NIỆm phật pháp yếU 念佛法要 Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập (惕園毛凌雲敬緝)



tải về 1.38 Mb.
trang13/19
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1.38 Mb.
#8425
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   19

60. Miễn cưỡng niệm Phật

Cư sĩ Dư Tông Thị đời Thanh, người Từ Châu; con là Hòa Thượng Chiếu Minh trụ trì chùa Cao Mân ở Dương Châu, lập thất đón đến ở. Bà nhớ nhà quá, bèn bảo Hòa Thượng là phải về ngay lo việc nhà. Sư giảng cho bà nghe pháp Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã; khuyên mẹ nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Mẹ chẳng tỉnh ngộ, sư liền tránh mặt, chẳng gặp; van nài cũng chẳng đến. Không biết làm sao, bà đành miễn cưỡng trì danh, cho là khốn khổ lắm.

Ở chùa ba năm, niệm hơi thuần thục, bà bắt đầu sanh lòng tin sâu xa, thọ Bồ Tát giới, sáng tối lễ Phật rất cung kính. Hòa Thượng đến gặp, hỏi còn nhớ nhà không? Bà nói: “Niệm Phật vui lắm, không nhớ nhà nữa!”

Một ngày nọ, bà ngồi ở sân trước, hướng mặt về tháp niệm Phật, chợt thấy ánh sáng chói lòa, thấy thế giới sắc vàng ròng rực rỡ không bờ bến: Tường, vách, cây cối đột nhiên biến đâu mất hết. Mừng quá, bà nhỏm ngay dậy tiến đến thì chẳng thấy gì nữa. Từ đó, lục căn rỗng rang, động, tịnh, đứng, ngồi chẳng sanh niệm nào khác. Lâu sau, mộng thấy đến một nhà kia, có một người đàn bà đang ngồi trên nệm, kinh ngạc bảo:

- Sao mình lại đến đây? Ta chỉ cầu sanh Tây Phương. Nhập thai, xuất thai thật đáng sợ hãi quá!

Bà chạy mau ra khỏi nơi đó, sợ đến nỗi tỉnh dậy. Sáng ra, bảo với Hòa Thượng:

- Sanh duyên của tôi đến nay đã tận; xin vì tôi nhóm Tăng niệm Phật, đưa tôi về Tây!

Bà liền ngồi hướng mặt vềTây, qua đời.

(theo Thiện Nữ Nhân Truyện)
Nhận định:
Chúng ta niệm Phật sanh tâm lơ là thì phải miễn cưỡng mà hành: Người đã niệm được một thì sẽ niệm đến mười, niệm được trăm thì gắng niệm đến ngàn. Lâu dần thuần thục, thành công cũng như nhau. Lúc lâm chung, mộng thấy người đàn bà ngồi trên đệm; nếu lục căn chẳng rỗng rang, sanh kinh sợ bỏ chạy gấp, sẽ vào trong thai người khác bèn đọa luân hồi, cầu sanh về Tây lần nữa làm sao nổi? Nguy hiểm thay!
61. Nằm, ngồi đều hướng về Tây
Cư sĩ Châu Dương Huệ Khanh thời Dân Quốc, quy y Hòa Thượng Hư Vân, được đặt pháp danh là Khoan Huệ, tự Phật Trí, là phu nhân của cư sĩ Bang Ðạo Chu Khánh Quang, thứ trưởng đặc trách bộ Khảo Tuyển. Nhờ dịp may, theo chồng đi nhậm chức ở Nam Kinh, ngụ tại Lan Viên. Có một vị lão tăng từ núi Cửu Hoa đến bảo:

- Bà tu trì nhiều đời. Sau năm bốn mươi tuổi, ắt sẽ học Phật thành công.

Sau bà nghe kinh Ðịa Tạng, ngắm bức tranh thờ của Ðại Sĩ, mới biết đích xác vị lão tăng ấy chính là hóa thân của Ðịa Tạng Bồ Tát. Năm bốn mươi, bà sống tại Kiềm Ðông, Ðồng Giang, quả nhiên phát tâm học Phật, chẳng tìm được thầy. Bà mộng thấy hai vị Tăng to lớn đồng ý giới thiệu giúp.

Ít lâu sau, nơi hội Quán Âm ở miếu Ðông Nhạc, chợt nghe có tiếng trên không nói: “Quy y Tam Bảo”; bà liền thấy vị vân du tăng tên là Khoan Ngoạn, bà xin được quy y. Sư dạy bà trì thánh hiệu Quán Thế Âm và chú Ðại Bi. Trong mộng, bà lại thấy vị lão tăng núi Cửu Hoa dạy tụng kinh A Di Ðà. Từ ngày ấy trở đi, bà lấy đó làm thường khóa, tụng chú vào nước, nước phát quang. Cho chó dữ uống, nó trở thành thuần lương; đem trị bệnh cho người liền lành, cứu sống vô số người. Lòng từ ái thấu đến những con vật khiến cho con yểng bà đã thả đi lại về làm tổ dưới mái nhà, loài kiến đỏ nghe kinh, mèo chuột sống hòa thuận với nhau. Lòng tin của bà cảm động cả dị loại: bà thường mộng thấy cô gái đẹp dẫn bà lễ Phật, nghe kinh, hoặc chỉ dạy cách tu trì, hoặc dẫn qua chơi cảnh Cực Lạc, hoặc chỉ dạy phương hướng tránh tai nạn v.v… rất linh nghiệm. Vì thế, bà thường coi giấc mộng là niềm vui.

Sau khi đã đến Ðài Loan, bà theo lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam chuyên tu Tịnh nghiệp. Mùa Thu năm Dân Quốc bốn mươi ba (1954), bà thọ Bồ Tát giới, nghiêm trì giới luật, sáng chiều phải tụng niệm thường khóa xong mới ăn uống hay ngủ nghỉ. Nằm, ngồi đều hướng về Tây, thường thấy quang minh, thấy Phật càng cao, càng sáng, cảnh giới rất nhiều, nhưng đều giấu kín chẳng nói ra. Mùa Thu năm Dân Quốc 51 (1962), phát nguyện tụng kinh Ðịa Tạng để cầu thọ cho mẹ, nhiều lần thấy hoa đèn hiện xá lợi. Mùa Ðông năm ấy bà bị ung thư gan, niệm Phật càng thêm khẩn thiết.

Ngày 20 tháng Ba năm Dân Quốc 52 (1963), bệnh tình nguy ngập, bà di chúc in kinh, vẽ tượng, thờ Phật, cúng dường, không nói chuyện gì khác, thầm niệm hồng danh theo đại chúng rồi qua đời. Nơi ấn đường phóng quang nhiều lần.

Lúc tẫn liệm, thân vẫn an tường, mềm mại. Tối hôm sau, khi làm xong lời ước hẹn với bà, người cùng thọ Bồ Tát giới là Trịnh Khương họ Chơn mộng thấy bà về bảo: “Ðã sanh Cực Lạc, được thân cận Di Ðà, Quán Âm”. Trà tỳ thu được hơn ba trăm viên xá lợi, thọ sáu mươi ba tuổi. Lúc làm tuần 21 ngày, bà hiện tướng trên không mặc áo hải thanh18, đứng trên sen hồng cho đại chúng cùng được thấy. Năm người con trai, hai người con gái của bà đều học hành xuất sắc, thành đạt.

(theo Châu Dương Huệ Khanh Cư Sĩ Kỷ Niệm Lục)


Nhận định:
Chồng vinh, con quý là phước báo do tu trì từ bao nhiêu kiếp. Nhưng phú quý học đạo rất khó, bà may mắn được đức Ðịa Tạng hóa thân thọ ký, trong mộng dạy kinh, mộng thấy vị Tăng to lớn giới thiệu cho được thọ Tam Quy. Mộng thấy mỹ nữ chỉ dạy cách tu trì và dẫn đi thăm Cực Lạc v.v… là thiện căn phước đức nhân duyên rất sâu. Thường thấy quang minh lẫn thân Phật, xá lợi thường giáng hiện, các thứ thắng cảnh là do giới hạnh tinh tấn cảm thành.

Nước Ðại Bi trị lành được các bịnh, nhưng trọn chẳng tự cứu nổi mình có phải là muốn chịu khổ thay cho chúng sanh, hành Bồ Tát Ðạo đấy chăng? Có phải là do túc nghiệp nhiều đời, một đời này báo tận nên tạm chịu nỗi khổ nhỏ để vĩnh hưởng Cực Lạc đấy chăng?

Xem trong di chúc, chẳng bàn đến chuyện gì khác là chẳng tham luyến. Niệm Phật theo đại chúng là chánh niệm phân minh. Xả báo an tường là làm chủ được trong cơn bịnh khổ. Lại còn các điềm lành: phóng quang, báo mộng, lưu xá lợi, hiện tướng v.v… thì đã chứng Thượng Phẩm Thượng Sanh chẳng còn nghi ngờ gì nữa!
62. Con cháu trợ niệm
Cư sĩ Lưu Lý Cúc thời Dân Quốc là người ở thành phố Ðài Trung. Từ bé đã thông minh, dĩnh ngộ, khéo hiểu ý người khác. Ðến lớn, kết hôn với ông Lưu A Vượng, thờ cha mẹ chồng rất hiếu thuận, hòa mục đối với xóm giềng, sanh được năm trai, sáu gái. Bà giúp chồng dạy con, tánh tình ôn nhu, hiền thục, tâm địa thiện lương, tùy duyên giúp đỡ người nghèo, ai nấy đều kính trọng.

Năm Dân Quốc 68 (1979), chồng mất, bà thường sầu muộn vì nỗi khổ “ái biệt ly” (yêu thương mà phải xa lìa); may có cháu gái là cư sĩ Lưu Mạnh Chơn do nghe lão sư Lý Bỉnh Nam khai thị pháp môn Tịnh Ðộ, liền khuyên bà niệm Phật. Bà liền vui vẻ tin nhận, quy y Tam Bảo, sáng tối niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Lại còn tùy duyên cúng dường Tam Bảo, bố thí, phóng sanh. Sau đó, bà lại phát nguyện ăn chay trường, mỗi ngày công khóa niệm Phật chẳng gián đoạn. Tịnh nghiệp tinh tấn đến nỗi trong mộng cũng thường niệm Phật.

Hai năm trước khi bà được vãng sanh, bà chiếu theo lời khai thị Lâm Chung Tam Ðại Yếu (ba điều trọng yếu lúc lâm chung) của Tổ Sư Ấn Quang:

1. Khéo léo khai thị, an ủi khiến sanh chánh tín.



2. Cả nhà luân phiên niệm Phật để trợ giúp tịnh niệm.

3. Cẩn thận tránh xao động, khóc lóc khiến cho người chết bị lỡ làng”.

Ðể dặn dò toàn thể dâu, con; lại còn ghi âm làm chứng để mong con cháu trước và sau lúc bà vãng sanh sẽ khéo tuân hành theo, ngõ hầu lúc lâm chung chẳng bị chướng ngại, quyết được vãng sanh Tây Phương. Tuy tuổi đã ngoại bát tuần, thân thể bà vẫn khang kiện.

Ðến giữa trưa ngày hai mươi hai tháng Chạp năm Dân Quốc 78 (1989), bà tắm gội thay áo, tụng niệm thời khóa tối xong, bà hơi hôn mê, chẳng nói năng gì nữa. Con cháu hơn năm mươi người liền tuân theo di chúc, luân phiên niệm Phật. Liên hữu nghe tin cũng đến trợ niệm. Sau khi niệm Phật được hơn mười hai giờ một chút, bà chợt tỉnh táo, tay lần xâu chuỗi, tự nhìn tượng Phật, miệng lầm rầm niệm Phật. Giữa tiếng trợ niệm của toàn thể con cháu và các liên hữu, bà liên tục niệm Phật chẳng gián đoạn. Ðến trưa ngày hai mươi tám, bà chánh niệm phân minh, an tường mỉm cười vãng sanh; thọ tám mươi ba tuổi.

Lúc ấy, mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, ai ngửi thấy đều khen ngợi. Mọi người tiếp tục trợ niệm. Ðến ngày hôm sau, lúc tắm rửa, thay áo, thân bà vẫn mềm mại, tướng mạo hệt như lúc còn sống. Lúc nhập liệm lại ngửi thấy mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, hồi lâu chẳng tan. Con cháu cảm động, liền suốt ngày đêm niệm Phật đủ bảy ngày. Lúc trà tỳ, thu được rất nhiều xá lợi.

(theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)
Nhận định:
Ðại Sư Liên Trì nói: “Làm con đối với cha mẹ hầu hạ, phụng dưỡng cho được an ổn là hiếu; lập thân hành đạo để rạng rỡ mẹ cha là đại hiếu. Nhưng khuyên cha mẹ dùng pháp môn Niệm Phật để vãng sanh Tịnh Ðộ là đại hiếu nhất trong những sự đại hiếu!”

Vị nữ cư sĩ này tuy trước đã sẵn đủ thiện căn, nhưng lúc tuổi già khổ sở vì chồng chết, được cháu gái khuyên niệm Phật liền tín nguyện tận lực hành trì, nhưng lâm chung bị hôn mê, phải nhờ đến con cháu chia phiên trợ niệm mới tỉnh lại để niệm Phật, mỉm cười vãng sanh. Mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, tướng lành hiển nhiên. Nguyện những kẻ làm con cháu trong thế gian thấy điều lành hãy gắng làm theo mới đúng là đại hiếu nhất trong những người đại hiếu!


63. Trăm sự chẳng quản
Bà lão Bách Bất Quản đời Thanh không rõ họ tên, người Hàng Châu; từng đến hỏi Hòa Thượng Ðạo Nguyên ở Hiếu Từ Am rằng:

- Tu pháp môn gì thì trong một đời quyết sẽ thoát khỏi biển khổ?

Hòa Thượng dạy:

- Không gì bằng niệm Phật! Nhưng niệm Phật chẳng khó, niệm cho lâu bền mới khó. Niệm lâu bền chẳng khó, nhất tâm mới khó. Nếu có thể chẳng quản đến hết thảy, chuyên tâm trì danh, chí thành phát nguyện vãng sanh thì lâm chung Phật đến tiếp dẫn, sẽ thoát ly khổ hải!

Bà vui mừng lễ tạ, liền đem việc nhà giao hết cho con dâu, tự lập tịnh thất để thờ Phật hầu tu trì trong ấy. Một năm sau, lại đến hỏi:

- Từ khi được khai thị, đệ tử đã buông bỏ việc nhà, chuyên gắng niệm Phật, tự vấn thấy mình tu hành đã lâu chẳng lười nhác, nhưng khổ nỗi vẫn chưa được nhất tâm, thầy có cách nào dạy cho con!

Hòa Thượng bảo:

- Bà tuy bỏ hết việc nhà, nhưng chưa thể thôi nghĩ tưởng đến con cháu, quyến thuộc. Ðấy là ái căn chưa nhổ, làm sao nhất tâm được? Nay bà nên gia công, trước hết phải nhổ sạch ái căn, đem hết thảy buông xuống thì sau đấy mới đắc Nhất Tâm.

Bà than:

- Lời thầy thật đúng, con tuy chẳng quản đến thân, nhưng chưa thể chẳng quan tâm đến cái tâm, từ nay phải thật sự trăm việc chẳng quan tâm đến vậy!

Bà liền càng gia công tinh tấn, ái tâm vừa động liền thầm niệm ba chữ “bách bất quản” để tự khu trừ. Nếu ai hỏi đến việc nhà cũng dùng ba chữ ấy để cự tuyệt. Do vậy, thành tên Bách Bất Quản trong vòng gia thuộc. Hơn một năm sau, bà đến am, tạ:

- Thầy chẳng lừa dối con. Ðệ tử có ngày đi về Tây rồi! Vài hôm sau, không bệnh mà mất. (theo Nhiễm Hương Tập)


Nhận định:

Cư sĩ Hồ Liên Quy bình rằng: “Bách Bất Quản là hỗn danh. Nói rộng ra, từ trăm đến ngàn, ngàn đến vạn đều chẳng quản đến. Nói gọn lại, một điều còn chẳng quản, huống hồ là trăm? Làm được như vậy thì trần duyên thân sau đoạn được, tịnh nghiệp thành được. Than ôi! Thế nhân làm sao đều trăm sự chẳng quản như thế được ư?”

Pháp này tối diệu. Ai không đạt được Nhất Tâm xin hãy bắt chước cách này mà tận lực hành trì.
64. Phổ nguyện sanh Tây

Bà Châu Uông thị19 người Hoa Ðình; chồng là Châu Văn Vinh, nhà nghèo, phải đi làm ăn xa, chết nơi đất khách ở tỉnh Hồ Bắc, lâu ngày không đưa tin về; bà phải thêu thùa, may vá tự kiếm sống. Bà trường trai niệm Phật, nuôi con khôn lớn; sai tìm hài cốt cha đưa về quê an táng, cả họ khen là có hiếu. Tuổi già, bà niệm Phật càng thêm cung kính, chơn thành, nguyện cha mẹ mình, bố mẹ chồng và chồng đều được sanh về Cực Lạc.

Sau bà mắc bịnh, đóng cửa niệm Phật, chẳng hỏi đến việc nhà. Lâm chung, bảo con rằng:

- Ðêm qua, ta mộng thấy ông bà nội, ông bà ngoại và cha con đều ở trong Liên Hoa thế giới, đằng trước có mây ngũ sắc hiện, nâng một đóa sen to như cái thuyền, ta liền ngồi lên đó vãng sanh.

Nói xong qua đời, cả nhà có mùi thơm như hoa lan.

(theo Nhiễm Hương Tập)


Nhận định:

Chồng chết tu Tịnh nghiệp, nguyện chồng cùng cha mẹ mình, bố mẹ chồng cùng sanh Cực Lạc, đều được mãn nguyện. Trong đời có kẻ tuổi xuân góa chồng, nhưng chỉ uổng lưu truyền cái hư danh tiết liệt, để lỡ mất cái lợi ích thật sự được đồng quy Cực Lạc. Xin hãy bắt chước gương này!


65. Chuyên cầu thoát khổ
Thời Dân Quốc, một người phụ nữ nghèo ở huyện Từ Khê tỉnh Triết Giang, không biết họ, nhà nghèo, con ngỗ nghịch. Một ngày nọ bị con mắng nhiếc, tâm đau đớn, khó nhẫn, đến than thở với vị Tăng ở gần nhà. Vị Tăng bảo:

- Bà đã biết khổ; sao chẳng đem cái khổ ấy bán đi?

Hỏi:

- Làm sao bán được đây?



Tăng bảo:

- Bà chuyên niệm A Di Ðà Phật cầu sanh Tây Phương. Lâm chung Phật đến tiếp dẫn đi thì vĩnh viễn thoát khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui. Ðấy là bán khổ đi đó!

Bà nói:

- Mẹ con tôi sống chung một phòng. Giường và bếp kê chung một chỗ. Dưới gầm giường có chuồng heo. Bẩn thỉu như vậy làm sao niệm Phật được?

Tăng bảo:

- Không hề chi, bà sống tại gia thì chỉ cốt sao thường niệm, lúc rảnh có thể đến chùa lễ Phật.

Bà liền phụng hành đúng như lời dạy, chuyên cầu thoát khổ, niệm Phật không gián đoạn. Ba năm sau, trước lúc sắp lâm chung vài tháng, bà nói trước với con:

- Ngày tháng đó ta sẽ sanh Tây Phương. Ngươi đừng có đi ra ngoài, vì ta lo liệu hậu sự để trọn đạo làm con.

Người con chẳng tin; ít lâu sau, bà nhắc lại cũng chẳng tin. Vài ngày trước khi mất, chợt ngửi thấy mùi hương lạ, tìm khắp nơi chẳng biết từ đâu ra, mới tin lời mẹ là thật. Ðến kỳ, cả nhà trông chừng, thấy mẹ tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)


Nhận định:
Dùng cái tâm sợ khổ để niệm Phật là pháp mầu nhiệm bậc nhất để thoát khổ. Nếu chẳng phải là nhà nghèo, con ngỗ nghịch, tâm đau buồn khó chịu đựng nổi thì làm sao cam tâm chuyên cầu thoát khổ niệm Phật sanh Tây? Thuận, nghịch đều là phương tiện; nghịch cảnh còn thù thắng hơn thuận!
66. Thật thà niệm Phật

* Ðạo sĩ Vương Si Ðầu đời Thanh, người tỉnh Trực Lệ, tánh cực ngu. Cha mẹ mất, đói ăn, nằm mọp trong căn lều nát, không biết tính cách nào. Có ai cho tiền cũng chẳng biết dè xẻn. Trần đạo nhân bèn thâu gã làm đồ đệ, sai ngày ngày quét tước, hái củi; khóa chiều thì niệm Phật vài trăm câu, lễ bái, thắp hương làm lệ thường.

Vương tụng Phật hiệu chẳng thành câu, mỗi lúc hôn trầm sắp ngủ gục, ông Trần dùng gậy dài đập, quở:

- Mày đã ngu muội như vậy lại còn chẳng biết tinh tấn hay sao?

Suốt ba năm như thế. Một ngày kia, Vương ha hả cười lớn. Ông Trần lại đánh, Vương nói: “Hôm nay thầy đánh con không được đâu!” Thầy cật vấn lý do, Vương nói:

- Thầy ngồi như cây khô suốt mười tám năm, chẳng biết tu pháp. Nếu thầy có thể lễ niệm, thật thà như con thì đã sớm được sanh về Tây Phương thấy Phật rồi!

Ông Trần ngạc nhiên, nhưng không quan tâm đến lời ấy. Ngày hôm sau, Vương trèo lên Tiêu Nhai, đứng hướng về Tây, chắp tay qua đời. Trà-tỳ thu được hai viên xá lợi.

(theo Nhiễm Hương Tập)

* Thời Dân Quốc, bà A Ấu chẳng rõ họ tên, người huyện Ðài Trung tỉnh Ðài Loan, chỉ sanh được một đứa con gái, bắt con rể ở rể. Do một chữ chẳng biết nên chỉ thật thà niệm Phật. Phật thất mùa Xuân, mùa Thu ở chùa Linh Sơn, bà đều kiền thành tham gia. Bà thấy nam, nữ đồng tu đều mặc áo hải thanh, trang nghiêm chỉnh tề, liền lấy vàng để dành giao cho con rể đem bán, mong may được áo hải thanh tham gia Phật thất. Con rể chịu bỏ tiền ra may, khuyên bà đừng bán vàng. Ðến sáng sớm ngày thứ nhất của Phật thất, bà tắm gội, thay áo, mặc áo hải thanh mới. Trong lúc đang thắp hương, đốt đèn, liên hữu là A Tam Muội đến rủ đi dự Phật thất. Bà Ấu nói:

- Cô đi trước đi, tôi lễ Phật tại nhà trước đã!

Bà mới hoan hỷ lại ba lạy xong, chợt thấy thánh tượng của Tam Tôn xoay tròn, hương cũng xoay theo, càng nghĩ càng thấy kỳ, càng nhìn càng thấy chuyển. Bà liền đi kêu mấy liên hữu ở gần đến xem. Ai cũng bảo là chẳng thấy chuyển động. Chẳng nghe bà ừ hử gì, lúc quay đầu ngó lại, thấy bà đứng thẳng, chắp tay, mỉm cười quy Tây rồi, thọ sáu mươi tám tuổi. Họ liền trợ niệm cho bà, lại dặn cả nhà đồng thanh niệm Phật.

(theo Niệm Phật Cảm Ứng Kiến Văn Ký)



Nhận định:
Phật dùng thuyền từ phổ độ, khiến kẻ ngu phu, ngu phụ chỉ biết già dặn chắc thật niệm Phật. Một đạo sĩ si ngốc, một bà lão ngu ngơ trên đây tuy chưa từng thọ Tam Quy, Ngũ Giới nhưng do già dặn, chắc thật niệm Phật nên đứng chắp tay mà hóa, ắt họ đều thấy Phật đến tiếp dẫn, vãng sanh Cực Lạc. Xin những kẻ tự cậy mình thông minh, chẳng chịu niệm Phật hãy biết chỗ quy hướng vậy!

Niệm Phật Pháp Yếu

Quyển thứ hai hết


(Phật Lịch 2546, Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa kính dịch xong ngày 06 tháng 01 năm 2003)
Phụ Lục:

Bí Quyết Niệm Phật của

Ấn Quang đại sư
Tâm tánh của ta giống hệt chư Phật, chỉ do mê trái, luân hồi chẳng ngơi!

Như Lai từ mẫn, tùy cơ thuyết pháp, khiến khắp hàm thức biết đường về nhà.

Pháp môn tuy nhiều, cốt yếu chỉ hai là Thiền và Tịnh; liễu thoát dễ nhất.

Thiền chỉ tự lực, Tịnh kiêm Phật lực. So sánh hai pháp, Tịnh khế cơ nhất.

Như người vượt biển phải nhờ thuyền bè chóng đến bờ kia, thân tâm thản nhiên.

Chúng sanh đời mạt, chỉ pháp này hành nổi. Nếu không, trái nghịch căn cơ, nhọc nhằn nhưng khó thành.

Phát đại Bồ Ðề, sanh chơn tín nguyện, suốt đời kiên trì, chỉ nghĩ đến Phật.

Niệm cực, tình mất, niệm mà vô niệm. Diệu nghĩa Thiền, Giáo triệt để hiển hiện.

Ðến lúc lâm chung, được Phật tiếp dẫn. Lên ngay thượng phẩm, chứng vô sanh nhẫn.

Có một bí quyết, khẩn thiết bảo ban, cạn lòng thành kính, diệu, diệu, diệu, diệu!


NIỆM PHẬT PHÁP YẾU

QUYỂN THỨ BA


NIỆM PHẬT DẪN CHỨNG
Niệm Phật PhápYếu

Quyển thứ ba

Каталог: Luan
Luan -> Trung tâM ĐÀo tạo mạng máy tính nhất nghệ 105 Bà Huyện Thanh Quan – 205 Võ Thị Sáu, Q3, tp. Hcm
Luan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài

tải về 1.38 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương