NIỆm phật pháp yếU 念佛法要 Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập (惕園毛凌雲敬緝)



tải về 1.38 Mb.
trang10/19
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1.38 Mb.
#8425
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   19

10. Kết xã khích lệ lẫn nhau

Ðại sư Tạo Vi Tỉnh Thường đời Tống là Tổ thứ bảy của Liên Tông. Ngài họ Nhan, người huyện Tiền Ðường. Bảy tuổi xuất gia, mười bảy tuổi thọ Cụ Túc Giới. Ngài lấy việc kiên trì giới luật, chuyên xưng danh hiệu, phát Bồ Ðề tâm, kết xã để khích lệ lẫn nhau làm chánh nhân Tịnh Ðộ.

Ngài trụ tại chùa Chiêu Khánh ở Hàng Châu, hâm mộ di phong Lô Sơn của Tổ Huệ Viễn nên thành lập Tịnh Hạnh Xã. Trong nhóm sĩ phu dự hội có quan Tướng Quốc Văn Chánh Vương Công Ðán v.v… một trăm hai mươi người đều xưng là Tịnh Hạnh Ðệ Tử, còn Tăng thì có đến một ngàn vị đồng tu Tịnh nghiệp. Ngài cắt máu chép kinh phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày chép một chữ, ba lạy, nhiễu ba vòng, ba lượt xưng danh hiệu Phật. Chép được ngàn quyển, thí cho ngàn người. Ngài dùng chiên đàn hương khắc tượng Phật Vô Lượng Thọ, quỳ trước tượng, phát nguyện:

- Con cùng đại chúng bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi phát Bồ Ðề tâm. Cho đến cùng tột đời vị lai, hành hạnh Bồ Tát. Nguyện hết một báo thân này sẽ sanh An Dưỡng

Một hôm, trong lúc ngồi nghiêm trang niệm Phật, ngài chợt kêu to: “Phật đến rồi!” tự nhiên hóa. Ðại chúng thấy đất đều có màu vàng ròng. Sư thọ sáu mươi hai tuổi.

(Theo Phật Tổ Thống Ký)


Nhận định:
Kết xã khích lệ lẫn nhau đúng là tự lợi, lợi tha. Nhưng để thực hành được điều này trong hiện tại, phải có bậc hữu đức thống suất đại chúng cộng tu, rất kỵ nam nữ hỗn tạp. Nếu không có được cơ duyên như vậy thì chẳng bằng đóng cửa tiềm tu, so ra còn dễ tinh tấn hơn!

11. Thề tu hành đến chết

Ðại sư Từ Vân Tri Bạch Tuân Thức đời Tống, người xứ Ninh Hải, họ Diệp. Lúc đầu học Luật, sau nghiên cứu giáo nghĩa tông Thiên Thai, luôn siêng khổ, tự khích lệ. Sau ngài qua chùa Bảo Vân tu pháp Ban Châu Tam Muội, nhọc nhằn đến nỗi thổ huyết, hai chân toạc cả da, thề tu hành đến chết. Ngài mộng thấy đức Quán Âm chỉ vào miệng, khều ra mấy con trùng, dùng cam lộ rưới vào; tỉnh dậy, thân tâm thanh lương, các bệnh tật mất hết, trí huệ, biện tài vô ngại. Ngài viết bài ký thề sanh Tây Phương; rồi liền kết hội Tăng lẫn tục chuyên tu Tịnh nghiệp.

Ít lâu sau, ngài trở về Ðông Dịch, lập tinh xá, suất lãnh đại chúng chuyên tu Niệm Phật tam-muội. Tuổi già, ngài trụ trì các chùa Chiêu Khánh, Linh Sơn v.v…. ở Hàng Châu, xin quan cai trị địa phương là Vương Hân Nhược phê chuẩn cho dùng Tây Hồ làm ao phóng sanh. Ngài soạn các sám pháp viên dung Tam Quán, lấy Tịnh Ðộ làm chỗ quy thú. Ngài soạn sách Tịnh Ðộ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn và đề ra pháp Thập Niệm vào lúc sáng sớm, soạn Vãng Sanh Lược Truyện v.v… lưu hành trong đời.

Ðột nhiên ngài làm thơ từ tạ thế gian và tỏ lời từ biệt đại chúng, cho biết ngài sắp quy tịch. Ngài liền thị hiện có chút bệnh, từ chối không dùng thuốc, lược nói pháp yếu cho đại chúng, thắp hương lễ Phật, thỉnh Phật chứng minh, vãng sanh An Dưỡng; lại còn bày tỏ chỗ mình muốn về là Tịch Quang Tịnh Ðộ. Ðến chiều, ngài tọa hóa, thọ sáu mươi chín tuổi.

(Theo Phật Tổ Thống Ký)
Nhận định:
Muốn cầu được phú quý trong đời hiện tại còn phải ra sức đến chết, huống hồ là muốn liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ư? Nếu chẳng lấy cái chết làm lời thề thì làm sao tọa hóa, vãng sanh cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ cho được?

12. Thỉnh Tăng trợ niệm

Ðại sư Tư Chiếu đời Tống, họ Dương, người huyện Tiền Ðường. Thuở nhỏ theo học với ngài Thần Ngộ lãnh hội được yếu chỉ rất nhiều. Ngài cắt máu chép kinh Pháp Hoa đến mười bộ; cứ mỗi một chữ là một lạy. Ngài tụng Quán kinh được năm tạng, kinh Di Ðà mười tạng, kinh Pháp Hoa một ngàn bộ. Lễ các kinh Hoa Nghiêm, Phạm Võng, bảy kinh Tịnh Ðộ v.v… được hai trăm bảy mươi quyển. Ngài chuyên tu Niệm Phật tam muội, dựng một am nhỏ đặt tên là Ðức Vân, khắc tượng Tam Thánh. Mỗi đêm, vừa mới canh tư đã dạy niệm Phật. Tỳ-kheo lười nhác nghe tiếng ngài niệm mà run rẩy. Mỗi tháng, vào ngày 23, Sư suất lãnh Tăng, tục hệ niệm Tam Thánh. Suốt cả ba mươi năm, đại chúng nhóm về thường đến cả ngàn người.

Ngài chợt bảo đồ chúng:

- Ta mộng thấy thân Phật vàng trượng sáu, đấy là điềm vãng sanh.

Liền yêu cầu bảy vị tăng trợ niệm. Ðến tối ngày thứ bảy, ngài chợt nhỏm dậy, chắp tay, lớn tiếng niệm Phật, ngồi xếp bằng, kết ấn mà hóa. Lúc trà tỳ, răng ngài rực sáng như ngọc.

(theo Phật Tổ Thống Ký)


Nhận định:
Ðại Sư chuyên tu Niệm Phật Tam Muội ba mươi năm, trước khi lâm chung mộng thấy Phật mà còn thỉnh Tăng trợ niệm. Bọn phàm phu chúng ta rất phải nên chú ý điểm này.
13. Ði kinh hành thành vết trũng

Ðại sư Nghĩa Tú đời Minh, người xứ Ôn Lý. Trụ tại am Tán Thán ở đất Bồ, nhật khóa niệm A Di Ðà Phật hơn mười vạn tiếng, sáng chiều không gián đoạn suốt hơn năm mươi năm. Chỗ ngài đi kinh hành gạch mòn thành vết trũng, hoặc thủng xuống tận đáy. Người khác thử sửa sang, ít lâu sau lại mòn như cũ.

Thoạt đầu có kẻ nghèo chẳng tự kiếm ăn nổi, đến sống nhờ [nhà chùa]; lâu ngày, gã làm điều bất thiện. Sư quở: “Ngươi đúng là giặc!” Hắn bèn ước hẹn đồng bọn, nhân đêm tối đến đánh Sư. Ðánh lần thứ nhất, tiếng niệm Phật vẫn còn vang rền. Ðánh lần nữa, tiếng niệm Phật vẫn chẳng dứt. Ðến khi khí tuyệt, Sư bèn tịch.

(Theo Tử Bách Lão Nhân Tập)


Nhận định:
Ðại sư Tử Bách ca ngợi: “Ðến lúc sắp chết, tiếng niệm Phật vẫn chẳng dứt. Ngay cả khi bắp đùi đã gãy, ngài vẫn còn có thể ngồi xếp bằng để qua đời. Nếu chẳng phải là suốt năm mươi năm chí khí kiên cường lẫm lẫm thì làm sao đạt nổi như thế?”

Ðây chỉ là nghiệp trái nhiều đời, nhân duyên hội ngộ nên trả nợ ngay trước khi vãng sanh. Chớ lầm là vì cả một đời niệm Phật nên mắc phải ác báo!


14. Rộng tu các điều thiện
Ðại sư Liên Trì Phật Huệ Châu Hoằng đời Minh là Tổ thứ tám của Liên Tông. Người xứ Nhân Hòa, họ Trầm. Năm mười bảy tuổi, được bổ làm thầy dạy các sinh đồ vì học vấn và đức hạnh đều xứng đáng. Ngài nghe người hàng xóm trì danh hiệu Phật, không bịnh tật gì mà mất, biết niệm Phật có công đức chẳng thể nghĩ bàn, liền dốc lòng gửi nơi Tịnh Ðộ, viết câu “sanh tử là việc lớn” (sanh tử sự đại) treo ngay đầu án thư để tự răn nhắc mình. Năm ba mươi hai tuổi ngài xuất gia, tham yết các vị đại lão Biến Dung, Tiếu Nham… tham cứu câu “người niệm Phật là ai?” có phần lãnh hội.

Sau ngài trụ trong núi Vân Thê. Do trong núi có lắm hổ, ngài bèn vì mọi người tụng kinh thí thực, nạn hổ liền dứt. Năm đại hạn, dân cư xin ngài cầu mưa. Ngài đi quanh ruộng niệm Phật, theo bước chân ngài mưa liền trút xuống. Mọi người vui sướng bèn cùng nhau sắm sửa vật liệu dựng chùa. Tăng chúng ngày càng quy tụ về, liền trở thành chốn tùng lâm. Ngài bèn đề xướng Tịnh Ðộ, thống trách Cuồng Thiền, rộng tu các điều lành để làm tư lương Tịnh Ðộ.

Lúc bấy giờ, giới đàn bị cấm đoán đã lâu. Người cầu giới có đủ tam y đối trước Phật xin thọ giới, ngài chứng minh cho họ. Ngài san định khoa nghi trai đàn Thủy Lục và nghi thức Du Già Diệm Khẩu, lập ra ao phóng sanh, soạn bài Giới Sát Văn để cứu tế nỗi khổ trong cõi âm. Ngài viết tác phẩm A Di Ðà Kinh Sớ Sao và Vân Thê Pháp Vựng dung hội Lý và Sự, thống nhiếp ba căn. Kẻ được ngài hóa độ rất nhiều.

Ngài chợt giã biệt khắp đồ chúng cả tăng lẫn tục, bảo:

- Ta sắp qua chốn khác.

Ðến kỳ, ngài dạy các đệ tử già dặn, chắc thật niệm Phật, rồi hướng về Tây niệm Phật mà tịch, thọ tám mươi mốt tuổi.

(theo Vân Thê Pháp Vựng)
Nhận định:
Sanh tử việc lớn, vô thường mau chóng, một phen mất thân người, vạn kiếp khó có lại được. Thường nghĩ đến điều này thì tự nhiên sẽ niệm Phật chơn thành, thiết tha. Rộng tu các điều lành, chất phác niệm Phật. Pháp yếu Tịnh Ðộ đã được gói trọn trong hai lời này.
15. Chuyên tâm niệm Phật
Ðại sư Hám Sơn Trừng Ấn Ðức Thanh đời Minh, là con nhà họ Thái ở Kim Lăng. Năm mười chín tuổi xuất gia, chuyên tâm niệm Phật, mộng thấy Phật A Di Ðà hiện thân trên không, quang tướng phân minh. Từ đấy, thánh tượng sáng rực rỡ luôn hiện diện trước mắt ngài. Sau ngài đến Ngũ Ðài tu Ðịnh, phát minh được bổn tâm sẵn có. Ngài cắt máu chép kinh Hoa Nghiêm, mỗi một nét bút hạ xuống là một câu niệm Phật. Lâu dần, động tịnh hệt như nhau.

Sau ngài ẩn cư trong Lao Sơn là chỗ bọn ngoại đạo sanh sống. Thoạt đầu, chẳng có ai nghe đến danh hiệu Tam Bảo, nhưng lâu sau, ai nấy đều biết niệm Phật. Lý Thái Hậu hạ lệnh chở vàng đến dựng chùa, ban tấm biển đề tên chùa là Hải Ấn. Vua giận dữ, sai đầy ngài đi Lôi Châu. Nhân đấy, ngài trùng hưng tổ đình Tào Khê. Về sau, ngài được vua hạ chiếu tha cho về, bèn kết am trong Lô Sơn, tu Tịnh Nghiệp càng thêm chuyên gắng. Ngài đột ngột đi về Tào Khê, thị hiện bịnh nhẹ, tắm gội, thắp hương, bảo đồ chúng rằng:

- Hãy nghĩ tới việc lớn sanh tử, vô thường mau chóng.

Ðoan tọa mà tịch, có quang minh chiếu rực tận trời, thọ bảy mươi tám tuổi, nhục thân hiện vẫn còn.

(theo Mộng Du Tập)
Nhận định:
Thánh tượng thường hiện, động tịnh nhất như thì đúng là tu hành Tịnh Nghiệp thật tinh cần. Vì chẳng chứng đắc chút ít đã cho là đủ nên nhục thân của ngài tồn tại vĩnh viễn. Xét ra, ắt ngài phải sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh nơi Thật Báo Tịnh Ðộ hoặc Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ trong thế giới Cực Lạc.
16. Bỏ Thiền tu Tịnh

Ðại sư Ngẫu Ích Trí Húc đời Thanh là Tổ thứ chín của Liên Tông. Ngài họ Chung, người Ngô Huyện. Lúc tuổi trẻ, tự lấy việc học Nho làm trách nhiệm, viết sách bác Phật. Ðến khi ngài đọc được tác phẩm Trúc Song Tùy Bút của tổ Vân Thê bèn đốt những sách mình đã viết.

Năm hai mươi tuổi, nhân đọc kinh Ðịa Tạng bèn phát chí xuất thế, hằng ngày tụng danh hiệu Phật. Năm hai mươi bốn tuổi, nghe pháp sư Cổ Ðức giảng kinh, nghi tình chợt phát, dụng tâm tham cứu, chứng ngộ rỗng rang. Ngài liền bế quan ẩn tu ở Ngô Giang. Bị bịnh gần chết, ngài mới nhất ý cầu sanh Tịnh Ðộ. Lúc bịnh giảm chút ít, ngài bèn kết đàn trì chú Vãng Sanh bảy ngày. Sau đấy, ngài ẩn tu tại Linh Phong, trước thuật những tác phẩm xiển dương Tịnh Ðộ được lưu truyền rộng rãi.

Ngài chợt thị hiện có bịnh, dặn dò sau khi trà tỳ hãy đem tro ngài hòa với bột đem thí cho các loài chim, cá để chúng được kết duyên Tây Phương. Sau đó, khi bịnh đã khỏi hẳn, ngài bèn ngồi xếp bằng, hướng về Tây, giơ tay lên mà tịch, thọ năm mươi bảy tuổi. Ba năm sau, mở khám đựng nhục thân của ngài ra, tóc đã mọc dài phủ tai, vẻ mặt vẫn như lúc sống; môn nhân chẳng nỡ tuân theo di mạng nên lập tháp thờ ở Linh Phong.

(theo Linh Phong Tông Luận)
Nhận định:

Gặp lúc bịnh gần chết mới bỏ Thiền tu Tịnh. Sách Niệm Phật Trực Chỉ viết: “Tinh tấn là chẳng vì chút bịnh duyên nhỏ hay lớn mà biếng nhác cái hạnh. Nếu như bị túc nghiệp sai sử thì nên tụng Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Ðà Ra Ni. Trì một lần, diệt được tất cả các tội: ngũ nghịch, thập ác nơi thân. Trì được ba mươi vạn biến, quyết sẽ sanh về Tịnh Ðộ”.

Kinh Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Thần Chú có nói: “Nếu tụng được chú này thì A Di Ðà Phật thường ngự trên đảnh người ấy, ngày đêm ủng hộ chẳng để cho oán gia có dịp hãm hại. Hiện đời thường được an ổn; lúc mạng sắp hết, tùy ý vãng sanh”.

Vì thế, lúc ngài vừa bớt bịnh liền kết thất trì chú bảy ngày. Những người ham Thiền Tịnh Song Tu hãy bắt chước ngài lấy việc chuyên tu làm trọng.



17. Kết am chuyên tu

Ðại sư Triệt Lưu Hành Sách đời Thanh là Tổ thứ mười của Liên Tông, là con của vị lão nho Tưởng Toàn Xương ở huyện Nghi Hưng. Ông mộng thấy đại sư Hám Sơn vào nhà, sanh ra ngài; nhân đó, đặt tên ngài là Mộng Hám.

Năm hai mươi ba tuổi, ngài xuất gia tại chùa Lý An ở Vũ Lâm. Suốt năm năm, chẳng đặt mình nằm xuống chiếu, đốn triệt nguồn pháp. Ít lâu sau, ngài trụ ở chùa Báo Ân, được bạn cùng tham thiền là Anh pháp sư ở Tức Am khuyên siêng tu Tịnh Nghiệp, Tiều Thạch Pháp Sư ở Tiền Ðường dẫn dụ ngài học hỏi giáo lý tông Thiên Thai, bèn cùng nhập tịnh thất, tu Pháp Hoa Tam Muội. Túc huệ đốn thông nên ngài thấu triệt tột cùng giáo tủy.

Từ đấy, ngài bèn dựng am ở Tây Khê thuộc Hàng Châu để chuyên tu Tịnh nghiệp, đặt tên cho chỗ mình ở là Liên Phủ Am (am búp sen). Về sau, ngài trụ tại Phổ Nhân Viện ở Ngu Sơn, đề xướng, hưng khởi Liên Xã, hoằng hóa thù thắng. Những trước tác của ngài như Liên Tạng Tập, Tịnh Ðộ Cảnh Ngữ v.v… được lưu hành trong đời. Ngài mất lúc năm mươi lăm tuổi.

Lúc bấy giờ có Tôn Hàn và người họ Ngô mắc bịnh chết rồi sống lại, đều kể là: “Bị sai nha cõi âm lôi đến dưới điện, chợt thấy quang minh rực trời, vua Diêm La phủ phục sát đất, nghênh tiếp Tây Quy Ðại Sư. Liếc trông thì ra là ngài Triệt Lưu. Nhờ quang minh của ngài chiếu đến nên được tha về”.

(theo Tịnh Ðộ Ước Thuyết)


Nhận định:
Ðốn triệt nguồn pháp, thấu triệt tột cùng giáo tủy mà sau đấy vẫn kết am chuyên tu để đề xướng hưng khởi Liên Xã hoằng pháp lợi sanh. Phàm là những kẻ mình chưa đắc độ mà đã muốn độ người thì có hợp lý hay chăng?

18. Nhật khóa mười vạn
Ðại sư Tỉnh Am Tư Tề Thật Hiền đời Thanh là Tổ thứ mười một của Liên Tông. Ngài họ Thời, người huyện Thường Thục. Từ nhỏ đã chẳng ăn mặn, bảy tuổi xuất gia. Năm hai mươi bốn tuổi, thọ Cụ Túc Giới, giữ giới nghiêm cẩn, chẳng ngả mình nằm xuống chiếu. Vừa được phép lên diễn giảng, ngài đã chứng tỏ rõ cái học của mình cả về Tánh lẫn Tướng. Sau đấy, ngài tham cứu có phần chứng ngộ, bèn nói: “Ta tỉnh mộng rồi!”. Ngài đóng cửa am ba năm, ngày thì đọc Kinh Tạng, tối lấy Phật hiệu làm thường khóa.

Ngài đến lễ tháp chùa A Dục Vương. Vào ngày Phật nhập Niết Bàn, ngài tập hợp đông đảo cả Tăng lẫn tục thiết lễ cúng dường trọng thể, đốt ngón tay trước tượng Phật, phát bốn mươi tám đại nguyện, cảm xá lợi phóng quang. Ngài soạn ra Niết Bàn Sám và Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm Văn để khích lệ tứ chúng, nhiều người tụng đến ứa lệ.

Về già, ngài về ở chùa Tiên Lâm tại Hàng Châu, kết Liên Xã chuyên tu Tịnh Nghiệp, soạn văn ước thệ cùng đại chúng lấy hết cả đời làm hạn. Nhiếp hóa khắp ba căn, pháp hóa lợi lạc khắp tất cả.

Mùa Ðông năm Ung Chánh thứ mười một, ngài cho biết trước ngày mười bốn tháng Tư năm sau sẽ Tây quy, rồi bế quan một thất, mỗi ngày niệm Phật mười vạn tiếng. Ðến kỳ, ngài bảo: “Ngày giờ đã tới, lại thấy Tây Phương Tam Thánh, sẽ sắp vãng sanh ư?”

Ngài liền đọc kệ từ biệt đại chúng, tắm gội sạch sẽ, thay áo, hướng mặt về Tây ngồi im lặng. Người đưa tiễn lũ lượt kéo đến, ngài chợt mở mắt bảo:

- Ta đã đi rồi lại trở về. Sanh tử là việc lớn, ai nấy phải tịnh tâm niệm Phật mới được!

Rồi ngài chắp tay niệm Phật mà tịch, thọ bốn mươi chín tuổi.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)


Nhận định:
Nhớ số trì danh để phòng biếng nhác. Ðại sư biết trước thời giờ mà vẫn bế quan tinh tấn, nhật khóa niệm Phật cả mười vạn tiếng. Ðúng là còn một hơi thở chẳng chịu lười nhác chút nào, thật là tấm gương niệm Phật vậy!
19. Càng bịnh tật khốn khổ càng thêm thiết tha
Ðại sư Ðạo Triệt đời Thanh, người huyện Tiền Ðường. Xuất gia tham học các sư, sau khi phát minh được bản tánh rồi bèn chuyên tu Tịnh nghiệp. Ngài trụ tại am Văn Thù ở Hàng Châu. Ngài định kỳ bế quan: trong thất không để bất cứ vật gì dài lớn, ngoại trừ một cái ghế và một cái đơn14 mà thôi! Mới được vài ngày đã mắc bịnh rất nặng, ngài tự cổ vũ mình: “Niệm Phật chính là vì sanh tử, lẽ nào lại vì bịnh mà biếng nhác ư?” rồi trì danh hiệu Phật càng thêm khẩn thiết.

Ðột nhiên, kim quang chiếu rực cả thất, Phật xoa đầu ngài, bệnh lành ngay lập tức; ngài liền đắc Niệm Phật Tam Muội. Ði, đứng, nằm, ngồi trọn không còn có niệm nào khác. Suốt ba năm như thế, đến ngày rằm tháng Ba, ngài xuất quan, lên tòa giảng Pháp Hoa, bảo đại chúng rằng:

- Chừng bảy tháng sau nữa, ta sẽ về Tây; các ông có thể đến tiễn.

Ðến kỳ, ngài bèn thiết lễ Vu Lan Bồn Hội. Chúng nhóm lại, nhắc lại lời ngài dự báo trước đây. Ngài nói: “Quả có thế, hãy chờ một chút!”. Ngày hôm sau, ngài bèn dặn dò trụ trì thiết trai giã biệt đại chúng rồi vào khám, ngồi yên lặng, dứt hơi thở. Giây lâu sau, tỉnh lại, bảo:

- Chia tay cùng các ông, chẳng thể không nói một lời. Sa Bà khổ không nói nổi, Cực Lạc vui không nói nổi. Nếu còn nghĩ nhớ đến tôi thì chỉ niệm A Di Ðà Phật, chẳng lâu sau sẽ lại thấy nhau. Bỏ lỡ đời này, luân chuyển trong đêm dài, đau đớn lắm, đau đớn lắm!

Nói xong bèn tịch, thọ bốn mươi tám tuổi.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)
Nhận định:
Bịnh càng bức bách càng thêm khẩn thiết cho nên đắc Niệm Phật Tam Muội. Thật đúng là lấy bịnh khổ làm thuốc hay, biến trở ngại thành thông suốt vậy! Tự chủ được trong khi bịnh thì lúc chết cũng tự chủ được nên có thể đi về tự tại như vậy!
20. Phật xuất hiện theo ý
Ðại sư Huệ Minh đời Thanh, người Ngân Huyện, trụ chùa Báo Quốc ở Hàng Châu. Tánh tình chất trực, chỉ biết niệm Phật. Mỗi khi ngài chấp trì hồng danh, âm thanh như sóng vỗ, hương cháy hết chẳng hay. Ðược ai cúng thí ngài liền dùng để phóng sanh. Khi phóng sanh loài nào đều xưng danh hiệu Phật, hồi hướng Tây Phương. Gặp ai, chẳng hỏi thăm xã giao mà chỉ nói: “[Coi chừng] cái chết xảy đến đó, niệm Phật gấp đi!” Nếu ai hỏi đến sở đắc, liền nói:

- Lúc trước tôi bị bịnh nhiệt nặng lắm, mấy lần chẳng gắng gượng nổi, may là trong ý căn có một câu Phật hiệu thì nơi đảnh có một câu phát ra, liên miên như thế chẳng ngơi; nhờ đó mà bịnh được lành. Từ đấy, chẳng cần biết là nói năng, im lặng, động, tịnh cứ hễ trong tâm có một câu Phật hiệu phát sanh thì từ trên đảnh đầu có một câu Phật hiệu phát ra.

Sau ngài bị bịnh ung loét ở cổ, biết là túc nghiệp hiện tiền, trọn chẳng rên rỉ, than vãn. Lúc lâm chung, vẻ mặt vui tươi, niệm Phật qua đời.

(theo Nhiễm Hương Tập)


Nhận định:
Niệm Phật như sóng dồn, nhang hết không hay; thấy người khác chẳng hỏi chuyện hàn huyên; đúng là công phu đã đạt đến mức thuần thục. Tuy bịnh nguy ngập nhưng trong tâm câu Phật hiệu vẫn cuồn cuộn phát ra, đúng là: vô niệm mà niệm, bịnh chẳng gây trở ngại gì!
21. Nhiếp Thiền quy Tịnh
Ðại sư Mộng Ðông Nột Ðường Triệt Ngộ Tế Tỉnh là Tổ thứ mười hai của Liên Tông. Ngài họ Mã, người huyện Phong Nhuận. Thuở nhỏ thông kinh sử, năm hai mươi hai, do mắc bịnh bèn tỉnh ngộ xuất gia, tham học khắp nơi, thông hiểu rộng khắp hai tông Tánh và Tướng. Ngài tham học với Túy Như thiền sư, tỏ ngộ thấu suốt, được kế vị làm trụ trì chùa Quảng Thông ở kinh đô, hướng dẫn đại chúng tham thiền, tông phong đại chấn.

Về sau, do túc nghiệp sâu nặng nên lắm bịnh duyên, nghĩ trong Ngũ Ðình Tâm Quán của bên Giáo, đối với người nhiều chướng thì dùng Niệm Phật để trị. Vả lại, các vị đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v…, các vị đại Tổ Sư như Mã Minh, Long Thọ… các vị đại thiện tri thức như Trí Giả, Vĩnh Minh, Sở Thạch, Liên Trì v.v… thảy đều quy tâm vào một môn này; lẽ nào vì cớ người đời coi thường mà ta chẳng dám quy mạng. Ngài liền bỏ tham thiền để niệm Phật, chuyên tu Tịnh nghiệp. Mỗi ngày ngài hạn định chỉ tiếp khách chừng tàn một cây hương, những thời giờ còn lại để chuyên lễ niệm.

Về già, ngài ở chùa Tư Phước thuộc núi Hồng Loa, người theo học ngày càng nhiều, dần dần trở thành một đạo tràng của Liên Tông. Tâm ngài chẳng hề chán mỏi sự nghiệp vì pháp, vì người, một mực lấy Tịnh Ðộ làm chỗ quy hướng. Mỗi khi ngài diễn nói về ân đức cứu khổ ban vui của đức Như Lai, nói ra mỗi chữ là lệ rơi đầm đìa. Người nghe cũng thường khó ngăn được lệ đẫm cả áo. Hai quyển Ngữ Lục của ngài thật tối cần thiết.

Mười tháng trước khi ngài lâm chung, ngài đã báo sẵn kỳ hạn quy Tây, dặn dò những kẻ ngoại hộ:

- Huyễn duyên chẳng dài lâu, đáng tiếc kiếp sống uổng. Ai nấy nên nỗ lực niệm Phật, năm sau sẽ thấy được hảo tướng Tịnh Ðộ.

Ðến kỳ, ngài thị hiện mắc bịnh, bảo đại chúng trợ niệm. Chợt thấy trên không vô số tràng phan từ phương Tây bay lại. Ngài bảo đại chúng:

- Tướng Tịnh Ðộ hiện, ta sắp về Tây.

Lại bảo:

- Ðược Phật đích thân tiếp dẫn, ta đi đây!

Ðại chúng xưng niệm Phật hiệu càng mạnh mẽ, đại sư ngồi hướng mặt về Tây mà tịch, thọ bảy mươi tuổi. Ðại chúng ngửi thấy mùi hương ngập tràn không trung. Quàn xác ngài, mở nắp quan suốt bảy ngày, vẻ mặt vẫn như lúc sống. Trà tỳ thâu được hơn trăm viên xá lợi.

(theo Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục)
Nhận định:
Sau khi đã thông suốt cả Tông lẫn Giáo còn chuyên tu Tịnh nghiệp, ngài đúng là bậc “có Thiền có Tịnh Ðộ” nên được làm thầy trời người, làm Phật, làm Tổ, nhưng ngài chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu! Lúc lâm chung bảo đại chúng trợ niệm để làm gương cho đời!
22. Lễ niệm cùng hành
Ðại sư Trúc Phong Viên Dung đời Thanh, họ Diêu, người huyện Ðức Thanh. Năm mười ba tuổi, xuất gia thọ Cụ Túc Giới, trì giới không khiếm khuyết. Ngài đặc biệt thích lễ niệm, lập chí quyết định vãng sanh Tây Phương. Ngài chẳng nuôi đệ tử, chẳng tự trụ trì am viện, luôn ở nhờ người khác để tu tập hòng khỏi bị phân tâm. Ngài không ở chỗ nào nhất định, hợp thì lưu lại, chẳng hợp thì đi. Tánh tình phóng khoáng, chẳng câu chấp mà cũng chẳng thích làm theo mọi người. Ngài thường đóng cửa am ở yên tịnh, thực hành cả lễ lẫn niệm: Chẳng lễ thì niệm, không niệm thì lễ, chẳng lúc nào gián đoạn, cũng chẳng tu pháp nào khác, chỉ lấy đó làm pháp tu suốt đời.

Vào giữa trưa, sư thường gõ mõ niệm Phật mãi cho đến sắp rạng đông ngày hôm sau, người khác thấy ngài trọn chẳng nghỉ ngơi bèn lớn tiếng gọi, ngài mới ngưng, tự bảo là giống như mới niệm được nửa ngày mà thôi. Hỏi ngài có đói không? Liền đáp:

- Trong miệng tôi thường có nước ngọt như mật thấm đẫm cổ họng, thọ dụng vô lượng nên chẳng nghĩ đến ăn uống gì nữa!

Ngài chẳng đặt mình nằm xuống chiếu suốt cả mấy mươi năm, cho nên ít ngủ. Dù có chợp mắt chốc lát, cũng chẳng rời việc lễ niệm nên không còn có duyên nào khác. Trong mộng, ngài thường thấy Phật và Bồ Tát hoạt động như đang hiện tiền, khuyên dạy, tưởng lệ, hoặc hướng dẫn niệm Phật.

Chợt ngài biết đã đến lúc, bèn niệm Phật mà tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi, đảnh đầu còn hiện tướng nóng bừng.

(theo Nhiễm Hương Tục Tập)


Nhận định:
Chẳng nuôi đồ chúng, sống không chỗ nhất định, đúng là bậc giải thoát thanh thản. Niệm Phật suốt đêm ngày, chẳng ai gọi thì chẳng ngưng, chẳng đói, chẳng khát, mộng và tỉnh đều giống hệt nhau. Nếu chẳng phải là đã đắc Niệm Phật Tam Muội thì làm sao làm được như thế?
23. Chẳng niệm mà tự niệm
Ðại sư Mặc Am Chơn Nguyên Thượng Nhân đời Thanh, họ Chu, người huyện Hành Châu, tỉnh Hồ Nam. Thuở nhỏ, ngài đã dĩnh ngộ, thông tiệp, có ý tưởng xuất thế. Cha mất sớm, mẹ tính cưới vợ cho, bèn trốn đi xuất gia. Thọ Cụ Túc Giới, nghiên cứu tinh tường Tam Tạng, thâm nhập giáo nghĩa. Sau khi tham học khắp cả Nam Bắc [Trung Hoa] ngài bèn dựng tinh xá Chúc Thánh ở Nam Nhạc, giới luật tinh nghiêm, siêng năng, khẩn thiết thầm tu. Mỗi ngày niệm Phật sáu vạn tiếng. Lâu ngày, chẳng niệm mà tự niệm, không lúc nào gián đoạn.

Sau đấy, ngài ở tại chùa Ðại Thiện thuộc Nam Nhạc, phỏng theo khuôn phép của thiền sư Triệt Ngộ. Thập phương đến học; vì có chỗ chẳng dung hợp nhau nên ngài bèn dùng phép Giáo Quán của tông Thiên Thai để dẫn dắt, lấy Tịnh Ðộ Di Ðà làm chỗ quy hướng rốt ráo. Ðột nhiên, nhà chùa muốn giao ngài đứng đầu trông coi mọi việc trong chùa, ngài bảo: “Tôi sắp về Tây!”. Ngài liền cử hành Phật thất 2 tuần, trong định thấy ao bảy báu, nước bát công đức.

Ngài liền hiện tướng bịnh nhẹ, khước từ thuốc thang, nhất tâm niệm Phật, bảo đồ chúng luân phiên trợ niệm. Ngài trông thấy tướng bạch hào của Phật A Di Ðà sáng rực, bèn ngồi ngay thẳng hướng về Tây. Khi ấy, những người trợ niệm gõ mõ càng nhanh, ngài bèn bảo thôi gõ, chỉ cùng nhau niệm Phật đến hơn trăm câu, chắp tay mà tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi.

(theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)



Nhận định:

Chẳng niệm mà tự niệm chính là niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. Nếu chẳng phải là tận lực niệm đến mức thuần thục thì sao mà làm được nổi như thế? Trước khi lâm chung còn cử hành Phật thất, bảo đại chúng trợ niệm để cầu được quyết định vãng sanh. Tiếng mõ gõ quá ồn chẳng thuận tiện cho việc trợ niệm nên sư bảo thôi gõ, chỉ nên đồng thanh niệm Phật.


24. Hễ niệm Phật liền niệm lớn tiếng

Ðại sư Chánh Thành thời Dân Quốc, họ Châu, người huyện Qua Dương, tỉnh Giang Tây. Nhà nghèo, sư thường niệm Phật cầu sanh Tây phương. Cho đến lúc không phải phụng dưỡng ai, chôn cất vợ xong xuôi, tuổi đã sáu mươi tám, ngài mới đem con đi xuất gia, tu trì cật lực. Ở trong núi suốt mười ba năm, sư chưa hề nằm xuống giường.

Hễ niệm Phật là ngài niệm lớn tiếng, thường niệm đến lúc toàn thân ướt đẫm mồ hôi rồi mới ngưng. Người khác ghét ngài niệm oang oang thường hay quở mắng. Bạn đồng tu thường khuyên ngài niệm nhỏ tiếng để khỏi bị người khác ghét, ngài chỉ cười, bảo [họ nói] đúng. Ðến lúc niệm Phật vẫn niệm lớn tiếng như cũ mà chẳng tự biết. Ngài thường niệm Phật bên gốc tùng trong chùa hoặc tịnh tọa trước ngọn núi. Mỗi khi ngài thấy tượng Phật đứng trên đỉnh núi thường hay gọi người khác đến xem. Ai đến thì chẳng thấy nữa. Ngài chợt biết thời giờ đã đến, bèn nói kệ, ngồi ngay ngắn niệm Phật mà hóa.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản in lần thứ ba)


Каталог: Luan
Luan -> Trung tâM ĐÀo tạo mạng máy tính nhất nghệ 105 Bà Huyện Thanh Quan – 205 Võ Thị Sáu, Q3, tp. Hcm
Luan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài

tải về 1.38 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương