Nội dung số này


BẢY PHÁP BẤT THỐI hay BẢY PHÁP LÀM HƯNG THỊNH CHÚNG TỲ-KHEO



tải về 1.29 Mb.
trang11/12
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích1.29 Mb.
#24073
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

BẢY PHÁP BẤT THỐI hay BẢY PHÁP LÀM HƯNG THỊNH CHÚNG TỲ-KHEO:

    1. Các Tỷ-kheo cần phải thường xuyên tụ họp, và tụ họp đông đảo để giảng luận Chánh pháp, khiến cho có sự hòa hợp trên dưới của các Tỷ-kheo.

    2. Các Tỷ-kheo phải tụ họp trong tinh thần hòa hiệp, giải tán trong tinh thần hòa hiệp, và chấp hành Tăng sự trong tinh thần đoàn kết.

    3. Chúng Tỷ-kheo không ban hành những luật lệ không thích hợp, những luật lệ không đáng được ban hành; và cũng không bãi bỏ những luật lệ đã được ban hành từ trước; sống đúng những gì đã được quy định bởi cộng đồng Tăng lữ.

    4. Các Tỷ-kheo luôn luôn phải kính trọng, phục vụ các Tỷ-kheo trưởng lão, những vị có nhiều kinh nghiệm tu tập trong Chánh Pháp Luật, sẵn sàng nghe theo những lời khuyên dạy của các bậc trưởng thượng như thế.

    5. Các Tỷ-kheo sống không bị lôi cuốn bởi những tham ái.

    6. Trú xứ cộng đồng các Tỷ-kheo luôn luôn là những trú xứ nhàn tịnh.

    7. Các Tỷ-kheo sống an trú trên chánh niệm tạo thành một cộng đồng sinh động, khiến cho các bạn đồng tu từ những phương khác nếu chưa đến thì muốn đến, đã đến thì muốn cùng sống và cùng tu tập trong sự an lạc.

BẢY PHÁP BẤT THỐI đã được tuyên đọc, xin nhất tâm y giáo phụng hành.





LỜI CẦU NGUYỆN
(đọc trong Lễ Hồi Hướng Bế Mạc)



TT. Thích Tâm Hòa trưởng ban tổ chức đọc Lời Cầu Nguyện trong buổi lễ Bế Mạc ngày Về Nguồn 23/9/2007
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

       Chúng con, Tăng Ni Việt Nam đang tu học  và hành đạo ở nhiều nơi trên thế giới cùng nhau tụ họp tại Đạo Tràng Pháp Vân, Gia Nã Đại, một lòng hướng về Tam Bảo thường trụ trong mười phương, chí thành kính cẩn dâng lời cầu nguyện:



  • Nguyện cho Phật Pháp được trường tồn để soi sáng đường đi cho dân tộc và nhân loại chúng con.  Nguyện cho nền Phật giáo ở Việt Nam mà lịch đại tổ sư đã dày công khai sáng vun bồi mãi mãi là nền móng đạo đức, là nguồn sống tâm linh của giống nòi Việt Nam.  Giữa lúc thế đạo ngửa nghiêng, nhân tâm ly tán với bao chướng nạn dẫy đầy này, chúng con còn mong ước nào hơn là mong cho các bậc Hùng Sư Đại Sỹ cất lên đuợc tiếng nói của Từ Bi, Trí Tuệ giữa muôn trùng sóng gió tai ương; mong cho những tâm hồn cao cả đã vì không nỡ để Thánh giáo suy, không đành nhìn chúng sanh khổ mà dấn thân vào đạo lớn mỗi mỗi đều thành tựu đuợc hạnh nguyện của mình để cho nền Đạo được vững bền trên quê hương.

  • Nguyện cho dân tộc Việt Nam chúng con, đã triền miên trong thảm họa của chiến tranh thù hận và phân ly tan tác sớm tìm được con đuờng hóa giải mọi oán cừu oan khiên để người người trên quê hương được sống trong an toàn hạnh phúc và với tự do chân thực như phẩm giá cao quý của mình.  Chủ nghĩa mà chi khi non nước điêu linh! chế độ mà chi khi sinh dân độ thán! Chúng con xin trải hết lòng ra mà cầu nguyện cho không ai còn đem ác tâm mà chà đạp ai,  không ai còn thành kiến mà làm cho ai phải sống kiếp đọa đày.  Tai trời ách nước đã nhiều!  Chúng con xin hết dạ cầu mong cho mưa thuận gió hòa, cho kẻ đói được cơm, người đau được thuốc, cho không ai còn vùi thân trong cảnh gió lạnh mưa sa não nùng.

  • Nguyện cho loài người trên mặt đất này không ai còn sống trong ngục tù của chủ nghĩa hận thù cuồng tín và tham vọng cuồng si.  Kỳ thị và bất công đang tạo nên bao mối xung đột.  Khủng bố và chiến tranh đang gieo rắc bao chết chóc đau thương ở khắp mọi nơi.  Từ tận đáy lòng, chúng con xin cho từ tâm mở rộng, đèn tuệ sáng soi để cho người người đuợc sống với nhau trong tình huynh đệ bao la và để cho mặt đất này trở thành một nơi chốn tốt đẹp hơn cho loài người và cả muôn loài đều an lạc.

Nam Mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát


ĐẾN VỚI NGÀY VỀ NGUỒN


Diệu Trang


Theo Tây lịch thì ngày 23/09/07 mới chính thức là ngày đầu tiên của mùa thu. Vậy mà từ những tuần trước đó thời tiết đã trở lạnh mà cây vẫn còn xanh lá, chưa thay màu. Mặc dù những cơn gió lành lạnh đã bắt đầu viếng thăm, lang thang khắp chốn, như muốn khảo sát trước một điều gì. Hay gió cũng nôn nao chờ đợi ngày hội sắp đến. Cơn gió vô thường còn thế, huống chi lòng người phật tử hân hoan. Nhưng cũng lạ thay khi đến gần ngày đại lễ thì thời tiết lại ấm dần, không lạnh buốt mà cũng không có những cơn mưa thu như mọi năm. Hình như có sự mầu nhiệm từ cõi thiên chăng?

Ngày Về Nguồn được tổ chức lần đầu tiên tại Chùa Pháp Vân, Mississauga, Canada, từ ngày 21-23 tháng 09 năm 2007. Có tất cả 96 vị tăng ni đến tham dự từ Canada, Hoa Kỳ, Châu Âu và Châu Úc, Tân Tây Lan. Ngoài ra còn có các phật tử đến từ Hòa Lan, các tiểu bang đông bắc Hoa Kỳ, phật tử tại địa phương và các thành phố lân cận cũng đến tham dự.

Ngôi chùa quen thuộc vốn đã thường nhộn nhịp vào mỗi cuối tuần, nay lại càng rộn rã, náo nhiệt hơn.

Bước vào trong, chánh điện đông đúc người, hương trầm tỏa nhẹ. Bức tôn tượng uy nghiêm của đức từ phụ Thích Ca sáng rực ngay giữa trung tâm. Không chỉ sáng bởi ánh đèn trần phả xuống tôn tượng, mà cũng sáng vì hai bình hoa thật to được một phật tử nào đó với tâm thành khi dùng đôi tay khéo léo đầy tính nghệ thuật của mình mà kết tạo nên, ngưỡng mong khi bất cứ ai nhìn vào cũng đều tỏ lòng tôn kính trang nghiêm trước tôn tượng. Thêm nữa, hai bên Chánh điện có treo xuôi hai câu đối do thượng tọa Thích Tuệ Sỹ đề tặng riêng cho Chùa Pháp Vân. Dòng chữ màu đen nổi bật trên nền vải màu đỏ tươi, rũ xuống hai bên phía trước tôn tượng. Câu đối chữ Hán, được phiên âm hán-việt như sau:

PHÁP trụ thiên hàn cực địa

Không hoa như tuyết tỏa thiền quynh

Sinh tử diêu trình

Kỷ hữ mộng hồi cố lý
VÂN hành sắc một phù âu

Mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa

Bối ngâm trường dạ

Hữu thời thanh đoạn hồng châu.”

Ba phía còn lại, ngay trên tường cao thì có những dòng chữ quen thuộc nằm lòng mà ý nghĩa không cùng đối với hàng phật tử. Chữ trắng trên nền xanh: “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. “Hạnh phúc thay Chư Phật Đản Sinh. Hạnh phúc thay Chánh Pháp Xương Minh”. “Hạnh phúc thay Tăng già hoà hiệp. Hạnh phúc thay tứ chúng đồng tu”.

Hai bức chân dung của Ngài Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát gây ấn tượng cho hàng phật tử. Nhiều người cứ đứng ngắm nghía hai bức chân dung sau khi đến sớm thắp nhang, quên hẳn việc tìm cho mình một chỗ ngồi cho giờ thuyết giảng.

Chánh điện thân quen ngày nào hôm nay được trang hoàng đơn giản nhưng cũng thật long trọng và trang nghiêm, ý nghĩa như thế. Chút hương trầm tỏa nhẹ khắp không gian nhộn nhịp vì đông đúc người. Lòng rưng rưng một niềm an lạc.

Nền chánh điện rộng rãi mà cũng không còn một chỗ ngồi. Thượng Tọa Thích Nguyên Hạnh bắt đầu thuyết giảng như lịch trình. Có số đông phật tử đứng ngoài cửa, lan tận ra ngoài sân, vậy mà cũng cố nghiêng người nhón chân nhướng mắt vào trong để mong nhìn cho được gương mặt của vị giảng sư. Mặc dù vậy họ vẫn giữ được sự yên lặng. MẸ, đề tài muôn thuở, mà Thầy giảng hôm nay như nhắc cho thính chúng hãy luôn nằm lòng câu nói của người xưa “Uống nước nhớ nguồn.”Lời thầy vang vang, giọng Huế trầm ấm làm cho mọi phật tử có mặt hôm nay không khỏi cảm động. Giọng thầy thật rõ ràng khi nói đến từ MẸ, và dừng lại vài giây khi Thầy nhắc đến từ MẸ một cách tôn kính. Thầy đang nhắc nhở đại chúng, hay vì thầy cũng đang cảm động chăng?... Bài giảng ngắn gọn mà chứa đầy đủ ý nghĩa về thứ tình thiêng liêng ấy. MẸ là nguồn, là cội rễ. Cây mà thiếu đi cội rễ, hoặc không còn cội rễ thì sẽ không sống được. Mà cây có sống được là nhờ cội rễ, nên phải biết nhớ ơn. Đó cũng là ý nghĩa thâm sâu mà Thầy muốn nhắn gửi đến thính chúng. Cũng bằng cách đó, Thầy đã dẫn nhập vào ý nghĩa và mục đích của Ngày Về Nguồn một cách tự nhiên. Bài giảng dùng làm mở đề cho buổi khai mạc đêm nay... Thời thuyết giảng xong mà hội trường vẫn yên lặng trong trật tự. Người viết hiểu rằng lời pháp nhũ của thầy đã thấm nhẹ nhàng vào lòng người nghe, êm ái như những hạt mưa thu lất phất.

Thầy Nhật Trí điều hợp chương trình đêm nay thay mặt đại chúng gởi lời tri ân đến TT Thích Nguyên Hạnh đã cho hàng phật tử thời pháp cảm động. Hàng phật tử y lời vị điều hợp chương trình di chuyển nép sát vào hai bên chánh điện, nhường khoảng giữa cho gần 100 vị Tăng Ni quang lâm. Người người san sát nhau, không quen nhau cũng trao nhau nụ cười thân thiết và dễ mến. Trong hoàn cảnh ấy mà đám đông vẫn giữ được sự yên lặng.

Phía trong tổ đường, sau khi TT Thích Tâm Hòa đọc bản Tác Bạch Lễ Cung An Chức Sự theo nghi thức truyền thống của thiền môn, hồi trống Bát Nhã vang lên, đại chúng chắp tay cung nghinh quý tăng ni tuần tự từ tổ đường ra chánh điện. Từng vị khoan thai bước ra trong sắc vàng rực của pháp y. Một cảm xúc khó tả tràn dâng. Người viết biết mình không đủ phước duyên được sinh vào thời Phật còn tại thế, nhưng thật vô cùng hạnh phúc khi chứng kiến được cảnh giới và không khí trang nghiêm hiếm có như thế này, còn gì mong mỏi hơn thế nữa! Khi vị Ni và các sa di ni cuối cùng vào vị trí, Thầy Nhật Trí tuyên bố khai mạc buổi lễ bằng cách nêu ý nghĩa và hai mục đích của Ngày Về Nguồn: Ở ngoài đời để tưởng nhớ đến công ơn của ông bà cha mẹ thì có ngày giỗ tổ tiên; còn ở trong đạo, người xuất gia cũng luôn tưởng nhớ đến công đức cao dày của các vị tiền bối, lịch đại tổ sư... những người đã khai sáng và hi hiến trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp. Bên cạnh đó Ngày Về Nguồn có hai mục đích sau: a) Ngày hiệp kỵ chư lịch đại Tổ sư và liệt vị thánh tử đạo; b) Tạo nhân duyên đoàn tụ cho Tăng Ni Việt Nam khắp nơi.

Sau đó, hội trường tịch lặng lắng nghe Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa thay mặt tăng ni đọc lời giáo huấn của đức Phật là Bảy Pháp Bất Thối, trích trong Kinh Du Hành, Bộ Trường A Hàm. TT kết thúc bản văn, đại chúng lập theo 3 lần câu “y giáo phụng hành.”

Lễ Phật cầu nguyện được tiếp diễn. Lời kinh thâm diệu, tiếng chuông tỉnh thức cùng tiếng mõ như quyện vào nhau tạo nên một cảnh giới thanh tịnh hòa hợp hiếm thấy tại các đạo tràng hải ngoại. Một cảnh thật sống động và cũng thật cảm động. Đại chúng nhiếp tâm theo không khí trang nghiêm này trong tĩnh lặng. Kết thúc thời kinh, Thầy Tâm Hoà, trú trì chùa Pháp Vân, cũng là trưởng ban tổ chức Ngày Về Nguồn lên chào mừng chư tôn đức tăng ni, sau đó cung thỉnh Hòa Thượng Thích Minh Tâm, Trưởng ban Điều hợp Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại tuyên đọc lời khai mạc. Sau cùng Thầy Thích Hạnh Đạo được mời lên trước đại chúng, thay mặt tăng ni ban bố đạo từ. Thầy không cần cầm giấy trong tay, bởi những lời chia sẻ của Thầy xuất phát từ trái tim đã làm cho đại chúng vô cùng hoan hỷ, thoải mái bằng những tiếng cười và những tràn vỗ tay đồng tình. Vâng, Thầy thật là dí dỏm, hài hước, và cũng thật... dễ thương, nhưng vẫn nói lên được những ước nguyện chân thành của Thầy cũng như của tăng ni. Cũng theo chương trình, TT Thích Nhật Trí đọc Thư Chúc Mừng của Hòa Thượng Thích Minh Đạt từ California, Hoa Kỳ, và TT Thích Tâm Hòa đọc lá “Thư chúc mừng Ngày Về Nguồn”của Đại lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu, thượng thủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trên thế giới.

Lễ cung an chức sự và khai mạc Ngày Về Nguồn bắt đầu từ 7giờ đêm và đã hòan mãn sau hơn 10 giờ đêm ngày thứ Sáu 21-09-2007 trong niềm hoan hỷ, an lạc của tất cả những người có mặt.

Rạng sáng 6 giờ, ngày 22-09, thời khóa tọa thiền và công phu sáng được diễn ra như thường lệ của tăng chúng chùa Pháp Vân. Tuy nhiên hôm nay nhân ngày lễ hiếm có này, các Phật tử ở gần địa phương có dịp cùng tham gia công phu và tụng kinh sáng với quý Tăng Ni từ khắp nơi tụ về. Sau đó, là hai buổi hội thảo tại chánh điện, buổi sáng với thuyết trình viên là TT Thích Nguyên Hạnh và buổi chiều là TT Thích Nguyên Siêu. Đây là những buổi hội thảo chỉ dành cho Tăng Ni nên người viết không đủ duyên để lắng nghe. Nhưng trong trí tưởng tượng, người viết có thể hình dung được buổi hội thảo chắc chắn diễn ra trong một không khí hòa hợp đoàn kết của một tăng đoàn đến từ khắp bốn phương trên thế giới.

Buổi chiều cùng ngày, có tiệc buffet chay thân mật dành chung cho tất cả các quý tăng ni và phật tử. Từng hàng dài nối nhau không phân biệt tăng ni hay phật tử, cứ thế theo thứ tự mà đến lượt mình lấy thức ăn. Quang cảnh thật vui và nhộn nhịp. Song song là chương trình văn nghệ “Uống nước nhớ nguồn”tại lễ đài lộ thiên trong khuôn viên chùa Pháp Vân, một chương trình văn nghệ không thể thiếu cho một ngày lễ như thế này với đông đảo phật tử đồng hương. Tiếng hát của ca sĩ địa phương Quốc Thắng được ủng hộ bằng những tràn pháo tay thật to. Cô ca sĩ Lily, người Canada chính gốc lại chinh phục khán giả bởi giọng hát thật chuẩn khi trình bày các nhạc phẩm trữ tình Việt Nam. Cô cũng thật dễ thương khi trao đổi những tâm sự cùng chị MC Khánh Lan và khán giả bằng vốn tiếng Việt của mình. Rồi tiết mục của ban nhạc Dân Tộc của Kim Uyên, phần diễn ngâm của nghệ sĩ Lệ Ba... cũng được ủng hộ bởi khán giả cho thấy sự thành công của họ trong đêm nay. Rồi thật hứng thú và ngưỡng mộ khi thầy Nhật Trí cũng giúp vui góp tài của mình bằng bài vọng cổ của dân miền nam. Thầy Tâm Hòa cũng không ngại chia sẻ niềm vui chung bằng giọng ngâm thơ thật là hay! (Mãi đến hôm nay người viết mới tận tai nghe, bởi từ trước đến giờ chỉ nghe loáng thoáng ai đó nói về thầy với tài ngâm thơ). Xen kẽ giữa chương trình với phần giới thiệu chương trình của MC Khánh Lan, là những đoản thoại trao đổi của các quý thầy khi chia sẻ lời thân mật, gần gũi, vui nhộn, góp vui cho buổi văn nghệ này. Càng về đêm gió thu càng thổi mạnh, lạnh buốt, thế mà hàng ngàn phật tử đông đảo vẫn đến xem và ở lại đến giờ cuối cùng. Có số người còn muốn nghe quý thầy hát tiếp, thế nhưng đêm đã dần khuya, gió thu đêm thổi lạnh, vì lo cho sức khoẻ của các quý tăng ni cũng như các bác lớn tuổi, và vì ngày mai còn buổi lễ chính Hiệp Kỵ quan trọng nữa, cũng là thủ tục cuối cùng cho Ngày Về Nguồn, nên buổi văn nghệ mang đầy tính thiền môn đành phải kết thúc trong niềm vui lẫn tiếc nuối của đại chúng.

6 giờ sáng Chủ nhật ngày 23-09 bắt đầu thời khóa toạ thiền và công phu sáng như thường lệ. Phật tử địa phương vẫn đến như sáng hôm trước. Sau đó, 8 giờ sáng, buổi hội thảo sau cùng tiếp tục được tiến hành, do Thượng tọa Thích Thiện Quang làm thuyết trình viên. Sau giờ hội thảo là giờ nghỉ ngơi, để chuẩn bị cho thời thuyết giảng cho đại chúng của TT Nguyên Siêu. TT không ngồi mà đứng trong khi thuyết giảng. Giọng Thầy to, rõ ràng. Lời Thầy trôi chảy, mạch lạc khiến người nghe phải chú tâm theo dõi từng lời, từng ý mà thầy muốn truyền đạt đến “quý đạo hữu”(đó là cách gọi thân mật mà Thầy dùng để gọi thính chúng). TT mượn ngay hình ảnh trong chánh điện là hai bức chân dung Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát để nói lên ý nghĩa siêu nhiên của con đường Từ Bi và Trí Tuệ. Bài giảng cũng ngắn gọn, súc tích, cô đọng mà ý nghĩa tràn đầy. Những tràng pháo tay đồng tình, ủng hộ, tán dương, lòng reo vui, lòng đồng điệu hòa theo từng lời thuyết giảng, làm không khí trang nghiêm như vỡ òa ra trong niềm hoan hỷ mà thính chúng không có cách nào khác hơn để tỏ bày. Bài giảng kết thúc trong niềm hỷ lạc bởi thính chúng đã nhận ra điều cao cả thoáng ẩn sau lời pháp: con đường của từ bi trí tuệ, đó cũng là cốt tủy của Phật pháp vậy. Lại một tràng vỗ tay nữa vang lên để tri ân TT giảng sư. Điều hợp chương trình sáng nay là Thượng tọa Thích Nguyên Đạt luôn làm cho phật tử đồng hương phải cưòi rộn rã bằng những lời hài hước dí dỏm rất tự nhiên. Người viết thoáng thấy Thầy Nguyên Siêu cũng phải cười tươi khi lui gót vào trong sau thời thuyết giảng của mình.

Kế đến phật tử theo lời vị điều hợp dồn vào hai bên chánh điện để tạo khỏang trống cho việc cung nghinh quý tăng ni từ cổng tam quan vào chánh điện rồi thẳng tiến vào trong Tổ đường để làm lễ Cúng Ngọ và Hiệp Kỵ lịch Đại Tổ Sư. Trước khi chư Sơn vân tập Tổ đường, quý ngài đã chụp hình lưu niệm trước cổng tam quan.

Hồi trống Bát Nhã trầm hùng vang lên trong thinh không. Chư tôn đức tăng ni trong sắc hoàng y chậm rãi từng bước khoan thai, tự tại vào chánh điện. Khi tất cả đã yên vị, TT Thích Tâm Hòa, Trưởng ban tổ chức tuyên đọc Lời Cầu Nguyện trước chánh điện, với giọng đọc lúc nào cũng rõ ràng, cảm xúc.

-- Nguyện cho Phật Pháp được trường tồn để soi sáng đường đi cho dân tộc và nhân loại chúng con.  Nguyện cho nền Phật giáo ở Việt Nam mà lịch đại tổ sư đã dày công khai sáng vun bồi mãi mãi là nền móng đạo đức, là nguồn sống tâm linh của giống nòi Việt Nam.  Giữa lúc thế đạo ngửa nghiêng, nhân tâm ly tán với bao chướng nạn dẫy đầy này, chúng con còn mong ước nào hơn là mong cho các bậc Hùng Sư Đại Sỹ cất lên đuợc tiếng nói của Từ Bi, Trí Tuệ giữa muôn trùng sóng gió tai ương; mong cho những tâm hồn cao cả đã vì không nỡ để Thánh giáo suy, không đành nhìn chúng sanh khổ mà dấn thân vào đạo lớn mỗi mỗi đều thành tựu đuợc hạnh nguyện của mình để cho nền Đạo được vững bền trên quê hương.

-- Nguyện cho dân tộc Việt Nam chúng con, đã triền miên trong thảm họa của chiến tranh thù hận và phân ly tan tác sớm tìm được con đuờng hóa giải mọi oán cừu oan khiên để người người trên quê hương được sống trong an toàn hạnh phúc và với tự do chân thực như phẩm giá cao quý của mình.  Chủ nghĩa mà chi khi non nước điêu linh! chế độ mà chi khi sinh dân độ thán! Chúng con xin trải hết lòng ra mà cầu nguyện cho không ai còn đem ác tâm mà chà đạp ai,  không ai còn thành kiến mà làm cho ai phải sống kiếp đọa đày.  Tai trời ách nước đã nhiều!  Chúng con xin hết dạ cầu mong cho mưa thuận gió hòa, cho kẻ đói được cơm, người đau được thuốc, cho không ai còn vùi thân trong cảnh gió lạnh mưa sa não nùng.

-- Nguyện cho loài người trên mặt đất này không ai còn sống trong ngục tù của chủ nghĩa hận thù cuồng tín và tham vọng cuồng si.  Kỳ thị và bất công đang tạo nên bao mối xung đột.  Khủng bố và chiến tranh đang gieo rắc bao chết chóc đau thương ở khắp mọi nơi.  Từ tận đáy lòng, chúng con xin cho từ tâm mở rộng, đèn tuệ sáng soi để cho người người đuợc sống với nhau trong tình huynh đệ bao la và để cho mặt đất này trở thành một nơi chốn tốt đẹp hơn cho loài người và cả muôn loài đều an lạc.

Tiếp theo, thời kinh bắt đầu bằng tiếng chuông, nhịp mõ và giọng trầm ấm của các tăng ni. Quần chúng phật tử cũng tụng theo làm cho chánh điện trở nên là một đạo tràng trang nghiêm như ở cõi Phật nào đó. Khoảng không chánh điện lúc bấy giờ toàn là một sắc y vàng rực rỡ. Một niềm hạnh phúc lại tràn dâng trong lòng, không thể nói được bằng lời. Người viết chỉ biết nhắm mắt như để khắc ghi và giữ lại hình ảnh sống động này vào nơi sâu nhất trong tâm tưởng, để tận hưởng niềm hạnh phúc ấy một cách trọn vẹn, mấy khi được chứng kiến lại lần thứ hai trong đời.

Phần nghi lễ tại chánh điện kết thúc, cung nghinh chư tăng ni trở lại Tổ đường để làm lễ Cúng Ngọ, Hiệp Kỵ lịch Đại Tổ Sư và lễ Bế Mạc. Vì không thể có mặt Tổ đường chỉ đủ sức dung chứa chư tăng ni, người viết ngồi lại trong chánh điện để nghe thời kinh trong Tổ đường vọng ra bên ngoài, vô cùng cảm động. HT Minh Tâm, Trưởng ban Điều hợp đọc bản văn Tâm Nguyện của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, từ tổ đường vọng ra, giọng nghe thật là vững vàng, dứt khóat, nhưng không kém vẻ sâu lắng cảm động.

C
Chư tôn đức Tăng Ni trong một khóa tọa thiền buổi khuya, có phật-tử tham dự


uối chương trình bế mạc, Hòa Thượng Thích Nguyên Trí được trao cổ vật luân lưu từ tay HT Thích Minh Tâm để năm sau địa phương của Hòa Thượng sẽ nhận trọng trách tổ chức Ngày Về Nguồn lần thứ hai. Hòa Thượng Thích Nguyên Trí đã rơi lệ, nói vài lời cảm nghĩ trong nghẹn ngào. Thầy cảm nhận được niềm hỷ lạc vô biên trong 3 ngày qua cùng các quý tăng ni tinh tấn tu tập, cũng như học hỏi lẫn nhau trong tình đạo bạn hòa hiệp.

Tiếp theo Thầy Tâm Hoà, Trưởng ban tổ chức gửi lời cảm tạ, tỏ lòng tri ân đến Chư Tôn HT, TT, ĐĐ, Tăng Ni đã nhín thời gian quý báu, thu xếp phật sự tại địa phương, cũng như không ngại sức khoẻ yếu già, đường xá xa xôi.. mà về đây hội tụ đông đủ trong tinh thần hòa hiệp, thanh tịnh, góp phần cho Ngày Về Nguồn diễn ra và kết thúc trong thập phần viên mãn. Thầy cũng mong mỏi quý tăng ni hoan hỷ bỏ qua những sơ xuất không tránh khỏi trong việc đón tiếp và phục vụ. Giọng Thầy vốn vẫn thường rõ ràng, chậm rãi, nhưng người nghe không thể không nhận ra nỗi xúc động của Thầy.

Sau cùng HT Tâm Minh thay mặt chư tôn đức trưởng lão, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, tăng ni cảm ơn tăng chúng cùng phật tử chùa Pháp Vân, tán dương công tác điều hành của TT Tâm Hòa Trưởng ban tổ chức, và tuyên bố bế mạc Ngày Về Nguồn lần thứ nhất, hẹn tái ngộ trong lần tới, tại Nam California.

Trở lên chánh điện, TT Tâm Hòa tuyên đọc bản văn tác bạch Cúng dường trai tăng. Rồi TT cùng tất cả phật tử Pháp Vân đảnh lễ trước các quý tăng ni. Cúng dường trai tăng tại chánh điện là thủ tục cuối cùng.

Có tụ, ắt có tán. Sau ba ngày đồng tu và chia sẻ đạo tình, mỗi vị tăng ni đi về mỗi phương trời khác nhau, không còn gặp mặt nhau trong thời gian dài, nhưng trong từng giây phút, người viết nghĩ rằng họ luôn gặp nhau nơi lý tưởng và hạnh nguyện cao cả khi gánh vác trong tâm sứ mệnh của các trưởng tử Như Lai. Kho tàng mà đức Thế Tôn để lại không nhiều, chỉ có một, nhưng vô giá, vô cùng, vô tận. Đã hơn 2500 năm qua, đã có vô số các trưởng Như Lai đã mang kho tàng ấy đến khắp mọi nơi, bất cứ nơi nào mà họ đi qua, họ đã ban bố, vậy mà kho tàng ấy vẫn không bao giờ hết, còn mãi, còn mãi... Kho tàng duy nhất vượt cả thời gian và không gian ấy là: Giác ngộ, giải thoát.

Ba ngày nhanh chóng qua đi, để lại nơi trú xứ Pháp Vân một kỷ niệm thật đẹp về tinh thần hòa hợp của Tăng đoàn. Những gót chân của các vị để lại nơi trú xứ này chắc chắn sẽ luôn được ghi nhớ mãi trong lòng phật tử địa phương. Nơi nào có gót chân của các vị đi qua, nơi đó ắt sẽ có sự an lạc, niềm hạnh phúc, nơi đó chánh pháp được hoằng truyền, mang lại lợi lạc cho chúng sinh.




TU BỤI
truyện dài nhiều chương của


TRẦN KIÊM ĐOÀN




(tiếp theo)
CHƯƠNG TÁM
Cỏ Và Hoa
Nghiệp cũng là duyên. Khi tai họa đến là nghiệp báo. Khi điều tốt đến là duyên lành. Nghiệp và duyên trùng trùng nối đuôi nhau. Nghiệp như cái búa vô hình giáng xuống tạo ra sự đổ vỡ và duyên như chất keo khi dính thì hợp, khi hết dính thì tan. Duyên nghiệp không còn là tiếng vọng ra từ cửa chùa mà đã trở thành ý niệm đời thường của đại chúng.

Đã tạo nghiệp thì phải trả nghiệp; đã trồng duyên thì sẽ được hưởng duyên. Trí Hải tin điều đó như một nguyên tắc công bằng xã hội.

Trong cái không khí thâm cung lạnh ngắt của triều thần lúc đăng triều nghị sự, chỉ còn hình ảnh của các thái giám là vui mắt và linh động nhất. Các quan thì nhất nhất nghiêm cẩn từ cái thở đến cái nhìn. Những lọn tóc dài quấn gọn trong chiếc mũ bình thiên để lộ những cần cổ trắng ngần trên áo gấm. Mắt hướng về quân vương nhưng gáy vẫn rờn rợn với hơi lạnh lưỡi kiếm vô hình của nhà vua có thể giáng xuống vì những sai phạm bất ngờ.

Các thái giám hình như số phận sinh ra không phải để làm người mà để làm cái bóng của con người. Trong cung cấm, giữa đại triều nghi cũng như ngoài tử cấm thành, các thái giám vẫn lượn lờ như những cái bóng. Cái bóng không dựa vào quá khứ mà cũng chẳng vịn vào tương lai. Vệt bóng đêm ngày múa may theo vật chủ, nên khi chưa gặp thời thì chỉ là dư âm, dư ảnh len lỏi và tan loãng giữa những khe hở của đời sống; khi gặp thời lại biến hóa theo tài năng và quyền lực; lúc đắc thì thế rất dễ trở thành hung thần ác sát.

Thái giám chức lớn mặc áo rộng màu lục. Giám trẻ mặc áo màu xanh. Rất khác với hình thêu loan phượng của các quan văn và hình thêu lân ly của các quan võ, trên ngực áo thái giám thêu hoa mầu xanh nền đỏ. Nét đặc biệt nhất trong trang phục của thái giám là cái mũ màu đen thêu chỉ vàng hình một con ve và một cái đuôi con chuột. Một biểu tượng hiểu như là người thái giám được ví với con ve sống tinh khiết với những giọt sương trên cành để phục vụ. Đồng thời, thái giám cũng ví với con chuột chui rúc, len lỏi được vào bất cứ khe hở nào kín đáo nhất trong nhà.

Hơn một năm, từ ngày vua Minh Mạng lên ngôi, lần đầu tiên Trí Hải được triệu vào cung. So với vua Gia Long, người lên làm vua sau cuộc binh đao, trực tiếp cầm quân chiến đấu và chiến thắng với sự kiên trì, thao lược, thì vua Minh Mạng là một ông vua hành chánh. Điển hình là một người con vua được đào tạo cẩn thận để lên làm vua trong khung cảnh “bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng”của vua cha truyền lại. Vua Minh Mạng tập trung vào việc củng cố quyền lực đương triều ngay từ khi mới lên ngôi. Hướng đi đã quá rõ ràng: Tiến gần với Trung Hoa và chống Tây Phương. Chống Tây Phương chẳng phải là một sách lược quốc kế dân sinh mà là một phản ứng tình cảm trước mắt. Phải xóa sạch ảnh hưởng còn sót lại của hoàng tử Cảnh, đông cung thái tử đã được vua Gia Long giao cho linh mục Bá Đa Lộc lúc mới lên 5 để đem qua Pháp đào tạo, chuẩn bị nối ngôi. Hoàng tử Cảnh bất ngờ chết sớm, nhưng con cái và kẻ tâm phúc vẫn còn sống là bóng đen còn đe dọa. Nhân vật gần gũi nhất với hoàng tử Cảnh và tiếp cận với người Pháp một cách chính thức, công khai được vua Gia Long chuẩn nhiệm là Trí Hải. Thế nhưng bao nhiêu sự nhòm ngó, rình rập, theo dõi công khai lẫn bí mật vẫn chưa nêu ra được một nghi vấn nào về hành vi xử sự thiên lệch của Trí Hải. Sự thẳng thắn và trong sáng của Trí Hải làm cho mọi người vừa kính nể vừa khó chịu. Kính nể đã đành, nhưng khó chịu vì chân dung con người phải là một bức tượng đóng rêu; bức tượng phải hoen ố, nếu không vì bão tố, cũng vì thời gian. Bức tượng trong sáng hoài làm cho sương tuyết và thiên hướng sinh diệt của con người mất đi chỗ dựa tự nhiên và cũng không còn nơi trú ẩn quen thuộc của nó. Trí Hải là một loại tượng đài không dựng bằng hình hài hiện thực mà lại được dựng lên đâu đó trong những góc khuất của tâm hồn cây cỏ.

Trời đã gần trưa, nắng chiếm gần hết các tấm đá sẫm màu của sân chầu. Các tầng cấp đá thanh chạm hình rồng vắng bóng người. Ngoài sân chỉ còn hai con nghê bằng đồng, tượng trưng cho uy quyền của vua, có vẻ như đang đứng gác. Trong khung cảnh của một đại tiền đình rộng mênh mông, các trướng liễn đỏ chói, vàng óng ánh, các cột lớn chạm trổ cầu kỳ và công phu được sơn son thếp vàng rực rỡ soi bóng xuống nền đại sảnh bóng láng như gương. Xa khuất trong bóng mờ của một thiên các mầu hoa lý, cô lập sau làn khói nhẹ tỏa từ lư trầm, nhà vua vẫn còn đĩnh đạc ngồi đó sau buổi lễ đại triều. Các quan văn võ đại thần lương đống của triều đình được lệnh ở lại chầu vua trong một phiên nghị sự bất thường.

Thình lình có hiệu lệnh, tất cả đều im bặt. Ngay tiếng thở khò khè của các vị quan già cũng phải nén bớt. Một vị quan triều từ cánh tả tiến đến trước ngai vua, lạy năm lạy và quỳ sang một bên đọc lệnh. Thì ra đây là bản văn luận tội Trí Hải về việc tham gia đánh cờ tại kinh đô, làm kinh động triều đình và bá tánh trong thời điểm có quốc tang.

Các quan không ngạc nhiên về bản án mà nín thở chờ đợi cái gì sẽ đến. Không ai nghĩ Trí Hải là một nhân vật thân Tây hay là vây cánh của hoàng tử Cảnh cần phải nhanh tay trừ khử. Nhưng thà dập tắt một con đom đóm nghi ngờ vẫn hơn là mất công chữa đám cháy về sau.

Lời tuyên đọc án lệnh chấm dứt từ lâu mà bá quan vẫn im lặng như tờ. Nhà vua tuy có quyền uy tuyệt đối, nhưng vẫn cần một sự luận tội tập thể của quần thần trên thân phận những nhân vật tiếng tăm lẫy lừng như Trí Hải. Trên những chiếc chiếu gấm màu rực rỡ dệt khéo tay, hướng về phía ngai, Trí Hải đứng cùng với hai vị hoàng thích gần gũi nhất với vua, chờ đợi. Cậu bé ngoan ngoãn ngày xưa, bước đi không dám động gót giày, chí thú hầu hạ bên cạnh vua cha mỗi lần Trí Hải đến viếng vua Gia Long bây giờ là hoàng đế đương triều.

Sự im lặng vẫn kéo dài sau lời truyền của vua gọi các quan tham gia bình nghị. Trong giây phút nghiêm trọng nầy, đối với các lão thần thì sự lo sợ bị quở về thái độ lặng im tiêu cực không thắng nổi ưu tư về tai tiếng vô hình đầy khắc nghiệt của bia miệng đời sau. Thà ngậm miệng như đậy bình, giữ ý như giữ thành dẫu sao vẫn an thân hơn là lên tiếng trong lúc nầy.

Trong không khí trầm trịch khó thở, tiếng con dơi đổi chỗ cũng nghe rõ mồn một. Từ sau chiếc cột chạm rồng leo, ló ra bộ mặt nhẵn nhụi và chiếc áo lục dài của vị trưởng thái giám. Vì có cơ hội tiếp cận với nhau thường xuyên trong chốn thâm cung, Vua và các thái giám hầu cận rất ít khi nói với nhau bằng lời. Vua chỉ cần lừ mắt, liếc mắt, mím miệng hay ra hiệu chỉ bằng ngón tay… là các thái giám đã hiểu một cách rõ ràng và thi hành mệnh lệnh răm rắp, tức thời. Trong không khí im lặng nghẹt thở, viên trưởng thái giám đã bắt gặp một tín hiệu nào đó của nhà vua. Khuôn mặt trắng xanh của ông khi nhợt nhạt, khi lấm tấm đỏ lên, với dáng nhấp nhổm không yên, chứng tỏ người thái giám trưởng đang chiến đấu dữ dội với một tình trạng khó xử nào đó. Cuối cùng, người ta thấy mặt ông vã mồ hôi, mắt như lạc đi, miệng méo xệch khi ông cố thẳng lưng bước ra, đứng khép nép trước mặt bá quan văn võ. Ông liếc cạn Trí Hải mấy lần trước khi thu hết can đảm đứng ra hài tội.

Trước sự ngạc nhiên đến chưng hửng của lớp quan triều đang nén thở chờ đợi, giọng the thé của viên trưởng thái giám cố làm ra vẻ đĩnh đạc cất lên:

- Muôn tâu hoàng thượng, khải bẩm chư bá quan văn võ. Tôn ông Trí Hải là bậc trí giả tài cao học rộng nhưng hành xử còn thua kẻ thất phu. Trong lúc đại tang của tiên vương vừa mới giáp năm, bá tính lòng đau như cắt, nước mắt còn chảy mỗi ngày thì hoàng thân Trí Hải đã mải lo việc cờ bạc vui chơi. Lại nữa, Thái Ấp là ơn vua lộc nước ban cho vậy mà dám đem ra đặt trên chiếu bạc với Hàn Kỳ Vương. Tội lớn tày trời, xin nghiêm trị để làm gương cho bá tánh!

Tiếng nhốn nháo của giới quan triều từ lâu im lặng bắt đầu nổi lên sau lời tâu của viên trưởng thái giám. Vua phải dằn hốt ngà thành tiếng để ra dấu im lặng.

Các quan hầu chánh điện lom khom đi quanh thì thào nói vào tai các quan để thỉnh ý có ai muốn phát biểu, nhưng chẳng có ai đủ can đảm tâu trình lời nào trong giờ phút nghiêm trọng nầy. Hầu như mọi đôi mắt đều mở lớn dồn về phía Trí Hải để xem phản ứng của ông ra sao. Ván cờ lịch sử trên sông Hương vừa qua càng tạo điều kiện cho những giai thoại về Trí Hải được thổi phồng như chuyện huyền thoại. Nét giả tưởng, huyền thoại có vẻ như rất hợp với dáng dấp và vẻ mặt của Trí Hải trong không khí nghị triều im phăng phắc nầy. Trí Hải ngồi im lặng, một nửa người khuất sau bóng của cột điện chạm rồng phụng dát bạc, dát vàng nổi trên nền son rực rỡ. Đôi mắt chẳng nhìn ai. Khuôn mặt thanh tú sáng lên nét thông minh và tĩnh lặng. Người ta có cảm giác thân xác Trí Hải không còn thuộc về cõi trần gian ô trọc nầy. Nó sẵn sàng bay lên nhẹ như bông. Vẻ an lạc của Trí Hải ít nhiều gây nên sự ghen tức biến thành căm giận trong tâm lý của một số quan triều. Đấy là những vị Ba Gấm thường xuyên run rẩy khi bước chân vào chánh điện mà hoàng thượng đăng triều đang ngự trên ngai. Sự bình thản gần như không nghe, không thấy của Trí Hải trước lời buộc tội gay gắt của trưởng thái giám được suy diễn thành thái độ cao ngạo và thách thức.

Quan hành khiển bộ Công bắt được tín hiệu của của hoàng thượng qua viên trưởng thái giám. Ông ta đứng lên tâu trình ý kiến. Ngoài sự lập lại ý chính của thái giám, quan hành khiển còn sụt sùi khóc lóc vì nhớ tiên đế vừa băng hà. Tấm màn trình diễn đã được kéo lên. Hàng đại quan nhất phẩm triều đình đã đạt đến đỉnh cao của danh vọng nên thường cân nhắc lời nói trước mặt hoàng thượng hết sức cẩn trọng. Bởi vậy, các đại thần đều im lặng. Nhưng đây là phiên chợ lý tưởng của các quan nhỏ từ nhị hay tam phẩm trở xuống cạnh tranh nhau. Rất ít quan chịu mất điểm trong cơ hội nghìn năm một thuở nầy. Vị quan sau phải khóc to hơn và lời hài tội Trí Hải cũng phải gay gắt hơn các vị quan trước mới mong chiếm thế ưu việt thượng phong. Vua phải ra lệnh cho phép nói, nhưng cấm khóc mới tránh được tình trạng có thể có quan chuẩn bị lăn đùng ra ngất xỉu vì… tiếc thương tiên đế.

Trí Hải phải nén lắm mới ngăn được giọt nước mắt sắp sửa rơi xuống. Nỗi cảm thương dấy lên trong lòng Trí Hải không phải để thương nhớ ai mà vì thương cho vận nước. Những năm theo hoàng tử Cảnh ở thủ đô Pháp thời trước Cách mạng 1789, Trí Hải đã chứng kiến, tuy không hiểu hết mọi góc cạnh sâu xa của vấn đề, nhưng đã tới tận nơi, theo đám người trẻ vỗ tay hoan hô, la hét, cổ võ những cuộc tranh luận chính trị thẳng thắn, công bằng giữa giai cấp lãnh đạo, quý tộc và các thành phần xã hội. Điệu sống cởi mở nầy đã tạo ra sức mạnh cho đất nước Pháp chuẩn bị phiêu lưu vào những cuộc chinh phục thế giới. Qua những cuộc tiếp xúc với người Pháp đến Việt Nam, Trí Hải thấy được chiến lược từng bước chiếm Viễn Đông làm thị trường thuộc địa của Pháp là điều không tránh khỏi. Thế nhưng cả vua quan đương triều không hề quan tâm chuyện bên ngoài. Lời bình nghị trong các dịp đăng triều để quan có dịp tâu trình lên vua những quốc kế dân sinh thì toàn là những lời tung hô, nịnh hót, tâng bốc. Dối trá trở thành một phương tiện phổ thông để ẩn mình hay tiến thân trên đường bá đạo. Theo dõi các quan nhỏ muốn thành quan to nên phải bắt chước nhau lập lại lời nói ngớ ngẩn và sự kết tội vu vơ do viên trưởng thái giám mở màn để làm vui lòng vua, Trí Hải ngao ngán thở dài. Đã chuẩn bị tinh thần từ ngày ấm Thuyên và phe cánh hoàng tử Cảnh bị triệt hạ, Trí Hải chẳng cảm thấy một chút gì nao núng tinh thần hay sợ hãi. Nhưng nỗi buồn từ đâu lại đến. Nhìn chiếc thuyền chở nặng đang đuối dần phía mũi nhưng phía lái vẫn hát hò. Nói chẳng ai nghe mà còn bị cho là muốn phá hoại cuộc vui.

Các quan như đang say sưa trong cuộc ném đá lên đầu kẻ bị cho là “dị giáo” thời trung cổ.

Vua lại phải dằn hốt ngà lần nữa để bảo các quan im lặng. Những tiếng nói kia dù nhiều ít chừng nào thì cũng chỉ là tiếng lao xao. Vua và các quan đều đang chờ đợi một tiếng nói chung cuộc. Tiếng nói có uy thế từ thời tiên đế nên mọi người đều hiểu sức mạnh đầy ngự trị của nó: Tiếng nói của Quan thượng thư bộ Hình Lê Trung Ẩn.

Không khí thâm cung vãn hồi trở lại khi Lê Trung Ẩn, thủ lãnh sĩ phu Bắc hà và cũng là đương kim thượng thư bộ Hình lên tiếng:

- Tâu hoàng thượng, chiếu theo luật nước đã đặt định từ thời tiên vương, quan thái giám không được lạm bàn vào việc nước hay bất cứ việc gì lớn nhỏ liên quan đến pháp chế của triều đình. Nay quan tổng thái giám đã công khai vi phạm. Vậy theo hình luật đương triều, tội đáng xử chém đầu, không có trường hợp giảm khinh, cải án! Cúi mong hoàng thượng ban chỉ.

Lập tức sau lời tuyên án của quan chấp pháp, người ta thấy bộ phẩm phục màu lục và bộ mặt kinh hoàng của quan quản thái giám rơi xuống nền nhà, tiếp theo là tiếng rên dài như tiếng thét tuyệt vọng:

- Ối! Cha mẹ ơi, chết con rồi!

Sự nghiêm cẩn của Lê Trung Ẩn trong vai trò trọng thần chấp pháp đã nổi tiếng từ thời vua Gia Long nên chẳng ai lên tiếng để cứu một thái giám đến hồi thất thế. Xoay qua vấn đề Trí Hải, Lê Trung Ẩn trình bày một cách vừa đủ:

- Tâu hoàng thượng, đánh giặc bằng gươm giáo hay đánh giặc bằng trí óc, mỗi cách thế đều có sự quan trọng và ý nghĩa riêng của nó. Hàn Kỳ Vương không đem quân lính mà đem quân cờ từ nước lớn Trung Hoa vào khiêu chiến nước ta, làm cho bá tánh bị trêu ngươi, người người nổi giận. Hoàng thân Trí Hải đấu cờ với Hàn Kỳ Vương là một cuộc đấu trí rất gay go không thua gì trận quyết đấu binh hùng tướng mạnh một còn một mất trên chiến trường. Xét về cả hai mặt pháp lý và đạo lý chẳng những không có gì sai phạm mà còn chấm dứt được sự khiêu khích gây hiểu lầm và thù nghịch giữa dân ta và giới Hoa kiều tại kinh đô khắp nơi trong nước. Đây không phải là hành vi cờ bạc vui chơi mà đây là một cuộc chiến đấu bằng trí óc giữa nhân tài hai nước. Hoàng thân Trí Hải đã có công to phò tiên đế từ thời dựng nước. Tâm của Hoàng thân sáng như sao khuê. Hành động của Hoàng thân là một sự dấn thân đầy tài ba và can đảm. Đứng về mặt bảo vệ danh dự và quyền lợi của triều đình và bá tánh, Hoàng thân đã làm một việc tốt đầy quang minh chính đại. Nếu đã không xét về công thì thôi, chứ lẽ nào lại đi luận tội.

Các quan nhất phẩm cảm thấy quả thật “lời nói là bạc, im lặng là vàng”. Các quan nhị phẩm, tam phẩm đã lỡ phóng lao nịnh hót chóng mặt nhìn nhau.

Tiếng nói sang sảng qua lời tâu của Lê Trung Ẩn đầy sức thuyết phục, vừa chan chứa tình người, vừa đượm tình đất nước làm cho các quan văn võ, phần đông là các vị lão thần, bồi hồi nhớ lại buổi đại tiệc gần hai mươi năm xưa ở Ngự Viên giữa nhóm sĩ phu Bắc Hà và vua Gia Long. Những tâm hồn trải dài theo chiều dài của đất nước và vươn lên theo chiều cao của lương tri vẫn thường xuyên bị vật vờ với gió chướng từ mọi phía. Vững vàng thì đứng dậy mà chao đảo thì co cụm rút lui và tàn lụi như đám ma Hời Chiêm quốc.

Sau lời tâu của Lê Trung Ẩn, nhìn một lượt sự bày tỏ hiện ra trên khuôn mặt các đại thần rường cột của triều đình, nhà vua cũng biết được là giới trọng thần đang mạnh mẽ ủng hộ ý kiến của Quan thượng thư bộ Hình. Quyền lực của vua mang danh nghĩa nằm trên thiên hạ nhưng thực tế lại ở trong tay các đại thần. Vua biết là không nên và không thể đi xa hơn nên lạnh lùng “chuẩn tấu” và ra lệnh bãi triều.
Từ trên gò cao đình Thái Ấp, Phạm Xảo có thể nhìn bao quát khu dân cư trải dài trên cánh đồng mênh mông loáng nước đang đợi mùa cấy Đông Xuân. Lác đác trên đường quê, có nhiều nhóm nông dân đang gánh gồng bồng bế nhau di chuyển ra khỏi làng. Phạm Xảo men theo con đường quê, bước lần đến gần hỏi chuyện. Những người ra đi cúi gầm mặt, lầm lũi bước, chẳng ai nói với ai một lời. Hết nhóm nầy qua nhóm khác, cuối cùng mới có một cụ già nhìn trước nhìn sau nói nho nhỏ:

- Vừa qua, có mật chỉ từ quan triều đưa xuống rằng, Hoàng thân chủ Thái Ấp bị Hoàng thượng hạch tội, chúng tôi ở trong vùng chủ quản của hoàng thân sợ bị liên lụy nên đành phải bồng bế nhau ra đi.

Không hỏi thêm lời nào, Phạm Xảo quay về dinh ông Hoàng, gặp Trí Hải để báo tin nông dân rời Thái Ấp như một dấu hiệu chẳng lành rồi lên tiếng:

- Đốn cây to không ngã, giờ bứt lá chặt cành...

Trí Hải nhìn về phía ruộng đồng, thoáng ưu tư nhưng chẳng nói gì. Phạm Xảo lại bình luận:

- Còn đám nông dân kia thật là bạc nghĩa. Hoàng thân đối với họ trước sau như bát nước đầy, như tình thân quyến vậy mà chỉ mới nghe qua một tin đồn chưa rõ đầu đuôi thế nào đã vội bỏ đi. Tại sao chúng ta không giữ họ lại để nghe giải thích cho rõ ràng rồi đi hay ở tùy ý.

Trí Hải vẫn điềm nhiên:

- Tội nghiệp cho đám nông dân nghèo khổ và thật thà, họ đáng thương hơn là đáng trách. Thời nào họ cũng chỉ là công cụ áo cơm. Đất lành thì chim đậu, đất dữ thỉ bỏ đi là tâm lý thường tình. Người xưa có nói “thuận Thiên dã tồn, nghịch Thiên dã vong”nghĩa là thuận với Trời thì còn mà nghịch với Trời thì diệt. Trời là hình ảnh của một sức mạnh khống chế mọi chuyện. Trời giữa trần gian nầy là Vua, là quan quân triều đình. Đã đến lúc chúng ta cần phải buông bỏ tất cả thôi huynh. Còn một chút gì vướng mắc quanh ta là sẽ bị coi như còn cầm khí giới.

Phạm Xảo không tán thành:

- Như vậy là buông tay, chấp nhận thua cuộc mà không có một phản ứng nào để bảo vệ cho mình à?

- Trận chiến của lương tri thường không có biên giới và vũ khí rõ ràng, nên thắng có khi là thua và ngược lại.

- Một kẻ giết người cướp của là thua hay thắng trong trận chiến lương tri?

- Đã không có lương tri thì làm gì có trận chiến, có thắng hay thua. Mất lương tri thì tất cả chỉ còn là bóng đen của một sự trống rỗng vô tận hay là một cuộc hủy hoại tàn độc mà thôi.

Hai người im lặng đuổi theo ý nghĩ riêng. Nguồn suy tưởng của mỗi người khi đầy ắp chuyện đời, khi trống trơn chả có bóng dáng nào lai vãng.

Rồi những ngày xôn xao về tin đồn và phản ứng của người dân Thái Ấp đi qua và nguội dần trong vắng lặng. Khu làng trù phú một thời trong Thái Ấp thưa dần. Hơn năm trăm nóc nhà ngày trước nay chỉ còn trơ lại vài chục gia đình nông dân khó khăn đành phải ở liều tại chỗ.

Hình như tất cả những cái nhìn ái ngại của phía hoàng tộc và triều thần đều dồn về phía Trí Hải. Có rất ít kẻ hả hê đáng kiếp, có người thương cảm ưu tư, nhưng phần đông xót xa thầm lặng. Trí Hải và cuộc đời như một cuốn sách viết chuyện thần tiên, vừa gần vừa xa với mọi người nhưng hoàn toàn vô hại. Một cốt tiên mang dáng người phàm không làm cho ai mất công tìm kiếm hay xua đuổi. Nhưng khi nhân vật có dáng huyền thoại ấy sắp bị đọa vì sự nổi giận của thiên đình, người trần chẳng có ai tưởng tượng sẽ đưa lưng ra đỡ. Từ trong ước mơ thầm kín là thế giới tự do tuyệt đối, con người tha hồ bày tỏ sự khen chê. Người nông dân ra đi mà tấm lòng vẫn còn để lại. Người ta không ở lại để làm ruộng nhưng vẫn thường xuyên ghé về Thái Ấp. Mảnh đất trồng lúa ngày xưa nay được chia mảnh để trồng hoa như một cử chỉ bày tỏ lòng thương quý chủ nhân. Ai cũng biết Trí Hải là người yêu hoa và là một nhà chơi hoa tài tử ở kinh thành.

Cuối mùa Xuân, khi bắt đầu nắng ấm, hoa nở rộ muôn màu muôn vẻ. Được bàn tay của hàng trăm nông dân sớm sớm, chiều chiều tạt qua chăm bón, những cành hoa nhanh chóng vươn mình lên lấp đồng cỏ dại. Cả Thái Ấp là một rừng hoa rực rỡ tuyệt vời. Hoa Thái Ấp phát khởi từ những nâng niu và tấm lòng yêu thương của người nông dân đơn giản thật thà nên cả sắc và hương đều thoát ra dáng vẻ dịu dàng, thanh thoát. Hoa nơi đây không phải là những loài hoa quý tộc, vương giả, đuợc chăm bón thường xuyên và điệu nghệ như ở hoàng cung và kinh thành. Nhờ vậy, sự nẩy mầm vươn lên và trổ hoa tự nhiên, hài hoà bằng vẻ đẹp không kiêu sa mà gợi cảm. Nét đẹp hồn nhiên đi thẳng vào lòng người. Khi con người đã nhận ra tín hiệu của cái đẹp thì cái đẹp tự nó sẽ cung đón tâm hồn về ngự giữa trần gian đầy thánh thiện.

Rừng hoa Thái Ấp làm chấn động kinh thành, nhưng chẳng có ai đi xử tội một rừng hoa. Giữa mùa hoa, người bốn phương kéo đến xem hoa trùng trùng như trẩy hội. Tài tử giai nhân trải lòng hít thở trong thế giới hương sắc của vạn loài hoa. Điều họ mong ước nhất mà chẳng bao giờ thỏa mãn, đó là làm sao gặp được hoàng thân chủ Thái Ấp một lần. Không ai biết rằng sau dãy trường thành trên đồi xa, cả Trí Hải, Phạm Xảo và đôi ba gia nhân còn ở lại đang xới đất, ươm cây, tự lo lấy miếng ăn vì kho lương thực của Thái Ấp đã tháo khoán phát hết cho nông dân. Thuế canh điền là nguồn lợi tức duy nhất cũng không còn.

Phạm Xảo ngạc nhiên với sự làm lụng chăm chỉ của Trí Hải. Dường như Trí Hải để hết tâm tư trên từng luống đất. Mỗi lát cuốc vững vàng và chắc nịch như người nông dân từng trải tay nghề. Trí Hải cười vui hồn nhiên và có vẻ như chẳng để thì giờ hay khoảng trống của đầu óc để mất công suy nghĩ điều gì xa hơn là việc làm trước mắt. Một lần trong bữa cơm chiều, Phạm Xảo hỏi:

- Tôi vẫn thắc mắc là tại sao hoàng thân lại có vẻ thoải mái và vui vẻ trong một hoàn cảnh đáng buồn và vất vả như những ngày nầy?

Trí Hải chưa trả lời mà hỏi lại:

- Thế huynh có thấy thoải mái và vui vẻ trong công việc tay chân mới mẻ nầy không?

Phạm Xảo trả lời không do dự:

- Thật lòng là không. Tôi làm vì phải làm để lo nhu cầu cơm áo mà thôi.

Trí Hải hỏi lại:

- Cơm áo để làm gì?

- Để sống.

- Vậy thì mình tự tạo sự sống cho mình không phải là điều đáng vui sao huynh?

Phạm Xảo không nói gì, Trí Hải nói như gợi lại tâm sự:

- Hơn nửa đời người, tôi sống nhờ người khác. Người khác đổ mồ hôi và sức lao động để tạo ra miếng ăn và sự sống cho tôi chỉ vì tôi được sinh ra trong họ hàng vua chúa. Tôi đã làm được gì để có được dinh cơ và Thái Ấp nầy.

- Tôi hiểu. Nhưng đó là sự phân công xã hội. Người được lãnh đạo phải làm ra của cải vật chất để nuôi sống người lãnh đạo.

- Ai cho con người quyền lãnh đạo người khác?

- Người có sức mạnh và tài năng thì nắm quyền lãnh đạo là lẽ tự nhiên.

- Vẫn có biết bao nhiêu nhân vật xưa nay chẳng có tài năng gì cả nhưng vẫn nắm quyền lãnh đạo. Như trường hợp những vị ấu chúa, lên ngôi hoàng đế để chăn dắt muôn dân mà còn mũi chảy lò thò, chẳng hạn, thì tài năng ở đâu?

- Không có tài năng nhưng có sức mạnh của quan quân và dòng họ vua bao quanh ấu chúa.

- Đấy chỉ là một cách nói khác của luật sinh tồn mạnh được yếu thua mà thôi. Bởi vậy, sự bất lực và yếu đuối nhất của con người là chẳng ai cầm được vận mệnh của chính mình. Người ta vừa là chủ nhân vừa là nạn nhân; vừa là kẻ lãnh đạo vừa là người bị lãnh đạo. Sự thay đổi nhiều khi là một đời, một thời hay một khắc... của sự thuận thời, đắc thế mà thôi.

- Như vậy, xã hội là một mớ hỗn mang, chẳng có quy lật gì cả hay sao?

- Có chứ. Có quy luật nhưng là quy luật của chính nó hay nói khác hơn là của chính khung cảnh và thời điểm nó xuất hiện. Sẽ không có hai ánh sao băng hoàn toàn giống nhau trong dãi thiên hà trên kia; cũng như không bao giờ có một quy luật xã hội có thể đem ứng dụng đúng đắn cho tất cả mọi thời dưới cõi thế nầy.

Phạm Xảo đứng bên cửa sổ nhà ăn nhìn về phía thôn ấp dưới kia, hỏi một cách mệt mỏi:

- Hoàng thân có dự tính gì cho Thái Ấp trong những ngày sắp tới? Không lẽ chúng ta lại cùng nhau biến thành nông dân cuốc đất bất đắc dĩ như thế nầy mãi?

Trí Hải lắc đầu nhè nhẹ:

- Huynh không thấy một rừng hoa dưới kia sao? Ruộng hoang biến thành rừng hoa ngoài sự dự tính của tất cả mọi người chỉ trong một thời gian ngắn. Cái tâm lúa gạo của người nông dân nở hoa được như thế nầy cũng vì những mầm hoa đẹp nhất đã được vun xới và đâm chồi nẩy lộc trong lòng mỗi người Thái Ấp nầy từ bao nhiêu năm qua. Tìm ngày mai trong chính những gì chúng ta đang làm hôm nay. Vì chúng ta buông xả tất cả để tháo khoán hết kho liễm lúa gạo tích trữ mà cấp cho nông dân khi họ đang gặp lúc ngặt nghèo mất mùa lúa, nên hôm nay mới được mùa hoa.

Phạm Xảo xoa hai bàn tay chai đất của mình vào nhau và vịn khung cửa sổ đứng nhìn. Người từ kinh thành về xem hoa như hội. Những khóm hoa, luống hoa, vườn hoa và cả biển hoa huy hoàng nở rộ. Hoa phơi phới như một sự đền bù cho nụ cười không nở được khi người nông dân câm nín bỏ làng ra đi. Phạm Xảo không ngoái lui mà vẫn cảm nhận được có một nụ cười của Trí Hải đằng sau.

- Đẹp quá!

- Cả Thái Ấp nở hoa... và chúng ta đi cuốc đất!

Không biết ai là lời khen, ai là tiếng vọng; nhưng cả hai đều hướng đến một nụ cười đầy hoa và đầy tiếng đùa vui của một ngày mới nở.


(còn tiếp)



THÔNG BÁO
CỦA TẠP CHÍ PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG

Kính thưa quý văn thi hữu và bạn đọc,



  • Phương Trời Cao Rộng đang sưu tập những tranh vẽ và hình chụp nghệ thuật để đăng lên bìa trước, cũng như để minh họa cho các bài vở bên trong. Kính mong sự đóng góp ủng hộ tranh và hình của quí họa sĩ, nhiếp ảnh gia để tạp chí luôn giữ được vẻ mỹ thuật cần thiết cho một tờ báo văn học, nhất là văn học Phật giáo.

  • Có một số độc giả gửi email “yêu cầu được nhận báo”miễn phí, có nghĩa là vừa miễn phí tờ báo (ấn phí), vừa miễn phí tiền gửi bưu điện (cước phí) nhưng rất tiếc chúng tôi không đáp ứng được. Xin thưa, báo biếu chỉ gửi đến quý vị bảo trợ và các văn thi hữu đóng góp bài vở cho Phương Trời Cao Rộng mà thôi. Tạp chí không có ngân quỹ để gửi báo miễn phí đến mọi người, ngoại trừ những hoàn cảnh đặc biệt mà chúng tôi biết rõ. Mỗi kỳ báo đều có đăng trọn vẹn trên trang lưới vinhhao.net, phapvan.ca, quangduc.com và thuvienhoasen.org trong hình thức “điện báo;”đây cũng là một hình thức biếu tặng trong khả năng của chúng tôi rồi, mong quý độc giả thông cảm.

  • Cước phí bưu điện tại Hoa Kỳ đã tăng từ giữa tháng 5, 2007; trong khi đó, ấn phí cũng tăng dần theo vật giá sinh hoạt. Nhiều tờ báo văn học nghệ thuật khác—dĩ nhiên là không kể các báo quảng cáo thương mại—đều phải miễn cưỡng tăng giá. Phương Trời Cao Rộng lâu nay vẫn chủ trương không ghi giá bán mà chỉ sống nhờ sự bảo trợ và ủng hộ dài hạn của độc giả (theo bảng giá đề nghị suýt soát với vốn in và tiền gửi báo), do đó, vẫn không có gì thay đổi (nơi Phiếu Bảo Trợ & Ủng hộ dài hạn). Tạp chí cũng học được phương thức nhắc nhở độc giả dài hạn khi sắp đáo hạn đặt báo (chẳng hạn ghi con số tháng, năm kèm theo tên mỗi người khi gửi báo), nhưng chúng tôi không làm, không nhắc nhở, vì nghĩ rằng quý độc giả đã tự nguyện ủng hộ thì sẽ tự giác nhớ rằng đã qua một năm, hay hai năm; nếu nhiều người đều quên, không tiếp tục ủng hộ thì tờ báo sẽ đình bản một ngày nào đó, thật bất ngờ, là điều đáng tiếc không ai muốn xảy ra.

  • Danh sách chư tôn đức, văn thi hữu, độc giả, và thân hữu bảo trợ và ủng hộ Phương Trời Cao Rộng (tinh thần hay tài chánh) có đăng trên www.vinhhao.net, xin bấm vào mục Phương Trời Cao Rộng, tìm trang Danh sách Bảo Trợ và Ủng Hộ…

  • Bài vở và hình ảnh đóng góp cho Phương Trời Cao Rộng, xin gửi về địa chỉ email: vinhhao@vinhhao.net hoặc vinhhao3011@yahoo.com. Quý vị có thể dùng YouSendIt.com để gửi nếu hình ảnh và bài vở nặng trên 10MB.

Trân trọng cảm tạ sự ủng hộ nhiệt tình, quí báu của quý vị.
Vĩnh Hảo


TIN TỨC PHẬT GIÁO KHẮP NƠI




Hàn quốc- Tượng Phật 1,300 tuổi vẫn nguyên vẹn vừa được khai quật


tải về 1.29 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương