Nội dung số này


Tỳ Kheo Thích Nguyên Siêu



tải về 1.29 Mb.
trang5/12
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích1.29 Mb.
#24073
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

Tỳ Kheo Thích Nguyên Siêu


BẢY MƯƠI NHỊP NHÂN SINH


Vũ Hán


Năm 30 tuổi, tôi chỉ biết được câu “Tam thập nhi lập” mà thôi, nhưng hoàn toàn không biết xuất xứ từ đâu. Tôi cứ ngỡ rằng đó là công ước của con người, là tiêu chuẩn của nhân loại. Tôi ngẫm nghĩ mãi câu này như một “công án, thoại đầu” trong nhà Thiền. Xét thân mình đã 30 rồi mà có LẬP được gì đâu? Tôi tự an ủi mình: Đức Thế Tôn, Ngài là Phật mà đến 35 tuổi mới LẬP ra Đạo Phật. Mình là phàm phu công mỏng tội dày, thì 30 tuổi chưa lập được gì là lẽ tất nhiên... Nhẹ lòng! Tôi thản nhiên mạnh dạn vay mượn tiếp quỹ thời gian để làm vốn... thở.

Thoát một cái, mười năm trôi qua cái vèo! Tôi lại biết thêm câu “Tứ thập nhi bất hoặc”... rối rồi! Quỹ thời gian đã cạn thêm 10 năm mà... chữ LẬP của tuổi “Tam thập” vẫn chưa ló dạng. Mười năm qua, ngoài vay mượn thời gian ra, tôi còn vay mượn bao nhiêu ân tình, tích góp bao nhiêu tài vật của “quê hương” và “tha hương” mà không thay đổi được gì danh phận một “du học ni”.

Tôi đến Trung Quốc học, nên truy ra được tông tích của câu “Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc.” Câu nói bất hủ này Khổng Tử thuật lại trình tự chuyển biến quá trình học đạo tu thân của mình lúc cuối cuộc đời như sau: “Ngô thập hữu ngũ, nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ” (Luận ngữ-thiên Vi Chính). Do vậy, nó không thể áp dụng chung cho tất cả mọi người. Hơn nữa Ngài được tôn vinh là một bậc Thánh thì làm sao hạng tiểu tử, đồ đệ, “hậu sanh…đáng sợ” này y trang như vậy được. Nếu đổi là Thế Tôn của chúng ta thì ngon lành hơn nhiều: “Ngô thập hữu nhị, nhi thông ngũ minh, tam thập nhi chứng đạo, tứ thập lập tứ chúng...” Dẫu biết rằng dù thánh hay phàm gì thì cũng là người. Nhưng giữa người và người có tâm sinh lý, hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, nên dẫn đến sự dị biệt rõ rệt về thành công và thất bại, khổ đau và hạnh phúc v.v... Ngày nay, khoa học còn sử dụng nhiều loại tuổi khác nhau như: tuổi thời gian, tuổi sinh lý, tuổi trí lực, tuổi tâm lý, tuổi xã hội và tuổi tổng hợp.

Câu nói của Khổng Tử thuộc về quan niệm văn hóa Á Đông. Nó hội tụ phương hướng phát triển của con người về cơ học, trí lực, tâm lý, xã hội tương đồng với những tiêu chí cụ thể trong từng giai đoạn, được gọi là tuổi tổng hợp.



Thông thường thì con người bởi tâm lý thể chất bên trong“thúc” và hoàn cảnh điều kiện bên ngoài“đẩy", chúng ta sẽ từ từ kinh qua những nẻo đường xuôi ngược của nhân loại như sau:

1. Võ tượng chi niên: Độ tuổi 15, con người đối với vạn vật rất hiếu kỳ, do vậy tinh thần cầu học rất mạnh, cái gì cũng muốn học, trong đầu đầy ngập dấu hỏi. Tuổi này hấp thụ và hội nhập kiến thức mới rất nhanh, nhưng lại không đủ phân biệt rõ cái mới đó là điều tốt hay xấu có lợi hay có hại. Giai đoạn này được mệnh danh là “Thập ngũ nhi chí vu học.

2. Nhi lập chi niên: Con người bước vào lứa tuổi 30, ý chí cưỡng kháng nghịch cảnh rất mạnh. Suối nguồn phiêu lưu sáng tạo tuôn tràn. Con người bắt đầu xác lập mục tiêu, phương hướng phát triển cho mình. Nhờ những kiến thức tôi luyện đã qua mà ở giai đoạn này con người có đủ khả năng tự đứng vững bằng đôi chân của chính mình để dong ruổi trên chặng đường trưởng thành và phục vụ xã hội bất kể là thành công hay thất bại. Đây là giai đoạn mà con người luôn muốn và thích “nghịch ý trời ta đảo lộn càn khôn” và cũng là thời được tôn xưng là “Tam thập nhi lập".

3. Bất hoặc chi niên: Những nỗ lực phấn đấu của thân và tâm ở tuổi 30 đã giúp cho con người sung sức nồng nàn vượt qua ranh giới 40. Đây là chặng đường mà con người trải qua “những bước thăng trầm” để giải quyết những vấn đề đời sống, khắc phục nghịch cảnh chướng duyên, nên con người dần dà chuyển hóa những suy nghĩ hành vi lỗi lầm, thiếu sót, bồng bột trong giao tiếp, trong đối nhân xử thế. Con người đã bắt đầu có khả năng khám phá ra nhiều tầng ý nghĩa khác nhau trên cùng một sự kiện. Tâm trí sáng suốt, hiểu rõ việc phải trái, giảm thiểu đi những nhầm lẫn mà mình mắc phải trong cuộc đời, không bị cảnh giới bên ngoài mê hoặc lôi cuốn. Đây là tuổi chín chắn, lịch duyệt, kiến thức và kinh nghiệm phong phú. Nhận định vấn đề rành mạch không nghi ngờ. Dù ở môi trường thuận lợi hay khó khăn, đều rút ra được cho mình bài học kinh nghiệm. Nên tuổi này phương Đông chúng ta gọi là “ Tứ thập nhi bất hoặc” là vậy.

4
VẦNG TRĂNG LẠNH

Tôi trở lại, như vầng trăng đã khuyết,
Gió thu buồn, tiễn biệt bước chân đi.
Bờ mi óng, ngày xưa nay đã hết,
Hạt trang đài, nay đã kết về đâu?
Ngước lên trên, gió vẫn thổi qua đầu,
Ngó xuống đất, đôi chân tê lạnh quá!
Đời vẫn thế, dẫu ngàn sau vẫn thế,
Có ra đi, là phải có quay về,
Trong nguyên vẹn, hay tan ra từng mảnh,
Bụi thời gian, vẫn một bóng anh linh.

TÌNH YÊU BẤT DIỆT


Ta gởi đến em một tình thương,
Bao trùm lên cả kiếp vô thường,
Dù đời điên đảo sao đi nữa,
Ta vẫn yêu em nỗi nhớ thương!

PHÁP NGUYỆN
. Tri thiên mạng, trí phi chi niên
: Vào tuổi 50, khi trải qua những trôi nổi, con người đã thấy được thành công và thất bại cùng chung một chí tuyến; vinh và nhục là anh em song sinh; khổ và vui là cặp tình nhân; được và mất và đôi tri kỷ. Họ nhìn lại những khổ đau, thất bại, nhục nhã của mình hồi thời “miệng còn hôi sữa” mà cười ngất. Nghiền ngẫm những thành công, tôn vinh, hạnh phúc của thời “ngựa non háu đá” rồi khóc ròng. Tất cả đều là bóng dáng của nhân duyên quả báo. Họ khám phá ra một chơn lý đơn giản và có ích là: Vạn vật đều do nhân duyên quả báo tuần hoàn nối tiếp nhau mà tạo nên. Còn con người chỉ là nhịp cầu nối giữa các hiện tượng mà thôi.

5. Nhĩ thuận, hoa giáp chi niên: Đây là giai đoạn kiện toàn về nhân phẩm. Con người từ 60 tuổi trở lên nội tâm trầm lắng, an định. Không còn thấy chướng tai gai mắt chuyện gì. Hiểu thấu thế thái nhân tình. Kiến giải, luận điểm, học thuyết đều tinh thông. Đối với người thiện kẻ ác, vật tốt hay xấu, sự kiện xuôi hay ngược gì họ đều có cùng thái độ tiếp cận là cảm thông và hỷ xả. Họ không còn thấy đâu là bất lợi, đâu là lỗi lầm nên“nhĩ thuận”.Những quan điểm lập trường của xung quanh đều lý giải ra căn nguyên. Không hổ danh là tuổi “Lục thập nhi nhĩ thuận”.

6. Cổ hy chi niên: Khi bước vào giai đoại cuối của cuộc sống, tâm và đạo của con người hợp nhất nên mới có thể “tòng tâm sở dục nhi bất du củ”. Tâm tánh và pháp tánh hoàn toàn tương ứng. Từ dòng suy nghĩ cho đến ngôn từ, hành động đều hợp tình hợp lý và hợp pháp. Giai đoạn này, con người rút lui vào tư tưởng, âm thầm nuôi dưỡng đời mình. Hoài thai một nỗi niềm tự nhiên thanh thản tự tại, trở thành con người của chính ta - con người tỉnh thức.

Hễ bước vào đời là phải chấp nhận“bật tiếng khóc", để rồi tiếp sau đó là cả một cuộc hành trình dài đầy nhiêu khê nghiệt ngã làm cho quá trình sống của con người trải qua từng giai đoạn như trên. Đó là do tâm lý, cá tính sai lầm ngự trị bên trong và nghịch cảnh chướng duyên bên ngoài lôi cuốn tạo thành những đợt sóng vô hình nhận chìm ta ngay giữa dòng đời. Là con người, hiển nhiên chúng ta phải tạo một lực cưỡng kháng ngược lại để ngoi lên gặt hái kinh nghiệm làm chân lý cho riêng mình.

Đây là chiếc cầu nhân sinh của Ngài Khổng Tử nên nó được kết thúc ở nhịp “thất thập” mà thôi, vì Ngài chỉ thọ 72 tuổi. Nếu Đức Thích Ca Mâu Ni “kết tập” thì sẽ có đến “bát thập... nhập Niết bàn", còn mỗi chúng ta thì… “hãy đợi đấy!

Nếu mọi người đều cho đây là quy luật chung và tất yếu thì cũng còn trường hợp cá thể ngoại lệ. Cuộc đời phải có buồn vui, sướng khổ, vinh nhục, được mất v.v... Nếu chúng ta chấp nhận tập khí di truyền kia cứ đặt mình và cuộc đời vào câu “tam thập nhi lập”, để rồi buồn chán, buông thả đời mình “cuốn theo chiều gió” khi cảm thấy đời mình “chưa được gì” thì thật là oan uổng. Không có gì là quá muộn cả! Thành công là cả cuộc hành trình chớ không chỉ là điểm đến. Ý nghĩa cuộc sống là niềm hạnh phúc từ trong tâm hồn chớ không phải ở những vật chất bên ngoài hay danh lợi phù du. Thôi thì nếu như mình không có điều gì để vui thì hãy vui với điều gì mình đang có.

Tôi chúc nguyện mọi người: lóe sáng tuổi 20; rực rỡ tuổi 30, chói lòa tuổi 40, đĩnh đạc tuổi 50, thông suốt tuổi 60, khỏe mạnh tuổi 70 và siêu suất ở tuổi 80.


NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CHIẾC ÁO CÀ-SA





Hoàng Phong


Chữ cà-sa có nguồn gốc từ tiếng Phạn kasaya. Nhưng thật sự chữ kasaya trong tiếng Phạn không có nghĩa gì là áo cả mà chỉ có nghĩa là bạc màu, cáu cặn hay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm (màu nhạt), trọc hay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch này là hoại sắc, bất chính sắc, hư nát, dính bẩn… Tóm lại chiếc áo cà-sa của người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo… tượng trưng cho những gì nghèo nàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gì về chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc những điều vừa nêu trên đây. Thật vậy, kẻ thế tục thường hay đồng hoá chiếc áo với người tu hành hay Đạo Pháp, họ chỉ thấy những biểu tượng, những quy ước. Đạo Pháp hay người tu hành rất cao cả, nhưng chiếc áo rất tầm thường, hoặc đôi khi cũng có thể hiểu ngược lại: chiếc áo tượng trưng cho cao cả, nhà sư là tầm thường. Tầm thường ở đây có nghĩa là khiêm tốn, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa đen là không xứng đáng để khoác lên người chiếc áo cà-sa. Bài viết không đề cập đến trường hợp theo nghĩa đen hiếm hoi này, tuy nhiên trên thực tế cũng có thể xảy ra được.

Tóm lại, chiếc áo cà-sa không bao giờ mang màu sắc sáng chói, kết ren hay thêu thùa. Chiếc áo của người tu hành không phải là một hình thức để tạo ra ảo giác, không dùng để loè mắt những người thế tục… Chiếc áo cà-sa là biểu tượng của những gì khiêm tốn, đơn sơ và tầm thường nhất mà ta có thể tưởng tượng ra được. Nhưng đồng thời, chiếc áo cà-sa cũng là biểu tượng của Đạo Pháp, do đó cũng tượng trưng cho những gì cao cả và thiêng liêng nhất, vượt lên trên sự hiểu biết quy ước của chúng ta.  

Ngày nay, nhiều tu viện lớn ở Miến điện vẫn còn giữ được truyền thống thật xưa, theo đó các nhà sư phải tự đi nhặt những mảnh vải vụn, những tấm khăn đắp hay liệm người chết vứt bỏ ở những nơi hỏa táng, nghĩa địa hay những đống rác, rồi đem về tự mình chắp nối và may lấy áo để mặc. Mỗi người chỉ được phép có ba chiếc áo như thế, thêm một bình bát để khất thực và một bàn chải đánh răng, thế thôi. Đến đôi dép cũng không có, họ đi chân đất. Theo tôi nghĩ có lẽ đây là truyền thống rất lâu đời, từ thời của Phật. Nhưng trên thực tế, ngày nay chiếc áo cà-sa đã biến đổi ít nhiều tùy theo phong thổ, tập quán, chủng tộc, học phái… Nhưng dù cho có biến đổi, chiếc áo cà-sa vẫn giữ được ý nghĩa nguyên thủy của nó: sự đơn sơ, khiêm nhường, trân quý và cao cả. Trong bài viết này tôi sẽ lần lượt chọn hai thí dụ điển hình, một thuộc Nam tông và một thuộc Thiền học của Bắc tông đề trình bày những biến đổi từ quan niệm đến hình thức của chiếc áo cà-sa, và sau đó sẽ lạm bàn xa hơn về ý nghĩa của chiêc ấy.  
Nguồn gốc, tên gọi và những biểu tượng

của chiếc áo cà-sa

Theo Luật Tạng (Vinaya), Tăng đoàn của Phật lúc ban đầu ăn mặc không khác biệt gì với những người tu hành thuộc các truyền thống tôn giáo khác. Vì thế vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) đề nghị với Phật xin cho các đệ tử được ăn mặc khác hơn để mọi người dễ nhận ra. Đúng vào thời điểm ấy, Phật và người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà đang du hành phương Nam để thuyết giảng, Phật thấy những thửa ruộng lúa hình chữ nhật, chia cắt bởi những con đê tăm tắp. Phật liền bảo A-nan-đà cứ theo mẫu ấy mà may áo cho Tăng đoàn. Vì thế, trong kinh sách tiếng Hán, chiếc áo cà-sa còn gọi là Cát triệt y hay Điền tướng y, mảnh áo mang hình những thửa ruộng, tượng trưng cho sự phong phú và phúc hạnh. Theo thiển ý của riêng  tôi, câu chuyện này cũng đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu của sự biến dạng rồi. Cách so sánh khá thi vị trên đây đòi hỏi đến trí tưởng tượng và những ước mơ phù hợp với tiêu chuẩn và quan niệm về hạnh phúc và giàu sang của thời đại bấy giờ không có gì là Đạo Pháp cả. Như đã trình bày trong phần nhập đề, chiếc áo cà-sa gồm nhiều mảnh ráp lại vì đó là những mảnh vải vụn nhặt được ở bãi tha ma, tượng trương cho những gì tầm thường nhất và cũng để nhắc nhở người tu hành về tấm thân vô thường của họ. 



Cà-sa trong tiếng Hán còn gọi là Đoạn phục, Pháp y, Nhẫn nhục khải, Giải thoát chàng, Cà-sa-duệ, Già-sa-dã…, các chữ này hàm chứa một ý nghĩa chung là dứt bỏ, bất chính, ô uế, nhiễm bẩn, có màu xích sắc (màu đỏ)… Theo sách tiếng Hán, áo không nhuộm hẳn bằng một màu nào cả, chỉ tránh không dùng năm màu chính là xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, nhưng pha trộn nhiều màu để tạo ra một màu xích sắc thật bẩn thỉu, đúng theo ý nghĩa nguyên thủy của chữ kasaya trong tiếng Phạn. Áo gồm nhiều mảnh, có thể mỗi mảnh một màu, vì đó là những mảnh vải nhặt được và khâu đùm với nhau. Ngày nay tùy theo truyền thống của từng học phái, địa phương, phong tục, khí hậu… mà chiếc áo cà-sa cũng biến dạng đi, từ cách may cho đền màu sắc: màu vàng ở Ấn độ và các nước theo truyền thống Nam tông; các màu vàng, màu lam, nâu, nâu đỏ (nhuộm bằng vỏ cây mộc lan, hay củ nâu) như ở Việt Nam và Trung quốc; màu lam ở Hàn quốc; màu đen hay nâu đen (màu trà) ở Nhật; màu vàng nghệ hay nâu đỏ ở Tây tạng… Nói chung có ba màu chính gọi là Như pháp cà-sa sắc tam chủng (ba màu sắc của áo cà-sa theo phép quy định): màu gần như đen (màu thâm, màu bùn dất), màu xanh (màu rỉ đồng), màu gần như đỏ (màu hoa quả). 

 Pháp y của người tu hành gồm có ba loại: Đại, Trung và Tiểu. Loại nhỏ, Tiểu y, gọi là An-đà-hội (Antarvasaka), áo này gồm có năm mảnh ráp lại (ngũ điều). Áo kiểu Trung gọi là Uất-đa-la-tăng (Yttara-Samgha) gồm có bẩy mảnh (thất điều). Áo kiểu rộng, Đại y, gọi là Tăng-già-lê (Samghati), gồm chín mảnh (cửu điều). Trên đây là các loại áo cà-sa có gốc từ Ấn độ. Tùy theo xứ lạnh hay nóng bức, có thể mặc áo tiểu và trung bên trong, rồi mặc thêm áo cửu điều bên ngoài. 

  Chiếc áo cà-sa dùng để che thân, để đắp, để gối đầu hoặc để gấp lại và ngồi lên đó như một toạ cụ. Kinh Bát-nhã có kể chuyện Phật cùng với các đồ đệ sau khi khất thực về, ăn xong, Phật tự lau rửa bình bát, sau đó tự tay xếp áo cà-sa làm tọa cụ và ngồi lên đó để thuyết giảng. Có khi các đồ đệ lấy áo của mình xếp chồng lên nhau để Phật ngồi.           

  Công dụng của chiếc áo cà-sa thiết thực như thế, nhưng dần dần người ta gán thêm cho nó nhiều đức tính khác nữa. Kinh Bi hoa kể chuyện Phật thệ nguyện khi đắc Đạo sẽ mặc chiếc áo cà-sa có đủ năm đức, kinh này gọi là áo Cà-sa ngũ đức và kể các đức ấy ra như sau: 1. Người thế tục nếu biết kính trọng cà-sa sẽ tiếp nhận được Tam Thừa (tức Thanh văn thừa, Duyên giác thừaBồ-tát thừa), 2. Thiên long nhân quỷ nếu biết kính cà-sa cũng đắc Tam thừa, 3. Quỷ thần và chúng sinh chỉ cần bốn tấc của chiếc áo cà-sa cũng được no đủ, 4. Chúng sinh hằng tâm niệm cà-sa sẽ nẩy sinh lòng Từ bi, 5. Giữa nơi trận mạc, nếu có được một mảnh nhỏ áo cà-sa và biết cung kính mảnh áo ấy cũng thắng trận. Một quyển kinh khác là Tâm địa quán kinh lại nêu lên đến mười điều lợi của chiếc áo cà-sa và gọi là Cà-sa thập lợi: 1. Che thân khỏi thẹn ngượng, 2. Tránh ruồi muỗi, nóng rét, 3. Biểu thị các tướng tốt của người xuất gia, 4. Kho chứa châu báu (tức Diệu Pháp của Phật), 5. Phát sinh nghị lực gìn giữ giới hạnh, 6. Màu nhạt bẩn không làm phát sinh lòng ham muốn, 7. Mang đến sự thanh tịnh, 8. Tiêu trừ tội lỗi, 9. Mảnh đất tốt làm nẩy sinh Bồ-đề tâm, 10. Giống như áo giáp, mũi tên phiền não không đâm thủng được. 

  Tôi mạn phép kể lể dài dòng như trên đây, vì mục đích muốn nêu lên một thí dụ điển hình trong việc thêm thắt và biến dạng đối với ý nghĩa của chiếc áo cà-sa. Chẳng hạn như đức tính thứ năm do Kinh Bi hoa kể: “nơi trận mạc, nếu có một mảnh nhỏ   cà-sa và biết cung kính cũng thắng trận”, theo tôi nghĩ đức tính này không phù hợp lắm với Đạo Pháp của Phật. Dù sao cũng xin phép được tiếp tục kể thêm rằng sách gốc Hán đã đặt cho chiếc áo cà-sa đến mười hai danh hiệu khác nhau và gọi là Cà-sa thập nhị danh: 1. Cà-sa, 2. Đạo phục (áo của người tu hành), 3. Thế phục (áo của người xa lánh thế tục), 4. Pháp y (áo đúng theo quy định của Đạo Pháp), 5. Ly trần tục (áo xa lánh lục trần), 6. Tiêu sấu phục (áo có khả năng tiêu trừ phiền não), 7. Liên hoa phục (áo như hoa sen không nhiễm bùn nhơ), 8. Gián sắc phục (áo nhuộm cho hư hoại màu đi), 9. Từ bi phục (áo của người thực thi đức Từ bi), 10. Phúc điền phục (áo gồm nhiều mảnh giống như những mảnh ruộng tượng trưng cho phì nhiêu, phúc hạnh), 11. Ngọa cụ (áo dùng để lót lưng khi nằm), 12. Phu cụ (áo dùng làm chăn để đắp).

  Để tiếp tục kể chuyện về chiếc áo cà-sa, tôi xin trình bày tiếp theo đây những gì liên quan đến chiếc áo ấy trong Nam tông và Thiền tông.


Lễ Dâng y của Nam tông

  Một trong những lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất của Nam tông là lễ Dâng y trong dịp kết hạ. Sau thời gian ba tháng an cư trong mùa mưa là lễ kết hạ. Lễ kết hạ đánh dấu ngày chấm dứt ẩn cư, tức thời gian không được phép đi ra ngoài của các tỳ kheo. Người Nam tông làm lễ này rất long trọng và gọi là lễ Dâng y hay Kathina. Thật sự chữ kathina trong tiếng Pali (tiếng Phạn là kathinya) không có nghĩa gì là áo hay dâng y mà có nghĩa là sự vững chắc và trong ngôn ngữ Pali chữ này lại có một nghĩa nữa là cái khung để dệt vải hay may áo.

Trong dịp lễ này, Phật tử dâng vải cho Tăng đoàn may áo cà-sa. Trước khi dâng, vải và các vật cúng dường khác được đặt vào mâm rồi đội lên đầu đi diễn hành trong thôn xóm, làng mạc trước khi đến Chùa để dâng lên các tỳ kheo. Các tỳ kheo phải chia nhau may cắt và phải may cho xong chiếc áo trong một ngày. Tục lệ này được đặt ra để nhắc lại sự tích người mẹ nuôi của Phật, cũng là người Dì tức là em của mẹ Phật, tên là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Cồ-đàm-di (Mahaprajapati Gautami), đã từng thức suốt một đêm để hoàn tất chiếc áo cho Phật. Khi Phật sinh ra đời được bẩy ngày thì mẹ mất, người Dì đứng ra chăm sóc Phật. Sau này, khi Phật đạt được Giác ngộ, Bà đã xin quy y và thành lập Tăng đoàn các Tỳ kheo ni, vì thế Bà cũng là Ni sư đầu tiên của Phật giáo.

Quy luật an cư cần phải có tối thiểu năm tỳ kheo cho mỗi nhóm, và được hưởng một khúc vải dài độ ba thước. Theo nghi lễ, cả nhóm họp lại để cắt may, xong áo thì tặng cho tỳ kheo nào nghèo nhất, hoặc cho người nào thông thái nhất hay lớn tuổi nhất trong nhóm. Khi may xong, áo được căng lên một cái khung (kathina) rồi mời mọi người đến chiêm ngưỡng. Áo này được gọi là mahakathina. Sau đó, khung căng áo được tháo ra để tượng trưng cho sự nới lỏng một vài giới luật đối với các tỳ kheo. Nhưng trước đó trong suốt thời gian an cư, phải giữ khung căng áo nguyên vẹn vì là biểu tượng của giới luật phải giữ gìn. Vì thế, lễ kết hạ của Nam tông mang tên là kathina tức là sự chặt chẽ, vững chắc đúng theo nghĩa của chữ này trong tiếng Phạn và tiếng Pali.

Trên đây là những tục lệ và ý nghĩa được thêm thắt và tô điểm qua thời gian. Kinh sách tiếng Pali lại có kể một câu chuyện như sau. Trước mùa an cư, có một nhóm tỳ kheo độ chừng ba mươi đến năm mươi người họp nhau đến thành Xá-vệ (Savatthi) để cùng an cư bên cạnh Phật. Nhưng trên đường đến Xá-vệ, họ gặp mưa bão triền miên, đi đứng khó khăn, khi đến được Xá-vệ thì quần áo tả tơi và rách nát, hạn an cư ba tháng đã hết. Vì thế nên Phật quyết định lưu giữ Tăng đoàn lại để vá và may quần áo mới, do đó đã nới lỏng một vài giới luật. Cũng có một cách giải thích khác là tháng đầu tiên sau khi kết hạ là tháng dành cho việc may mặc, vì thế nên một vài điều luật được tạm thời nới lỏng trong thời gian này để các nhà sư lo việc may áo cà-sa mới. Tuy rằng ngày nay, việc may mặc không còn là một mối quan tâm cho người tu hành, nhưng thói tục vẫn còn giữ để bảo tồn sự tương trợ giữa những tỳ kheo với nhau, giúp nhau trong việc may vá. Về phía những người thế tục, họ phải cúng dường vải vóc để tự nhắc nhở phải nghĩ đến những khó khăn và thiếu thốn của người xuất gia. 

Các câu chuyện trên đây cho thấy những biến dạng trong ý nghĩa của chiếc áo cà-sa đối với Nam tông. Tuy là những ý nghĩa thêm thắt nhưng vẫn giữ được truyền thống lâu đời. Những thêm thắt đó củng cố và tô điểm thêm cho Đạo Pháp và nhất là bày ra những tục lệ giúp một cách thiết thực vào việc tu hành.


Chiếc áo cà-sa và Thiền tông

Trước khi tịch diệt, Phật trao y bát cho người đệ tử uyên bác, kỷ cương và đạo hạnh nhất là Ma-ha Ca-diếp và khuyên bảo các tỳ-kheo nên nghe theo những lời hướng dẫn của Ca-diếp. Thật ra khi Ma-ha Ca-diếp gặp Phật lần đầu, Phật đã trao áo cho Ma-ha Ca-diếp rồi. Lúc ấy Phật đi từ thành Vương-xá (Rajagrha) đến địa phận Na-lan-đà, Ma-ha Ca-diếp gặp Phật trên đường đi và nhận ra ngay chính đây là Đức Thế Tôn. Ma-ha Ca-diếp phủ phục dưới chân Phật. Phật tuyên bố đây chính thực là một đệ tử của Ngài. Phật cởi áo để trao đổi với Ca-diếp và sau đó đã thuyết giảng riêng cho Ca-diếp. Nhờ thế chỉ tám ngày sau Ca-diếp đắc quả La-hán. Nhưng cũng nên hiểu rằng ngài Ca-diếp đã có căn tu từ trước, đã dốc lòng tu tập trước khi gặp được Phật. Kinh sách kể chuyện ngài bỏ nhà đi tìm Đạo đúng vào ngày Phật đạt được Giác ngộ. Sau khi Phật tịch diệt, chính ngài Ca-diếp đứng ra tổ chức và chủ tọa lần kết tập đầu tiên những lời giảng huấn của Phật. Ma-ha Ca-diếp sống rất thọ, theo Kinh Tăng nhất A-hàm, Ma-ha Ca-diếp trèo lên hang Thạch đầu ở núi Kì-xà-quật (Kukkutapada) khoác lên người chính chiếc áo cà-sa của Phật rồi thệ nguyện rằng xác thân này không bao giờ hư nát cho đến khi nào Phật Di Lặc hiển hiện để cứu độ chúng sinh. Sau lời phát nguyện, Ngài nhập vào Niết bàn. 

Một lần ở núi Linh thứu, trong một buổi đăng đàn, Đức Thế Tôn không thốt lên một lời nào cả, chỉ cầm một cánh hoa đưa lên cho mọi người xem. Tất cả đều ngơ ngác không ai hiểu gì, chỉ có một mình Ma-ha Ca-diếp nét mặt bừng tỉnh và mỉm cười. Truyền thuyết này gọi là “Niêm hoa vi tiếu”» (Cầm hoa mỉm cười), nêu lên khái niệm về sự tinh tế và cao siêu của Giác ngộ không thể trình bày hay diễn đạt bằng lời nói được. Yên lặng tượng trưng cho sự quán nhận trực tiếp, vượt lên trên ngôn từ và sự hiểu biết quy ước của chúng ta. Đây cũng là một đặc thù của Thiền học, vì thế ngài Ca-diếp được xem là tổ thứ nhất của Thiền tông trên đất Ấn. 

Ngài Ma-ha Ca-diếp về sau lại trao y bát của mình cho A-nan-đà. Tục lệ truyền thụ này kéo dài ở Ấn độ cho đến tổ thứ 28 là Bồ-đề-đạt-ma (~470-543), tức gần một ngàn năm sau khi Phật tịch diệt. Khi Bồ-đề-đạt-ma sang truyền Đạo ở Trung quốc, ngài lại trở thành vị tổ thứ nhất của Thiền tông trên phần đất này. Tục lệ truyền y bát tiếp tục trên đất nước Trung Hoa cho đến tổ thứ sáu là ngài Huệ Năng (638-713), tức được thêm khoảng hai trăm năm nữa.


Y bát của tổ thứ năm và ngài Huệ Năng

Ngài Hoằng Nhẫn (601-674), vị tổ thứ năm của Thiền tông Trung quốc, trao chiếc áo cà-sa tượng trưng sự lãnh đạo tông phái cho ngài Huệ-Năng, vì Huệ Năng là người thấu hiểu sâu xa hơn hết về Thiền học trong số các đệ tử của tông phái. Huệ Năng kính cẩn tiếp nhận chiếc áo cà-sa cao quý ấy và đồng thời cũng hiểu rằng chiếc áo tượng trưng cho lãnh đạo và uy quyền này rồi sẽ gây ra sự ganh tỵ và tranh chấp trong Tăng đoàn. Ngài Hoằng Nhẫn cũng ý thức được điều ấy nên khi trao chiếc áo cho Huệ Năng đã khuyên Huệ Năng bỏ trốn về phương Nam và sau này không nên truyền thụ y bát nữa. 

Hừng đông, Huệ Năng khoác lên người một chiếc áo rách để hóa trang, ôm chặt cái bọc gói chiếc áo cà-sa của ngũ tổ Hoằng Nhẫn, lẻn ra khỏi chùa và cắm cổ đi miết về phương Nam. Đi suốt như thế mấy ngày mấy đêm liền, khi đến vùng núi Đại châu, Huệ Năng ngoảnh cổ nhìn lại phía sau, bỗng giật mình hoảng hốt vì trông thấy có hàng trăm người đang hò hét đuổi theo. Dẫn đầu đám đông là sư Huệ Minh, một cựu võ quan đi tu, chính là người muốn cướp đoạt chiếc áo cà-sa của ngũ tổ. Đám đông càng lúc càng gần, Huệ Năng thì vừa mệt vừa đói không còn đủ sức để chạy thêm được nữa, ông liền để cái bọc áo cà-sa lên một tảng đá rồi ngẩng cổ hướng về phía đám đông và nói lớn lên như sau: “Chiếc áo cà-sa tượng trưng cho việc Hoằng Pháp. Tại sao các ông là đám người thế tục lại muốn cướp nó? Cướp giữ chiếc áo cà-sa nhưng thiếu chính Pháp, chẳng qua cũng như một cánh hoa phản chiếu trong gương mà thôi”. Nói xong Huệ Năng tìm một bụi rậm bên đường chui vào để trốn.

Huệ Minh chạy đến thấy cái bọc áo cà-sa, mừng quá liền ôm lấy, nhưng cái gói lại dính chặt vào tảng đá, không thể nào gỡ ra, hoặc kéo lên được. Huệ Minh bỗng nhiên cảm nhận được sức mạnh vô biên của Đạo Pháp, liền chui vào bụi rậm tìm Huệ Năng và phủ phục dưới chân Huệ Năng xin được thọ giáo.

Câu chuyện lại tiếp tục như sau. Huệ Năng rời Huệ Minh và tiếp tục đi về phương Nam. Huệ Năng đến thôn Tào khê, thuộc quận Thiều châu, tá túc ở chùa Bảo lâm. Nhiều tháng sau, vào một đêm tối, có một đám đông gồm nhiều nhà sư, đầu đội mũ sùm sụp, kéo đến đập cửa sau của chùa và hét to lên: “Này Huệ Năng, ngươi phải đưa chiếc áo cà-sa cho chúng ta. Nếu không sẽ có chuyện to đấy”. Trong chùa, Huệ Năng sợ quá, ôm bọc áo tông cổng trước mà chạy. Huệ Năng phăng phăng trèo lên một ngọn đồi gần chùa, nhìn xuống thấy đám đông đốt đuốc đuổi theo, họ chạy nối đuôi nhau, ngòng ngoèo như một con rắn lửa đỏ rực. Huệ Năng thì mệt lả không còn chạy được nữa, liền chui vào một khe đá để trốn. Một lúc lâu, không nghe động tịnh gì, ông thò đầu nhìn ra. Nhưng lúc ấy cả ngọn đồi đã cháy rực như một biển lửa. Đám đông, vì không tìm thấy ông, nên nổi lửa đốt ngọn đồi và tin rằng Huệ Năng thế nào cũng phải chui ra.

Trong tình huống dầu sôi lửa bỏng như thế, Huệ Năng vẫn không cảm thấy sợ hãi cho thân mình, chỉ nghĩ đến việc phải bảo vệ chiếc áo mà thôi. Ông bỗng sực nhớ đến trước đây Huệ Minh không thể nhấc được chiếc áo lên khỏi tảng đá và ông tin rằng chiếc áo này là biểu tượng của sức mạnh Đạo Pháp, không thể nào cháy được. Ông liền bình thản mở cái bọc và khoác lên người chiếc áo cao quý ấy rồi tọa thiền trên một tảng đá. Sau khi nhập thiền, Huệ Năng cảm thấy thân xác nặng thêm, lún sâu vào đá, cảnh tượng hãi hùng biến mất. Lửa tắt, khỏi đen và bụi mù cũng tan biến. Cảnh vật chung quanh trở nên êm ả một cách lạ thường. 

Tọa thiền như thế thật lâu, bỗng Huệ Năng cảm thấy có những tia sáng xuyên vào mắt. Ông mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao, cây cỏ chung quanh và khắp ngọn đồi đã cháy sạch chỉ còn tro bụi. Chiếc áo cà-sa bám đầy tro nhưng không kém vẻ rạng rỡ. Huệ Năng đứng lên, nhưng lại hết sức ngạc nhiên nhận thấy trên mặt tảng đá nơi ông ngồi bị lún sâu, in dấu hai đầu gối của ông lúc tọa thiền, nhìn kỹ hơn lại thấy cả vết vạt áo, vết vải và đường chỉ khâu nữa. Trước cảnh tượng đó, Huệ Năng bất thần chứng ngộ được sức mạnh của Đạo Pháp. 



tải về 1.29 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương