gì, là chú họ của các ông Thế Anh, Mậu Tài ở huyện Thường Thục. Mỗi sáng dậy, ông thắp hương yên lặng tụng kinh, niệm Phật. Dù gió, mưa, lạnh, nóng đều chẳng gián đoạn. Suốt mấy năm như thế người nhà chẳng hay vì ông hành mật hạnh.

Trước khi mất ba tháng, ông tự bảo đã đến lúc sắp mất, người nhà thấy ông không bịnh tật gì nên không tin. Ba ngày trước khi mất, ông thị hiện bịnh nhẹ, vẫn đi đứng như thường. Ðến ngày, ông tọa hóa, người nhà kêu khóc; ông bèn mở mắt, dạy sơ lược vài lời, rồi nói: “Ta đi đây!” Lại yên lặng, thân bốc ra mùi hương lạ ba ngày mới hết.

(theo Vãng Sanh Cận Nghiệm Lục)
Nhận định:
Cổ nhân mật hạnh, dù nóng hay lạnh chẳng gián đoạn, dù là người nhà cũng chẳng hay biết. Nay thì hành nhân rêu rao khoe mẽ nhưng một ngày nóng mười ngày lạnh, cho nên người niệm Phật thì nhiều mà kẻ vãng sanh lại ít. Hãy dè dặt, hãy thận trọng!

47. Dụng công mãnh liệt
Cư sĩ Tiền Dực Sơn tự Vạn Dật đời Thanh, người huyện Thường Thục, làm nghề nấu rượu, thích chè chén. Ít lâu sau, ông tu Tịnh nghiệp, tận lực sửa đổi lề thói cũ, tránh sát sanh, dứt rượu thịt, khuyên mẹ ăn chay trường niệm Phật. Một người con của ông bịnh lao, niệm Phật qua đời, mọi người phỉ báng, ông vẫn thờ Phật như cũ. Vợ mất, ông vẫn điềm nhiên, cự tuyệt người khuyên tục huyền:

- Có con nhưng nó đã mất rồi, tôi cưới vợ nữa để làm gì? Chí tôi xuất thế, lẽ nào còn thèm thuồng có người nối dõi ư?

Nhà cửa bị lửa cháy, ông hướng lên không, nguyện:

- Nghiệp của tôi đáng bị lửa cháy, chỉ xin đừng làm tổn hại đến nhà hàng xóm.

Lửa tắt, quả nhiên nhà hàng xóm vô hại. Ông chợt mắc bịnh thổ huyết, tâm sanh tử càng thiết tha, niệm Phật càng mạnh mẽ. Ðến lúc bịnh nguy kịch, ăn vào là ói ra ngay. Người chú là Tạ Phượng Ngô kể chuyện cổ đức nhịn ăn để thấy Phật, ông vui vẻ bảo:

- Có phương cách tiện lợi lớn như vậy, tôi phải dũng mãnh làm theo!

Ông liền tắm gội, đến trước bàn Phật, thắp hương, phát thệ: giữ trai giới bảy ngày, bỏ tiền phóng sanh cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðêm ngày niệm Phật chẳng sót, có khát chỉ ăn dưa mà thôi. Có người hỏi: “Cả đêm chẳng ngủ, chẳng mệt mỏi hay sao?” Ông nói:

- Chẳng ngủ có lợi là niệm Phật được nhiều. Lúc tôi chưa bịnh chẳng được an nhàn; nay do bịnh mới được nhàn, đúng là lúc phải dốc sức, làm sao còn mệt nhọc được?

Hết kỳ hạn, thần thức hôn loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên gối, ra lệnh đốt ngón tay. Ông Tạ nói:

- Lúc này, ngươi phát nguyện ấy thì cũng giống như đã đốt ngón tay rồi, chẳng bằng nhất ý cầu về Tây Phương thì hơn.

Ông liền nhắm mắt niệm Phật, lúc đầu còn miễn cưỡng, sau do dụng công mạnh mẽ, dần dần thần chí an định. Lại được mười mấy người trợ duyên, tiếng niệm Phật liên tục suốt ngày đêm. Ông chợt thấy Tây Phương Tam Thánh hiện tiền, quang minh, tướng hảo, toan cất thân lên kim đài; chợt nghe trên không có tiếng nói:

- Thân ông chưa sạch!

Ông liền sai lấy nước thơm tắm gội xong, Tam Thánh hiện như cũ, liền bảo người nhà rằng:

- Tôi đã đến được Tịnh Ðộ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên đó, sướng chẳng thể nói nổi!

Ông chỉ vào thân mình bảo:

- Ðây chẳng phải là thân ta!

Một lát, lại bảo:

- Phật đông nghẹt cả nhà!

Ngồi hướng về Tây, qua đời, thọ ba mươi tám tuổi.

(theo Tục Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)


Nhận định:

Ðoạn được rượu thịt là tham độc đã hết. Bị cười chê chẳng đoái hoài là sân độc đã hết. Con chết, vợ mất vẫn điềm nhiên là ái căn đã đoạn. Cự tuyệt lời khuyên lấy vợ lần nữa, chẳng mong có người nối dõi là si độc đã hết.

Vì vậy, gặp phải nghịch cảnh, ông vẫn có thể chẳng thối thất cái tâm ban đầu; dù bịnh tật khổ sở vẫn giữ vững chánh niệm. Dù vì nghiệp chướng hiện tiền khiến thần thức hôn loạn, ông vẫn có thể dụng công mạnh mẽ, lại được trợ duyên nên nhanh chóng cảm được tướng tốt lành là đài vàng, thần hồn ngao du cõi Sen, thật đáng làm gương vậy!
48. Trợ niệm đắc lực
Cư sĩ Dương Liên Hàng thời Dân Quốc, người huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Nghe lời ông Ðồng Giác Hàng tu Tịnh nghiệp, lâu ngày đối với giáo nghĩa giải ngộ siêu quần.

Ông tham dự Liên Xã niệm Phật. Vì bị bịnh nên lại sát sanh, dần dần xa lìa các liên hữu. Sau bịnh nguy kịch, liên hữu bảo ông ắt phải chết. Tự xét mình không thể nào qua nổi, ông hoảng sợ, hối hận, bèn gắng sức đến trước Phật, tận tình bày tỏ, dốc lòng thành sám hối, lại giữ Ngũ Giới, thề chẳng tái phạm. Từ đấy trở đi, ông buông bỏ vạn duyên, quét sạch ái dục, nhất tâm thầm niệm Phật hiệu đợi lúc lâm chung. Liên hữu biết công năng trì danh của ông nông cạn nên trước hết vì ông thỉnh người trợ niệm. Hai ngày sau, liên hữu cũng trợ niệm. Ông chợt thấy thần khí thanh sảng, mộng thấy quang minh. Ðến canh hai, liên hữu sắp ra về, chẳng biết rằng đến lúc đó, việc trợ niệm đã có hiệu lực. Ông liền bảo:

- Tôi chưa đến được Tây Phương, xin liên hữu lớn tiếng niệm Phật trợ niệm suốt đêm, đừng để lỡ!

Mọi người lại cao giọng niệm Phật, lại luôn luôn khích lệ ông. Chợt ông mỉm cười bảo:

- Tôi nay đã đến Tây Phương rồi, hoa sen đẹp quá! Ao báu đẹp quá! Quang minh đẹp quá!

Mắt ông nhìn chăm chú vào tượng Phật mà qua đời. Mọi người vẫn trợ niệm đến khi thân ông đã lạnh mới thôi, chẳng cho người nhà khóc than. Ðến trưa hôm sau, đảnh đầu ông vẫn còn ấm, thọ ba mươi tuổi!

(theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)
Nhận định:
Công phu trì danh nông cạn mà được vãng sanh là do sức liên hữu trợ niệm. Trợ niệm khẩn yếu như thế đó. Xin hãy đề xướng rộng rãi. Nếu như không có liên hữu thì xin hãy dùng băng niệm Phật để trợ niệm, tạm dùng làm phương tiện cũng có thể được hưởng đại lợi vãng sanh vậy!
49. Bỏ tụng chú để niệm Phật
Cư sĩ Trương Trân Ngọ thời Dân Quốc, sang Nhật học Y và học Mật Tông. Sau ông mắc bịnh thũng, nghiệp cảnh hiện tiền. Lúc bình thường, ông trì chú thấy có linh nghiệm, lúc này trọn không có hiệu quả gì. Ông bèn chuyên niệm Phật thì nghiệp cảnh mới tiêu diệt. Ông liền dẹp hết thuốc men, nhất tâm trì danh. Vợ ông khuyên hãy nên ăn uống, ông bảo:

- Bà đừng khuấy nhiễu tôi, chỉ nên giúp tôi niệm Phật và thỉnh đạo hữu họp lại trợ niệm. Tôi sẽ đi trong ngày hôm nay.

Ðạo hữu đến, đồng thanh trợ niệm. Ông cũng nương theo đó, niệm theo rõ ràng; đoạn kết ấn, niệm Phật mà qua đời.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản in lần thứ ba)



Nhận định:
Lâm chung nghiệp cảnh hiện tiền, há chẳng phải là để thấy trước ác đạo đó chăng? Lúc ấy, trì chú hoàn toàn chẳng có công năng gì, may nhờ chuyển sang niệm Phật và nhóm đạo hữu lại trợ niệm thì nghiệp mới tiêu, được vãng sanh. Những kẻ bỏ Tịnh Ðộ để tu Mật, khá nên lấy đó làm gương!
50. Từ biệt mọi người, tọa hóa

Cư sĩ Lý Ngoa, tự Tế Hoa thời Dân Quốc, người huyện Như Cao tỉnh Giang Tô; tốt nghiệp từ Trắc Hội Học Ðường.16 Năm Dân Quốc thứ nhất (1911), ông được cử về làm việc ở Trắc Lượng Cục của Lục Quân, gia nhập Ðồng Minh Hội. Khi cách mạng lần thứ hai thất bại, ông bị tống giam; lúc sắp bị xử tử, ông được người cứu khỏi, được phóng thích. Tuy vẫn phục vụ trong quân ngũ, nhưng ông ăn chay niệm Phật, dù nóng hay lạnh vẫn chẳng gián đoạn. Từ chiến dịch Bắc Phạt trở về, ông từng đảm nhiệm các chức vụ: nghị trưởng huyện nghị hội và cục trưởng các cục kiến thiết, tài chánh v.v…

Mùa Xuân năm Dân Quốc 22 (1933), ông quy y Ấn Quang đại sư, được đặt pháp danh là Trí Thoát. Từ đấy, ông chuyên tu Tịnh nghiệp, thời khóa sáng tối đều tụng một cuốn Di Ðà, niệm Phật cả vạn tiếng. Ông nghiên cứu sâu sắc kinh điển Ðại Thừa, hạnh lẫn giải đều sâu, hoằng dương Tịnh Ðộ, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trọn đời chẳng lười nhác.

Sau khi qua Ðài Loan, ông sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn ở Ðài Bắc, soạn cuốn Phổ Khuyến Tịnh Nghiệp Ðồng Nhân Phát Khởi Tổ Chức Trợ Niệm Vãng Sanh Ðoàn Văn để đề xướng việc trợ niệm. Ngày hai mươi lăm tháng Hai năm Dân Quốc 51 (1962) là ngày pháp hội định kỳ của Niệm Phật Ðoàn, ông lãnh chúng niệm Phật. Sau bữa ăn trưa, ông giảng đại ý kinh A Di Ðà. Ðến hai giờ năm mươi phút giảng xong, ông từ biệt đại chúng:

- Tôi sắp đi rồi, mọi người hãy chăm chỉ niệm Phật!

Rồi ông tọa hóa giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Ðúng ba giờ năm phút, tay ông kết Di Ðà ấn như đang nhập Thiền Ðịnh. Ngày hôm sau, nhập liệm, toàn thân ông mềm mại, vẻ mặt như còn sống. Ngày mồng Bốn tháng Ba trà tỳ, thu được rất nhiều xá lợi, thọ bảy mươi chín tuổi.

(theo Lý Tế Hoa Cư Sĩ Di Tập và các báo Liên Hợp, Dân Tộc v.v…)
Nhận định:
Ấn Quang đại sư nói:“Chịu giúp người tịnh niệm vãng sanh thì cũng sẽ được hưởng báo có người trợ niệm!”. Ông Lý sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn, đề xướng trợ niệm nên được liên hữu đại chúng trợ niệm vãng sanh.

Ngôn giáo chẳng bằng thân giáo nên ông chọn đúng vào lúc pháp hội định kỳ để tọa hóa, ngõ hầu đại chúng cùng thấy cùng tin, gấp gáp bắt chước theo đồng sanh Tây Phương vậy!


51. Chánh trợ song tu
Cư sĩ Tử Bình Trần Tự Quân thời Dân Quốc, là nguời huyện Ðịnh Hải, tỉnh Triết Giang. Lúc chưa tốt nghiệp đại học Pháp Chánh ở Thượng Hải, bố vợ ông đã mở sẵn xưởng dệt Thiên Nhất ở Tân Long Hoa, Thượng Hải, giao cho ông làm đổng sự trưởng.

Năm Dân Quốc 11 (1922), tốt nghiệp xong, ông vừa đúng hai mươi ba tuổi. Do nghiên cứu kinh luận Tịnh Ðộ, ông liền quyết tâm bỏ thuốc lá, rượu chè, cờ bạc, đồ mặn để trường trai lễ Phật. Năm hai mươi bảy tuổi, ông quy y với lão pháp sư Hưng Từ ở núi Thiên Thai, cầu truyền ngũ giới. Mỗi ngày ông lo kinh doanh, tối đến tụng kinh, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Thương những người nghèo bị bịnh, không đủ sức trị bịnh, ông liền cùng chú lập ra Bảo Khang Trai để thí thuốc và chữa bịnh rộng rãi. Ông còn phát động việc thành lập Thượng Hải Bần Bịnh Cứu Tế Hội, thay mặt gia đình đưa người bịnh vào bịnh viện chữa trị để những người bịnh đều được lành.

Năm Dân Quốc 21 (1932), quê ông bị đại hạn, ông liền cùng những đồng hương lo vận chuyển lương thực chẩn tế những người đói nghèo. Năm sau, gặp phải tai nạn bão lốc, nhiều căn nhà bị sụp đổ, ông liền xin hội Cứu Tế phát gạo chống đói.

Năm Dân Quốc 38 (1949), ông ngầm rời khỏi Ðại Lục, trốn sang Hương Cảng rồi sang Ðài Loan. Năm Dân Quốc 42 (1953), ông quy y đại sư Ðạo An, được đặt pháp danh là Trí Thặng. Ông liền chọn mua đất, xây dựng chùa Tùng Sơn, thỉnh ngài Ðạo An làm trụ trì, tự mình làm giám viện. Ðến năm Dân Quốc 55 (1966), đại điện lạc thành; thỉnh pháp sư Linh Căn tiếp nhận chức Giám Viện kiêm phó trụ trì, ông tiếp tục xây dựng điện đường hai bên và liêu phòng để tạo thành chốn tùng lâm vĩnh viễn cho mười phương.

Ông lại chắt mót tiền xây dựng biệt thự Tịnh Liên ở sau chánh điện, thỉnh những vị cư sĩ như Mao Dịch Viên… gồm chín người cùng ở để cộng tu. Ông thường lãnh đạo Tinh Tấn Phật Thất để cầu sanh Cực Lạc. Ðể tiếp độ rộng rãi những người sơ cơ, ông Mao soạn thuật cuốn Niệm Phật Tam Yếu. Ông liền đứng ra in đến mười vạn hai ngàn cuốn, gởi tặng khắp nơi trong ngoài nước để quảng kết tịnh duyên.

Ðể mình lẫn người đều được lợi, ông Mao lại biên soạn, kết tập bộ Tịnh Ðộ Tùng Thư; Trần Cư Sĩ liền phát động các vị đại đức, các chùa miếu, các nhà xuất bản lớn trong ngoài nước hoan hỷ hỗ trợ ấn loát hoặc kết ước hỗ trợ. Sách in ra và số tiền dành cho ấn loát còn dư, ông bèn giao cho Ðài Loan Ấn Kinh Xứ lưu thông và tục bản để tác phẩm ấy được hoằng dương rộng rãi.

Tháng Tư năm Dân Quốc 62 (1973), ông phát tâm bế quan ba năm để chuyên tu Tịnh nghiệp. Ðến khi mãn kỳ bế quan, ông lại càng thêm tinh tấn. Ngày mồng Bốn tháng Chạp năm Dân Quốc 71 (1982), đột nhiên ông thị hiện mắc bịnh nhẹ; mới vào bịnh viện được một tuần, ông đã trở về biệt thự tịnh dưỡng, ăn uống như thường. Ðến ngày mồng Bốn tháng Giêng năm Dân Quốc 72 (1983), ông chợt bỏ không ăn sáng, há to miệng niệm Phật. Ông Mao liền hối đại chúng trợ niệm. Ðến một giờ trưa, miệng ông mới dần khép lại; mặt hiện vẻ tươi cười, an tường về Tây, thọ tám mươi bốn tuổi.

Mọi người tiếp tục thay phiên trợ niệm cho đến khi toàn thân lạnh hết nhưng đảnh đầu vẫn còn ấm. Ðến giữa trưa ngày hôm sau làm lễ đại liệm, toàn thân vẫn mềm mại. Ngày mồng Mười lúc làm lễ công tế17, da dẻ ông trông còn tươi tắn mịn hơn lúc còn sống. Trà tỳ thu được rất nhiều xá lợi.

(theo tạp chí Sư Tử Hống, bộ 20, kỳ 9)
Nhận định:
Cả một đời lấy Tín - Nguyện - Hạnh làm Chánh Hạnh, lấy việc làm lành, dựng chùa làm Trợ Hạnh. Ông đã tích tụ nhân duyên phước đức thiện căn rất nhiều. Xả báo an tường, vẻ mặt tươi vui thì ắt phải được trông thấy Phật đến tiếp dẫn. Ðảnh đầu ấm, thân mềm mại, tươi tắn hơn lúc còn sống, xá lợi rất nhiều thì ắt phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh, thật đáng nên noi gương!
52. Càng bịnh càng tinh tấn
Cư sĩ Ổ Dư Khánh thời Dân Quốc, người huyện Phụng Hóa, tỉnh Triết Giang; tánh tình trung hậu, thuần phác.

Năm Dân Quốc 35 (1946), ông đến Ðài Loan, kinh doanh xưởng phụ tùng xe hơi Quốc Quang và xưởng dụng cụ giao thông Trung Lập khá thành công. Năm Dân Quốc 56 (1967), ông được đồng hương rủ đến chùa Pháp Hoa ở Ðài Bắc nghe hòa thượng Tịnh Không giảng kinh; ông liền theo học Phật, tiếp nhận sự un đúc của Phật Pháp. Ông quy y với lão hòa thượng Quảng Khâm ở Thổ Thành và trưởng lão Sám Vân ở Thủy Lý, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới.

Mùa Ðông năm Dân Quốc 67 (1978), ông đến chùa Vĩnh Minh ở núi Dương Minh để thọ giới Bồ Tát tại gia. Ông nghiêm trì giới luật, chuyên tu Tịnh nghiệp, niềm tin vững vàng, ý nguyện thiết tha cầu sanh Tây Phương. Ông thường cúng Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, bố thí làm phước chẳng tiếc sức lực. Ông cùng các liên hữu thành lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Lâm ở Tam Giáp, Hoành Khê. Ông được cử làm Lâm Trưởng (người đứng đầu Tịnh Nghiệp Lâm), lãnh đạo đại chúng cùng trụ trong Lâm để cùng tu.

Mùa Hạ năm Dân Quốc 70 (1981), vì bịnh tật, ông phải về nhà chữa trị, nhưng niệm Phật càng thêm tinh tấn chẳng lười. Ðầu tháng Ba năm Dân Quốc 72 (1983), chợt ông bị bí đường tiểu tiện, trị liệu cách nào cũng vô hiệu, phải đưa vào bịnh viện Trung Hưng ở thành phố Vĩnh Hòa để chữa. Tuy đau đớn tột bậc, trong tâm ông vẫn niệm Phật chẳng ngớt. Ngày hai mươi mốt tháng Ba, ông chợt bảo người con trưởng đang trông bệnh rằng:

- Từ ngày mai các con đừng có đi đâu!

Ngày hôm sau, gần trưa, bác sĩ đến khám toàn thân, thấy tất cả đều bình thường, dặn dò ông phải nghỉ ngơi chu đáo, ông Ổ bảo:

- Hiện tại tôi rất thoải mái, cảm ơn ngài!

Lát sau, ông bảo đứa con gái út nâng đầu giường lên cao hơn, kê gối cho ông dựa. Cô hỏi:

- Có chuyện gì làm ba không được thoải mái hả?

- Không có!

Ðúng mười một giờ trưa, ông chợt mỉm cười, hai đùi chợt khép sát vào nhau, hai tay giở lên như thể đang co chân ngồi dậy, chắp tay; há miệng niệm Phật mà qua đời, thọ bảy mươi tư tuổi. Toàn thể quyến thuộc đều vây quanh cao giọng trợ niệm. Trưởng lão Sám Vân và các vị pháp sư, cư sĩ và đạo sư của Tịnh Nghiệp Lâm, lâm hữu v.v… cũng theo nhau đến, tính ra hơn bốn mươi người luân phiên trợ niệm. Ðến khoảng sáu giờ tối, toàn thân đều lạnh, chỉ còn mỗi đảnh đầu là ấm.

Trợ niệm đến chín giờ rưỡi mới bắt đầu rửa ráy, thay áo. Vì tứ chi của ông đã cứng đờ nên trưởng nữ dùng khăn nóng ủ lên hai khủy tay, chợt ngửi thấy mùi hương thanh khiết bốc ra từ hai tay áo ông. Ngày hôm sau đại liệm, hai tay ông mềm mại, những vệt đen trên mặt biến đâu hết, vẻ mặt ông vui tươi đẹp đẽ hơn lúc sống. Từ lúc ấy, dù ngày hay đêm, quyến thuộc đều nghe trên không có tiếng niệm Phật, cho đến lúc pháp hội Niệm Phật bốn mươi chín ngày đã nghỉ rồi vẫn nghe có tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng tới.

(theo tạp chí Huệ Cự, bộ 22, kỳ 9)
Nhận định:
Một phen nghe giảng kinh liền theo Phật môn, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới, chuyên tu Tịnh nghiệp, đấy chính là căn lành từ bao kiếp thành thục.

Lập Tịnh nghiệp lâm để cộng tu là người tự lợi, lợi tha. Càng bịnh càng tinh tấn là mượn bịnh để tiềm tu. Chợt dặn dò ngày mai đừng đi đâu là biết trước thời khắc.

Mỉm cười chắp tay ắt là thấy Phật hiện đến tiếp dẫn. Khiến cho quyến thuộc thường nghe tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng lại để họ biết là mình đã vãng sanh trong thượng phẩm, nhằm khiến họ đều tín nguyện sanh Tây. Phàm những ai tuổi già lắm bệnh, xin hãy bắt chước ông tinh tấn!
53. Tự hành, dạy người khác
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam thời Dân Quốc, hiệu Tuyết Hư hay Tuyết Tăng; người thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Ðông. Tự bé, ông đã dĩnh ngộ, hiếu học. Ông chuyên học về pháp luật chánh trị và học cả Trung Y, nghiên cứu Phật học: Giáo, Thiền, Tịnh, Mật ông đều thường tu trì. Ông từng giữ chức giám ngục của huyện Cử, nhưng nhân từ tột bực, chung thân ăn chay.

Ông quy y với vị Tổ thứ mười ba của Tịnh tông là Ấn Quang đại sư, được ban hiệu là Ðức Minh. Ông gắng sức tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh nghiệp. Sau ông đáp lời mời, làm bí thư cho vị chủ nhiệm quản trị nha thờ phụng Ðại Thành Chí Thánh Tiên Sư (Khổng Tử). Ông theo chủ nhiệm Khổng Thượng Công (Khổng Ðức Thành) thiên di theo chính phủ về Trùng Khánh, sống ở biệt thự Ỷ Lan thuộc núi Ca Nhạc. Mỗi sáng sớm, ông lên chùa Vân Ðảnh để lễ tụng, niệm Phật. Ít lâu sau, ông lãnh trách nhiệm giảng dạy cho Phật Học Giảng Diễn Hội của chùa mấy năm, người tin theo rất đông. Năm Dân Quốc 35 (1946), theo Khổng Thượng Công trở về Nam Kinh, ông thường giảng kinh tại chùa Phổ Tế và Chánh Nhân Liên Xã.

Tháng Hai năm Dân Quốc 38 (1949), vào lúc sáu mươi tuổi, ông theo Khổng Thượng Công qua Ðài Loan, ngụ tại thành phố Ðài Trung. Vừa mới sắp xếp công vụ xong, ông đã tìm được chùa Pháp Hoa làm cơ sở hoằng pháp và lập phòng chẩn mạch Trung Y, lập Bồ Ðề Y Viện và Thí Y Hội v.v… để chữa trị, hốt thuốc miễn phí. Ông khởi xướng những sự nghiệp hoằng hóa, từ thiện để tiếp dẫn quần cơ đồng tu Tịnh Nghiệp. Ông trù bị, tổ chức và thành lập Ðài Trung Liên Xã và đoàn thể hoằng pháp, diễn giảng các kinh điển của đạo Nho và đạo Thích.

Ông thường nhóm chúng niệm Phật; cử phái viên hoằng pháp đến thăm các nhà giam và những gia đình liên hữu. Do đó, pháp duyên ngày càng rộng rãi; tòa giảng kinh của ông mở rộng đến các chùa Linh Sơn, Bảo Giác, Bảo Thiện v.v… Ông còn khuếch trương những cơ sở truyền giáo khắp cả Tam Ðài (Ðài Bắc, Ðài Trung và Ðài Nam), chuyên hoằng dương Tịnh Ðộ phổ độ chúng sanh.

Mỗi năm, cử hành Phật thất nhiều lần; lần nào ông cũng đích thân chủ trì, ân cần, thiết tha huấn thị. Ông thường soạn các tài liệu Phật học hàm thụ và vấn đáp, soạn các chương trình phát thanh miễn phí gởi tặng các đài phát thanh. Về trước tác có: A Di Ðà Kinh Trích Chú Tiếp Mông Kỵ Nghĩa Uẩn (lược chú kinh Di Ðà để những người kém hiểu biết lãnh hội được ý nghĩa sâu xa), Ðại Chuyên Học Sinh Phật Học Giảng Tòa (tài liệu giảng dạy Phật học cho sinh viên chuyên ngành Phật học) gồm sáu cuốn; Phật Học Vấn Ðáp Loại Biên, Hoằng Hộ Tiểu Phẩm Vựng Tồn v.v… hóa độ nhân gian.

Nhân đó, ở các nơi gần hay xa, mọi người đều được bình đẳng hưởng thụ pháp ích. Sau ông nghỉ việc để tăng thời gian hoằng pháp; luôn luôn khuyên người khác tin sâu nhân quả, thật thà niệm Phật. Ngày mười hai tháng Tư năm Dân Quốc 75 (1986), ông bảo đệ tử hầu cận:

- Ta sắp đi đây!

Ðến sáng hôm sau, ông niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn, dặn dò đệ tử rồi nằm yên lành mà tịch, thọ chín mươi bảy tuổi. Lúc trà-tỳ, thu được hơn cả ngàn viên xá lợi ngũ sắc.

(theo Lý Công Tuyết Hư Lão Cư Sĩ Lược Sự)
Nhận định:
Mỗi sáng đều lễ tụng niệm Phật, đấy là tự hành chuyên tu. Thường giảng kinh thuyết pháp, tổ chức Liên Xã và Hoằng Pháp Ðoàn, tổ chức rộng rãi các cơ sở truyền giáo, thường nhóm chúng niệm Phật, cử hành Phật thất; đấy đều là vì làm cho người khác chuyên tu. Tuy là một vị cư sĩ tại gia, nhưng có thể tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh Nghiệp, đồng sanh Cực Lạc, thật đúng là gương mẫu!
54. Lâm chung thập niệm


Каталог: Luan
Luan -> Trung tâM ĐÀo tạo mạng máy tính nhất nghệ 105 Bà Huyện Thanh Quan – 205 Võ Thị Sáu, Q3, tp. Hcm
Luan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài

tải về 1.38 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương