Nội dung số này



tải về 1.29 Mb.
trang3/12
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích1.29 Mb.
#24073
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

Chánh mạng

Chi thứ năm trong giáo lý Bát chánh đạo là chánh mạng, từ này vốn được dịch từ tiếng Pàli là Samma-ajiva. Ajiva là mạng, sinh mạng, cuộc sống. Như vậy, Samma-ajiva có nghĩa là cuộc sống chân chánh hay còn gọi là chánh mạng. Nếu chi thứ tư là chánh nghiệp, thảo luận về việc làm hợp pháp thì chi thứ năm nói về chánh mạng, cuộc sống hợp lý. Sự khác biệt giữa hai chi này là giữa việc làm và cuộc sống. Nói đến cuộc sống là nói đến quan điểm sống, liên quan cả cuộc đời, không làm nhưng vẫn phải sống. Đó là sự khác nhau giữa hai chi này. Trong ‘Kinh Phân Biệt Về Sự Thật’ (Saccavibhangacittasuttam) đức Phật định nghĩa về chánh mạng như sau:

Này chư Hiền, thế nào là chánh mạng? Này chư Hiền, ở đây vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng, sinh sống bằng chánh mạng. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh mạng.”10

Hay trong ‘Đại Kinh Xóm Ngựa’ (Maha ssapura suttam) đức Phật giải thích từ chánh mạng như sau:

"Sanh mạng chúng ta phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì sanh mạng thanh tịnh ấy, khen mình, chê người". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập”. 11

Qua nội dung của hai đoạn kinh trên. Đoạn kinh thứ nhất đức Phật đã sử dụng phương pháp so sánh, lấy từ tà mạng để giải thích chánh mạng, nhưng không có lời giải thích cụ thể rõ ràng nào. Ngược lại, đoạn kinh kế tiếp, đức Phật cho ta nhiều định nghĩa của từ chánh mạng như là: Thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, không che giấu lỗi lầm. Thật ra những khái niệm này mô tả một vị thực hành chánh pháp một cách đúng, cho nên thân tâm người ấy được thanh tịnh, nhờ vậy mà tâm vị ấy được cởi mở, không cố chấp, nếu có lỗi lầm gì, vị ấy tìm đến vị đạo sư hay người thiện tri thức phát lồ sám hối và xin lời chỉ dạy. Như vậy là người có chánh mạng. Đây là ý nghĩa chánh mạng trong Tám chánh đạo.




  1. Chánh tinh tấn

Chi thứ sáu trong Bát chi chánh đạo là ‘chánh tinh tấn’. Từ này tương đồng tiếng Pali là Samma-vayama. Samma là chánh; vayama là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng. Từ này đi kèm với chánh, cho nên gọi là chánh tinh tấn, hay nói cách khác là sự nỗ lực chân chánh, có ý nghĩa. Thế nào là sự nỗ lực chân chánh. Căn cứ ‘Kinh Phân Biệt Về Sự Thật’ (Sacca vibhanga citta suttam) được đức Phật giải thích:

Này chư Hiền, và thế nào là chánh tinh tấn? Này chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo, đối với các ác, bất thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với cái ác, bất thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn trừ diệt; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn khiến cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với các thiện pháp đã sanh khởi, khởi lên ý muốn khiến cho an trú, không cho băng hoại, khiến cho tăng trưởng, phát triển, viên mãn; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh tinh tấn.”12

Mục đích giáo dục của đạo Phật là nhắm đến giác ngộ và giải thoát. Giác ngộ là thấy được chân lý hay nguyên tắc sống; giải thoát là nhờ sự giác ngộ mà hành giả được giải thoát, không có giác ngộ thì không có giải thoát, cũng như không có ánh sáng thì không có sự thấy. Như vậy, giác ngộ là nhân, giải thoát là quả, quả từ nhân mà sinh, không thể có quả mà không có nhân, cũng không thể có nhân là ác mà quả là thiện, nhân quả phải tương thích. Đây là đạo lý nhân quả trong nhà Phật. Cũng vậy, người muốn giác ngộ giải thoát, người ấy không thể lấy vô minh làm phương cách hành xử, giác ngộ và giải thoát không từ đâu mà có. Đã biết được con đường này là con đường dẫn đến hạnh phúc an lạc, và con đường kia là con đường mang lại khổ đau. Chỉ biết như thế và dừng lại ở đó, hạnh phúc cũng không thể tự nhiên đến, khổ đau cũng không thể tự nhiên mà về. Liên quan đến sự hạnh phúc an lạc. Trong ‘Kinh Chuyển Luân Vương”, đức Phật luôn luôn nhắc nhở chúng ta rằng:

“Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: “Này các Tỳ-kheo, hãy tự mình thắp lên ngọn đèn Chánh pháp. Hãy nương tựa nơi pháp của chính mình, chớ đừng thắp lên ngọn đèn khác, đừng nương tựa một pháp khác (Pāli: Attadìpà bhikkhàve viharatha atta saranà anañña saranà. Dhamma dìpà dhamma saranà anañña saranà).

Này chư Tỳ-kheo, nếu ai tự mình thắp lên ngọn đèn chánh pháp, tự nương tựa nơi pháp của chính mình, không thắp lên ngọn đèn khác, không nương tựa một pháp khác, thì có thể cầu học, được lợi và phước vô lượng.”13

Nội dung ý nghĩa đoạn kinh này, đức Phật khuyên chúng ta, hãy là người chủ nhân, làm chủ chính mình, đừng có tư tưởng nương cậy, nhất là nhờ cậy tư tưởng thật nguy hiểm, vì ai giác ngộ người ấy giải thoát, ai vô minh người ấy khổ đau, không ai thay cho ai, giúp cho ai được, cho nên đức Phật khuyên: Hãy nương tựa nơi pháp của chính mình, chớ đừng thắp lên ngọn đèn khác, đừng nương tựa một pháp khác’. Muốn không nương tựa vào kẻ khác, điều kiện cần thiết là phải biết chân lý hay nói dễ hiểu là đạo lý sống, chân lý đó được đức Phật giác ngộ, sau đó Ngài lại nói lại cho chúng ta hiểu, vì lý do đó cho nên Phật pháp cũng được gọi là chân lý. Chân lý là nguyên lý của cuộc sống, bất cứ ai sống trong cuộc đời này cũng phải tuân thủ theo nguyên lý đó, dù là Thánh hay phàm, quan hay dân, nam hay nữ đều giống nhau. Ở đây có từ ‘Pháp của mình’ và ‘pháp của người’, chính là ý nghĩa muốn nói rằng, trên cuộc đời này chỉ có một chân lý, không thể có hai chân lý, hai đạo lý. Đạo lý đó là đạo lý cho tất cả, không có bỉ thử ngã nhân. Hẳn nhiên nó không mang ý nghĩa khen mình chê người, tự cho mình là đúng người khác là sai.

Ngoài ý nghĩa vừa được trình bày, nội dung đoạn kinh này đức Phật gợi ý cho chúng ta biết một điều khá quan trọng là, Ngài chỉ là bậc Đạo sư, chỉ cho chúng ta hiểu rõ con đường đến hạnh phúc và con đường sa vào khổ đau. Mọi người chúng ta muốn đạt đến trạng thái an lạc hạnh phúc đó, tự mình phải nỗ lực đi trên con đường đó. Sự nỗ lực này chính là ý nghĩa của ‘chánh tinh tấn’ trong Tám chánh đạo. Sự nỗ lực của đạo Phật không phải là sự nỗ lực tìm hạnh phúc bằng con đường hưởng thụ dục vọng, mà nỗ lực diệt trừ loại bỏ những nguyên nhân gây ra khổ đau, tức là ý nghĩa của đoạn kinh vừa đề cập, nỗ lực tu tập khiến các pháp bất thiện chưa sinh không sinh khởi, đã sinh được trừ diệt; các thiện pháp chưa sinh liền sinh khởi, đã sinh càng tăng trưởng. Ở đây, chúng ta cũng cần chú ý vấn đề khái niệm thiện và ác, trong đạo Phật định nghĩa hai khái niệm này có ý nghĩa cá biệt. Những giới điều mà chúng ta thường cho rằng, không sát sinh, không trộm cắp… là thiện; ngược lại, sát sinh, trộm cắp… là ác, nhưng thật ra, đây chỉ là hình thức, tức là cái được biểu hiện ra bên ngoài của việc thiện hay ác. Điều ác từ sâu xa bên trong là lòng tham lam, sân hận và ngu si, cái tâm tham sân si này nó mới chính là ác, vì nó chỉ đạo cái miệng buông lời ác, cái thân làm việc ác. Như vậy, hình thức sát sinh, trộm cắp… là quả, tham sân si là nhân của quả. Do vậy, muốn đoạn trừ quả ác, phải đoạn trừ từ nhân ác; muốn không có hành vi bất thiện phải diệt trừ lòng tham sân si. Đây chính là mục đích của sự nỗ lực, nếu nỗ lực mà không chân chánh, tức là không biết kết quả sự nỗ lực đi về đâu, sự nỗ lực đó trở thành vô dụng. Chẳng khác nào như công dã tràng. Nói một cách dễ hiểu, nếu chúng ta nỗ lực tinh tấn tu học, nhưng không tìm hiểu sự nỗ lực đó có phù hợp với đạo giác ngộ giải thoát không, thì sự tu tập đó trở thành vô ích. Phật bảo chúng ta đi con đường này, nhưng ta lại đi con đường khác, làm sao đạt được giác ngộ và giải thoát.

7. Chánh niệm

Chi thứ bảy trong Bát chánh đạo là ‘chánh niệm’.Tiếng Pali là Samma sati. Samma là chánh; Sati có nghĩa là niệm, ức niệm, chánh niệm. Hay nói một cách khác là cột tâm, dán tâm hay chú tâm vào một đối tượng nào đó, được gọi là chánh niệm. Liên quan ý nghĩa này, trong ‘Đại Kinh Xóm Ngựa’ (Maha ssapura suttam) đức Phật giải thích như sau:

Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa?" Chúng ta phải chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi đứng, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.”14

Nguồn gốc của khổ đau là vô minh, nhưng vô minh là cái gì rất trừu tượng khó hình dung, không ai biết vô minh là gì. Muốn hiểu vô minh là gì, không thể trực tiếp tìm hiểu vô minh, phải ngang qua các hình thức mà vô minh biểu hiện, từ đó mới hiểu được vô minh là gì. Cũng vậy, trạng thái thiếu chú ý, không cẩn thận, lơ đãng của tâm là hình thức biểu hiện của vô minh, do vậy nó dẫn đến nhiều hậu quả phiền não khổ đau cho con người. Ví dụ vừa nấu ăn vừa nói chuyện phone, cho nên món xào bị cháy, hoặc nêm nếm mặn lạt; hoặc vừa lái xe vừa nói phone, lạc tay lái xảy ra tai nạn giao thông; hoặc vừa học bài vừa nghĩ đến người thương, cho nên bài không thuộc… thức ăn không vừa miệng, tai nạn giao thông, bài không thuộc…, nguyên nhân chính của nó là thiếu sự tỉnh giác, không chú tâm. Nếu lái xe mà chú tâm vào việc lái xe thì tại nạn khó xảy ra; chú tâm vào việc học bài thì vô lý bài lại không thuộc, và biết bao câu chuyện khác nữa. Đó chính là ý nghĩa câu: Đi mình biết mình đi, ăn mình biết mình ăn, uống mình biết mình đang uống… là thiền. Có người không mấy hiểu ý này lại giải thích thành ra, tu là chuyện ăn, mặc, đi, đứng… là những chuyện bình thường của cuộc sống. Nếu tu chỉ có thế, đâu cần gì học hành, đến trường lớp chi cho khổ. Hoặc cố ý giải thích nó thành những câu chuyện ở từng trời thứ 3415, cả người nghe và người giải thích đều không hiểu. Tự bào chữa cho sự giải thích vô lý của mình, lại đổ thừa cho trình độ người nghe, và nói rằng, “đợi khi chứng ngộ rồi mới hiểu”, cùng nhau vỗ tay đợi chờ ngày ấy, nhưng ngày ấy là ngày nào ai mà biết được, chỉ còn có cách giao hết mạng con cho thầy cho Phật quyết định. Phải chăng giáo lý Phật giáo Đại thừa là giáo lý chỉ dành cho người giác ngộ, có nghĩa là đợi khi nào giác ngộ mới hiểu. Thế thì mọi ngày chúng ta đọc tụng kinh Phật để làm gì? Nên hiểu rằng, giáo lý của đức Phật là giáo lý đến để thấy, biết và thực hành, không phải để tin và thờ phụng. Nếu đạo Phật tiếp tục giải thích theo cách này, thì đó là bức vạn lý trường thành để ngăn chận thế hệ trẻ, giới tri thức đến với đạo Phật. Có lẽ đã đến lúc Phật giáo chúng ta phải kiểm thảo lại cách giáo dục và hoằng pháp của mình.

Trở lại vấn đề. Chánh niệm là giúp cho tâm chúng ta không bị tán loạn; tâm không tán loạn là tâm có chánh niệm, như vậy tâm ấy không có cơ hội phát sinh phiền não.

Từ ý nghĩa cơ bản này đi đến hình thành các pháp môn tu tập trong nhà Phật, như là Niệm Phật, Tứ niệm xứ, Quán hơi thở ra vô, ngay cả quán công án…


Niệm Phật không chỉ dừng lại ở miệng niệm danh hiệu Phật A Di Đà mà chủ yếu là để tâm chúng ta trở về với tự tánh Di Đà. Tự tánh Di Đà là vô lượng quang và vô lượng thọ. Vô lượng quang là ánh sáng vô lượng không có giới hạn, ánh sáng đó là loại ánh sáng nào? là ánh sáng của trí tuệ, chỉ có ánh sáng trí tuệ mới không bị giới hạn bởi chướng ngại vật. Vô lượng thọ là thọ mạng không có giới hạn. Thọ mạng nào lại không bị giới hạn của qui luật duyên sinh? chỉ có thọ mạng của trí tuệ mới có thể không bị quy luật duyên khởi, chuyển đổi cái tâm giác ngộ trí tuệ đó thành cái tâm vô minh đầy đau khổ của chúng sinh. Ý muốn nói rằng, người giác ngộ là người có trí tuệ, người có trí tuệ là người không bị rơi vào cái khổ của sinh diệt, diệt sinh, người không rơi vào cái khổ sinh diệt đồng nghĩa với không rơi vào sinh tử luân hồi, vì sinh tử luân hồi là khái niệm khổ, không còn khổ có nghĩa là thọ mạng của hạnh phúc vô lượng, hay nói một cách khác thọ mạng của trí tuệ vô lượng. Đây là ý nghĩa sâu xa của pháp môn niệm Phật mà người tu tập pháp môn này cần phải biết và thấu hiểu.




  1. Chánh định

Chánh định là chi cuối cùng của giáo lý Bát chánh đạo. Tiếng Pali là Samma samadhiti. Samma là chánh; samadhiti là định, tinh thần thống nhất. Như vậy ý nghĩa của từ này là một loại định chân chánh, một tinh thần thống nhất. Nếu như chi thứ bảy là chánh niệm, nó mang ý nghĩa cột tâm vào một đối tượng nào đó, thì chi thứ tám là chánh định, chi này có tránh nhiệm làm cho đối tượng càng được rõ ràng, từ chuyên môn gọi là quán chiếu thiền quán, đó là sự khác biệt giữa chánh niệm và chánh định. Mô tả về chánh định trong “Kinh Tạp A Hàm” đức Phật giải thích:

Các ông hãy quán sát sắc là vô thường. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sanh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát.”



Cũng vậy, các ông hãy quán sát thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sanh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát.”16

Theo đạo Phật cho rằng, nguồn gốc đau khổ của con người là do vô minh – ngu si. Ngu si về cái gì? Nói cho cùng là nhận thức sai lầm về con người, và thứ đến là thế giới mà con người đang sống. Như thế nào gọi là nhận thức sai về con người? Qua 49 ngày đêm đức Phật ngồi dưới cội cây bồ đề trầm tư về nhân sinh và vũ trụ, phát hiện không có một vật nào trên thế gian có thể tồn tại một cách độc lập, tất cả đều do nhân duyên kết hợp lại mà thành, khi chúng hết duyên thì tự tan rã, không ai có thể thay đổi được nguyên tắc này, dù là Phật hay Chúa, hay bất cứ một thần linh nào. Thân phận con người cũng thế, nó được kết cấu từ năm yếu tố: Sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Trong đó yếu tố đầu tiên thuộc về vật lý, còn lại bốn yếu tố sau thuộc về tinh thần. Năm yếu tố này cùng nhau kết họp lại, hình thành cái được gọi là con người. Giống như chiếc xe được gọi nó là xe, vì chúng có nhiều bộ phận kết nối, như bánh xe, máy xe, thùng xe, nhiên liệu và nhiều yếu tố khác nữa, chiếc xe ấy nếu thiếu một trong những yếu tố này thì nó không thể sử dụng được. Thử hỏi, trong những bộ phận của chiếc xe ấy cái nào là chủ? xét cho cùng không một bộ phận nào là chủ cả, sự tồn tại của nó hoàn toàn tùy thuộc vào cái khác, không chỉ có chiếc xe mà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác nữa. Con người cũng thế, trong năm yếu tố đó không có một yếu tố nào làm chủ, chúng tồn tại luôn luôn tùy thuộc lẫn nhau. Sự tùy thuộc đó hàm chứa ý nghĩa sẵn sàng đổi thay, Phật giáo gọi trạng thái đổi thay đó là vô thường; bản chất con người và thế giới chung quanh luôn ở trong trạng thái đổi thay, vô thường, thế thì tại sao khi nhìn thấy chúng đổi khác lại sinh buồn phiền đau khổ? bằng mọi cách trì níu chúng lại? càng trì níu cố chấp bao nhiêu thì buồn phiền và khổ đau càng tăng bao nhiêu, còn luật vô thường vẫn vận hành theo qui luật của nó, chúng thật vô tình và dửng dưng trước nỗi bi ai thống khổ của con người. Thử hỏi, phải chăng đó là sự ngu si của con người đối với tự thân và thế giới chung quanh nó? nếu chúng ta tự cho mình là người thông minh hiểu biết, tại sao lại tỏ thái độ ngu si không chấp nhận qui luật tự nhiên của vũ trụ? không ai có thể thay đổi được qui luật tự nhiên đó cho dù là Phật hay Chúa, các Ngài cũng phải tuân theo qui luật này mà tồn tại. Đó là lý do tại sao trong hầu hết kinh điển của Phật giáo luôn luôn đề cập giáo lý: Duyên khởi, vô thường và vô ngã. Duyên khởi và vô thường là hai hệ thống giáo lý nói đến bản chất của nhân sinh và vũ trụ, giáo lý vô ngã là giáo lý nói lên quan điểm hay thái độ của đạo Phật đối với con người và vũ trụ.

Nội dung đoạn kinh vừa trích dẫn là lời khuyên của đức Phật dành cho các vị Tỷ kheo hay nói đúng hơn là cho tất cả mọi người, lấy năm uẩn để phân tích về con người, nếu xét cho cùng năm yếu tố này cũng bao gồm vũ trụ, vì sắc uẩn là khái niệm đề cập đến mặt vật chất, không giới hạn chỉ ở trong thân thể con người mà bao gồm cả các yếu tố vật chất của vũ trụ. Ngài chỉ ra rằng, bản chất của con người vốn là do duyên khởi kết hợp, cái gì do nhân duyên kết hợp thì cái ấy vô thường, không phải là thường. Do vậy, con người đối với nó cần có thái độ như thế nào cho hợp lý? Chỉ có cách thừa nhận chấp nhận chúng là vô thường, khi đã hiểu rõ và chấp nhận sắc (vật chất) là vô thường, khi nó vô thường thì tâm không hề dao động, buồn phiền khi thấy chúng vô thường. Người sống trong thế giới vô thường này, nhưng không bị sự vô thường làm cho tâm dao động phát sinh khổ đau, người ấy là bậc Thánh, biến thế giới phiền muộn này thành thế giới an vui hạnh phúc. Ngoài ra đối với thọ, tưởng, hành và thức cũng quán như vậy.

Đây là ý nghĩa chữ quán của bài kinh vừa đề cập, nó cũng là chính là ý nghĩa “Bát Nhã Tâm Kinh” mà chúng ta thường tụng hằng ngày. Với nội dung mô tả: Khi Bồ tát Quán Tự Tại tiến sâu vào trong thiền định, dùng trí tuệ ‘Bát-nhã ba-la-mật’ (prajnapamitra), thấy năm uẩn đều không (vì chúng là vô thường, không có tướng nhất định), cho nên vượt qua tất cả phiền não khổ đau. Như vậy ý nghĩa quán sát, quán chiếu trong thiền định của hai hệ Tiểu thừa và Đại thừa điểm chính vẫn giống nhau. Quán chiếu hay quán sát là chức năng của thiền định, càng quán chiếu sâu chừng nào thì đối tượng càng rõ chừng nấy, khi đã thấy rõ thì không thể làm trái lại với những gì mình đã thấy, nhờ vậy mà thoát ly khổ, đắc lạc.

Kết quả của sự tu tập thiền định là giác ngộ và giải thoát hay nói nôm na là an lạc. Thế thì trạng thái an lạc đó như thế nào? nó có giống với những an lạc và hạnh phúc của thế gian không? Liên quan đến vấn đề này, có rất nhiều kinh trong A hàm hay Nikaya trình bày. Ở đây, người viết mượn “Kinh Phân Biệt Về Sự Thật’ (Saccavibhangacittasuttam) giới thiệu về bốn trạng thái của thiền định trong Phật giáo như sau:

Này chư Hiền, thế nào là chánh định? Này chư Hiền, ở đây, (1) Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm (savitakka), với tứ (savicara). (2) Vị Tỷ-kheo ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. (3) ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. (4) Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh định.”17

Nếu như người thế gian, trạng thái hỷ lạc hay hạnh phúc xuất hiện chỉ khi nào được một cái gì đó, như là được người thương, được tiền của, được địa vị danh vọng… Thế nhưng, những trạng thái lạc của thiền định thì ngược lại, không lấy những cái ấy để vui. Trạng thái lạc của thiền thứ nhất, được mô tả mang ý nghĩa ngược lại với trạng thái lạc của thế gian, Nếu thế gian lấy ‘được’ làm cơ sở cho niềm vui thì trạng thái thiền thứ nhất lại lấy ‘ly’ làm niềm vui. Đó là sự khác biệt giữa cái lạc của thiền và cái lạc trong thiền định.

Trạng thái lạc của thiền thứ nhất là: Tỷ kheo cần phải lấy đời sống phạm hạnh làm niềm vui, có nghĩa là tập sống với cuộc sống xa lìa những loại lạc mong manh của dục vọng và niềm vui của những việc bất thiện, để hướng đến đời sống thánh thiện. Khi vị Tỷ kheo đã quen với đời sống phạm hạnh thì tự đời sống đó lại sinh ra một loại cảm giác lạc an vui, do đời sống ly dục mang lại. Tuy nhiên, ở trạng thái lạc của thiền thứ nhất, chỉ là sự tập sống ly dục và việc làm bất thiện, muốn có lạc này, vị ấy phải có tầm (savitakka), với tứ (savicara). Tầm là tỉnh giác và tứ là quán chiếu. Nói một cách dễ hiểu là Tỷ kheo muốn giữ trạng thái lạc của sơ thiền này, tâm không được xao lãng, bám chặt vào đối tượng, luôn ở trong trạng thái tỉnh giác và quán chiếu. Đây là trạng thái lạc của cõi sơ thiền, là loại lạc của sự ly dục và ly pháp bất thiện.

Nếu như trạng thái lạc ở cõi thiền thứ nhất, do nỗ lực bám chặt vào đối tượng quán chiếu và tỉnh thức để được ly dục ly pháp bất thiện, ở cõi thiền thứ hai hành giả không cần tầm và tứ, vì tâm hành giả đã thuần thục, thấy rõ thực tướng của các pháp, dù các pháp ác xuất hiện, cũng không vì vậy mà xao động, cho nên vị ấy rất tự tại an nhiên ở trong thiền định mà không có tâm cố ý lánh xa các pháp. Cái lạc của thiền thứ hai là do định sanh, không phải do ly dục mà có. Đây là hai loại lạc khác nhau giữa thiền thứ nhất và thứ hai.

Nếu như lạc của thiền thứ nhất là ly dục, lạc của loại thiền thứ hai là thiền định thì trạng thái lạc của thiền thứ ba là ‘xả niệm lạc trú’ là loại lạc do xả mà có. Thế nào gọi là xả? Trạng thái xả này không đồng nghĩa với ý nghĩa xả bỏ mà con người thường đề cập, là loại xả mang tính muốn mà không được cho nên đành phải bỏ. Khái niệm xả trong trạng thái thiền thứ ba là do thấy rõ, và thật chứng được đạo lý duyên khởi vô thường vô ngã, cho nên không còn chấp trước pháp sinh cũng như pháp diệt, đây là trạng thái xã của thiền thứ ba.

Trạng thái tâm lý của thiền thứ tư, với tâm tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Đây là trạng thái tâm của người đã hoàn toàn giải thoát, không còn vướng bận bất cứ việc gì ở thế gian, ngay cả việc tu tập, sống an nhiên tự tại. đây là trạng thái tâm của cõi thiền thứ tư. Có thể nói đây là kết quả của việc tu tập thiền định.

Khi hành giả đã thành tựu bốn cõi thiền này, tức thì bốn vô lượng tâm là từ bi hỷ xả xuất hiện. Sự xuất hiện bốn tâm này, là động cơ, là cơ sở để cứu độ chúng sinh. Nếu lòng từ bi hỷ xả không được xây dựng trên cơ sở của trí tuệ thì lòng từ bi hỷ xả đó, đôi khi bị chướng duyên. Sau khi Phật chứng ngộ dưới cội cây bồ đề, Ngài phát nguyện độ sinh cũng chính là tâm này, vì có tâm này cho nên Phật, Bồ tát ở đâu làm gì cũng không làm cho chúng sinh sợ hãi, nếu là người không có tâm này, dù nấp dưới hình tướng nào, nói lời ngon ngọt như thế nào cũng khiến cho người khác lo sợ. Điều này chúng ta nhìn vào thực trạng xã hội sẽ thấy rõ, ngay cả trong tôn giáo.

Đây là ý nghĩa chánh định là chi thứ tám trong Bát chánh đạo là một trong 37 phẩm trợ đạo.

Ở đây, chúng ta có thể vay mượn lời dạy của đức Phật trong “Đại Kinh Bốn Mươi” (Maha cattarisaka suttam) để tóm tắt ý nghĩa giáo lý Tám chánh đạo

Ở đây, này các Tỷ-kheo chánh kiến đi hàng đầu. Và thế nào, này Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu? Chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, do chánh kiến, được khởi lên. Chánh ngữ do chánh tư duy được khởi lên. Chánh nghiệp do chánh tà ngữ được khởi lên. Chánh mạng do chánh nghiệp được khởi lên. Chánh tinh tấn do chánh mạng được khởi lên. Chánh niệm do chánh tinh tấn được khởi lên. Chánh định do chánh niệm được khởi lên. Chánh trí do chánh định được khởi lên. Chánh giải thoát do chánh trí được khởi lên.”18

Nếu như mặt trời xuất hiện thì bóng đêm biết mất, mặt trời lặn sau rặng núi thì bóng đêm trở về, đó là sự tương phản đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối. Cũng vậy trí tuệ xuất hiện thì vô minh biến mất, trí tuệ biến mất thì vô minh xuất hiện, đó là sự tương phản của tâm thức. Nếu vô minh là nhân của khổ đau, hạnh phúc là quả của trí tuệ thì con người cần phải thắp sáng trí tuệ, để được hạnh phúc.

Căn cứ từ đạo lý này đức Phật thiết lập Bát chánh đạo để thuyết minh về quá trình diệt trừ vô minh mang lại hạnh phúc. Con đường đó bắt đầu chi đầu tiên là chánh kiến, xem đó như là cái nhân cơ bản để mang lại chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chi cuối cùng là chánh định. Là một quá trình logic và hợp lý để thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ. Quá trình này, chánh kiến đóng vai trò khá quan trọng, mang tính hướng dẫn chỉ đạo cho các chi khác thực thi con đường mang lại giác ngộ giải thoát.

Qua nội dung và ý nghĩa của giáo lý Bát chánh đạo, cho chúng ta sự nhận thức, nó là một quá trình chuyển đổi tâm thức, chuyển mê khai ngộ, chuyển phàm thành thánh, chuyển khổ đau thành an lạc hạnh phúc. Hay nói một cách khác, Bát chánh đạo là một phương pháp giúp cho con người nhận thức đúng về thế giới tự nhiên và hành sử hợp lý với qui luật tự nhiên của vũ trụ, nhờ vậy mà con người sống được an lạc và hạnh phúc.

Giáo lý Bát chánh đạo là giáo lý để cho mọi người thực hành, sống đúng với chân lý, không phải là giáo lý để ca ngợi Phật giáo. Giáo lý Bát chánh đạo là giáo lý với nội dung khuyên con người thấy đúng, hiểu đúng và làm đúng, không phải là giáo lý để tin hay phát huy lòng tin. Nếu trí tuệ là thanh gươm sắt bén đoạn trừ vô minh phiền não thì giáo lý Bát chánh đạo là con đường dẫn đến trí tuệ.

Giáo lý Bát chánh đạo có giúp được gì cho cuộc sống con người không? nó hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ am tường và thực hành của chúng ta ngay trong cuộc sống này, không phải là giáo lý chỉ để tụng đọc trong Đại điện..

Chúng ta thử kiểm chứng qua cuộc sống của chính mình, những phiền não khổ đau mà ta đã gặp phải, phải chăng nó đều xuất phát từ vô minh tà kiến? Nếu nó là tà kiến thì giáo lý Bát chánh đạo chính là con đường mang lại an lạc và hạnh phúc cho con người ngay cuộc sống này và mai sau.

Taipei ngày 2 tháng 9 năm 2007



tải về 1.29 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương