Lời Cầu Nguyện Của Rừng



tải về 46.32 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu10.09.2016
Kích46.32 Kb.
#31972

Lời Cầu Nguyện Của Rừng

Phí Minh Tâm


Kính dâng lên Thầy Lê Văn Ký
Trong chuyến đưa các con về thăm Việt Nam hè năm 2004, tôi có dành một ngày đi Cao Lảnh thăm Cô Thầy Lê Văn Ký. Anh Phan Ngọc Châu và Nguyễn Ngọc Điệp, con rễ của Thầy Cô, hướng dẫn cho tôi. Tôi rất vui mừng thấy Thầy Cô, tuy đã lớn tuổi, nhưng vẫn còn mạnh khỏe, nhanh nhẹn và minh mẩn. Cô chặt nước dừa cho chúng tôi uống. Thầy cho biết vẫn còn đánh quần vợt đều đều. Trong dịp nầy, Thầy Cô có tuyên bố nhận tôi làm con và ghi vào gia phả. Thầy còn cho tôi làm Anh Hai. Khi tôi nhắc còn Lê Vinh Qui thì thứ mấy, Thầy không trả lời nên ngôi thứ vẫn chưa nhứt định.

Trong bửa ăn trưa, tôi được ngồi gần Thầy. Thầy đã truyền cho tôi một số các câu thơ đối như: Nhị nữ song hành, Ngưu nữ tại điền trung,…và một bài thơ có tính cách dạy dỗ hơn mà tôi còn nhớ như sau:
Một trà, một rượu, một đàn bà

Ba cái lăng nhăng nó quấy ta

Chừa được cái nào hay cái nấy

Họa chăng chừa rượu với đàn bà! (1)




  1. Có thể tôi chép lộn câu nầy “Họa chăng chừa rượu với chứa trà!”

Thầy còn nói cho tôi biết lịch sử của bài thơ “Lời Cầu Nguyện Của Rừng”. Trước khi từ giả, Thầy có cho tôi bài Thầy viết về bài thơ nầy.


Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục được thành lập tại Blao năm 1955. Mãi đến năm 1957, bài thơ “Lời Cầu Nguyện Của Rừng” mới phổ biến trong các sinh viên theo học tại Trường lúc bấy giờ. Bài thơ do Ông Ngyễn Hữu Đính, một kỷ sư Thủy Lâm lão thành ở Huế, gởi tặng cho Trường cùng với bảng danh từ Lâm Học Pháp Việt. Chỉ biết là Ông Đính mang bài thơ nầy về khi đi dự một hội nghị về Lâm nghiệp ở Miền Bắc. Bài thơ như sau:
Lời Cầu Nguyện Của Rừng

Người hởi !

Người có biết, những đêm đông giá lạnh, ta bốc hơi ấm lữa hun nồng

Người có biết, những ngày hè nắng gắt, ta cho tàng mát rượi ánh thiêu nung

Người có biết, dưới sườn nhà đồ sộ, ta che người dầu dãi nắng mưa chan

Người có biết, trên nếp giường êm ấm, người nương ta an giấc điệp mơ màng

Người có biết, kìa con thuyền vượt sóng, ta đưa người du ngoạn khắp năm châu !

Người có biết, nọ chuôi cày xới đất, ta vun cây cho nẫy nở hoa màu.

Chính ta rước ngươi vào cuộc thế, trong chiếc nôi âu yếm mẹ đưa ru.

Rồi ta sẽ tiễn người khi vĩnh biệt, làn áo quan ấm áp giấc ngàn thu.

Người hởi người, nghe lời ta cầu nguyện: Chớ hại ta mà vũ trụ u sầu...
Để ta sống ta điều hòa mưa nắng, hoa xinh tươi cây cối nẫy thêm tươi.

Để ta sống ta ngăn luồng vũ bảo, chận cát bay làn gió bốc tung trời !

Để ta sống ta đùn mây quyện gió, gieo mưa tuôn đầm ấm cỏi trần gian.

Để ta sống, ta cản dòng nước lũ, cứu nhân dân cơn thủy nộ lầm than.

Ta là nguồn phát sinh trăm con nước, nguồn thành khe, khe suối kết thành sông

Ta là mẹ của muôn nền hưng thịnh, làng hưng phong xây dựng nước hưng phong.

Ta tô điểm non sông nên gấm vóc, cây xanh cao cho lá biếc lớp trùng trùng.

……………………………………………..

Người hởi !

Hồn tổ quốc ngự giữa rừng sâu thẳm

Rừng điêu tàn là Tổ quốc suy vong.

B.B.
Phân tích dưới khía cạnh lịch sử, ta thấy bài thơ trên gồm có 4 phần:



Phần 1

Câu 1 đến câu 10 là dịch từ một bài chữ Pháp Prière de la Forêt, tác giả vô danh, chớ không phải là André Theuriet như một vài tài liệu nêu ra. Các nhà lâm học Việt Nam đều biết đến bài thơ nầy. Khi thời Pháp, một bản gỗ sơn bài Prière de la Forêt được gắn ở cửa vào Nha Thủy Lâm Nam Kỳ (Direction des Eaux et Forêts de la Cochinchine) ở đường Richaud, Sàigòn, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu. Sở Thủy Lâm Đàlạt có dựng một tấm bản gỗ viết bài thơ nầy đặt trên đường vào Trung Tâm Thực Nghiệm Lâm Học, cạnh lăng Cụ Nguyễn Hữu Hào.

Prière De La Forêt

Homme: Je suis la chaleur de ton foyer par les froides nuits d'hiver.

L'ombrage ami lorque brûle le soleil d'été.

Je suis la charpente de ta maison, la planche de ta table.

Je suis le lit dans lequel tu dors

Et le bois dont tu fais tes navires

Je suis le manche de ta houe et la porte de ton enclos

Je suis le bois de ton berceau et de ton cercueïl.

Je suis le pain de la bonté et la fleur da la beauté

Ecoute ma prière: ne me détruis pas !





Hình trên đây là hình bản gỗ chữ Pháp đặt dựa một gốc cây thông và có lẻ là tấm bản gỗ nói trên. Tôi mua tấm ảnh nầy khi đi viếng Đàlạt năm 1954, hơn 2 năm trước khi lên học Trường Blao. Bài thơ chữ Pháp trên bản gỗ cũng như những bài thơ chữ Pháp trước đây mà tôi thấy không có câu: Je suis le pain de la bonté et la fleur da la beauté. Bài dịch của Bùi Bá cũng không có câu nầy. Câu nầy hình như đưọc thêm sau nầy cho phù hợp với nguyên bản chữ Đức.



Phần 2

Gồm 7 câu từ câu 11 đến câu 17 là phần sáng tạo của tác giả. Không có tài liệu nào cho thấy đây là bản dịch.

Phần 3

Người hởi !

Hồn tổ quốc ngự giữa rừng sâu thẳm

Rừng điêu tàn là Tổ quốc suy vong.
Hai câu nầy là dịch từ 2 câu thơ sau đây của André Theuriet (1833-1907), một thi sỉ Viện Hàn Lâm Pháp:
Au plus profond des bois, la patrie a son coeur

Un peuple sans forêt est un peuple qui meurt.



André Theuriet

Phần 4

Phần nầy gồm: hàng dấu chấm chấm và hai chữ B.B.


Hai chữ B.B. hầu như ai cũng biết là chữ viết tắc của Bùi Bá. Theo Hồ Phùng, Ông Bùi Bá là một Kiểm Soát Viên Thủy Lâm, trước làm Hạt Trưởng Thủy Lâm Năm Căn (Cà Mau). Đến năm 1945 ra Bắc và ở lại ngoài đó sau năm 1954. Năm 1982, trong một khóa hội thảo tại Trương Đại Học Nông Nghiệp ở Thủ Đức, Ông Bùi Bá có thêm một câu cho bài thơ, đặt vào chỗ hàng dấu chấm. Câu đó như sau:
Ta bảo vệ chiến khu và chiến sĩ, chống xâm lăng ta kháng chiến oai hùng
Không biết rõ câu nầy có trong bài thơ nguyên thủy, hay Ông Bùi Bá mới viết thêm sau nầy cho đầy đủ. Một điều chắc chắn là trước đây các anh chị em Thủy Lâm Miền Nam không hề biết đến câu nầy.
Bản Anh Ngữ
Năm 1960, trong chuyến thăm viếng Trung Tâm Nghiên Cứu và Giáo Dục Lâm Nghiệp (Forest Research Institue and College) ở Dehra Dun, India, Giáo Sư Lê Văn Ký cho biết có thấy trên tường nhà ăn sinh viên có ghi bài thơ tiếng Anh: Prayer of the Forest là bản dịch nguyên văn bài Prière de la Forêt. Tiếc là tôi không có được bản dịch tiếng Anh nầy. Bản tiếng Anh dưới đây là một bản dịch không biết ai là tác giả và hình như dịch từ bản chữ Pháp hoặc từ nguyên bản chữ Đức:
Prayer of the Forest
Ye: I am the warmth of your home in cold winter nights

And the cool shade when summer's sun burns!

I am the frame of your house and the top of your table

I am the bed in which you sleep

And the timber with which you make your boat.

I am the handle of your hoe and the door of your hut.

I am the wood of your cradle and the boards of your coffin.

I am the bread of kindness and the flower of beauty

Listen to my prayer : Destroy me not!

Bản Đức Ngữ
Năm 1962, trong chuyến thăm viếng các Trung Tâm Nghiên Cứu và các trường Đại Học ở Liên Bang Đức, tại Đại Học Freiburg, Giáo Sư Ký tình cờ có đọc được trên một tờ báo lâm nghiệp cũ bài Das Gebet des Waldes của Hannes Tuch như dưới đây:
Das Gebet des Waldes

O Mensch,

Ich bin deine wandernde Waerme,wenn der Winter wind Weht

Bin dein schirmender Schatten, wenn die Sommer Sonne senkt !

Ich bin der huntente Helm deines Hauses,Die Tafel des Tisches !

Ich bin das Bett, das dich Birgt,

Bin das Holz deiner segelnden Schiffe!

Ich bin der Waechter des Wassers

Der Hirte der Hindin,

Bin der Stab, der dich Stuetzt,

Und der Wehrer des Windes !

Ich bin der Arm deiner Axt ,

Das Tor und die Tuer deines Hauses .

Ich bin die Wand deiner Wiege und das Brett deiner, Bahre.

Bin eine raunende Rune,

Und das klingende Klangholz der Klampf

Ich bin das Brot und die Guete !

Erhoer meine bitte:

Zerstoere mich nicht !

Hannes Tuch
Theo bà Quản Thủ thư viện trường Đại Học Lâm Nghiệp Freiburg, Hannes Tuch là một chuyên viên lâm nghiệp, sinh ngày 2-11-1906 sống ở Kreis Warburg, Westphalei, West Germany. Ông còn là một thi sĩ, một nhà sưu tầm đồ cổ và sản xuất các mặt nạ… Khi được Giao Sư Ký tiếp xúc, Ông Hannes Tuch còn cho biết thêm là bài thơ của Ông làm theo lối thơ cổ của vùng Saxon, xài 3 hay 4 từ trong một câu bắt đầu bằng một chữ cái:
Ví dụ: Ich bin deine wandernde Waerme,wenn der Winter wind Weht

Bin dein schirmender Schatten, wenn die Sommer Sonne senkt


Như vậy bài Lời Cầu Nguyện Của Rừng của Bùi Bá một phần dịch và một phần lấy ý từ bài Prière de la Forêt của Pháp. Còn bài Prière de la Forêt của Pháp không vần, không tác giả gần như dịch nguyên văn từ bài Das Gebet des Waldes của Hannes Tuch, một nhà lâm nghiệp thi sĩ người Đức.

Tài Liệu Trên Internet
Tôi tò mò tìm kiếm trên Internet các bản Lời Cầu Nguyện Của Rừng. Tôi không tìm được bản chữ Anh nào, được vài bài chữ Pháp y như trên, một bài chữ Corse giống như chữ Ý, vài bài chữ Đức như bài dưới đây tác giả vô danh. Đặc biệt không có bài chữ Đức nào lời giống y như bài ký tên Hannes Tuch.
Das Gebet des Waldes (1)
Mensch! Ich bin die Wärme deines Heimes in kalten Winternächten,

der schirmende Schatten, wann des Sommers Sonne brennt.

Ich bin der Dachstuhl deines Hauses, das Brett deines Tisches.

Ich bin das Bett, in dem du schläfst.

Ich bin das Holz, aus dem du deine Schiffe baust.

Ich bin der Stiel deiner Haue, die Türe deiner Hütte.

Ich bin das Holz deiner Wiege und deines Sarges.

Ich bin das Brot der Güte, die Blume der Schönheit.

Erhöre mein Gebet:

Zerstöre mich nicht!



Autor unbekannt
(1) Bài thơ chữ Đức trên Internet nầy giống như dịch từ câu bản chữ Pháp và không có ghi tên tác giả.
Prichera Di A Furesta
Òmu

So u calore da to casa per e to frede notte d'imbernu

L’ombra amigha quandu brusgia u sole d'estate

So a t'intempiada di a to casa

U legnu di a to taula

So lettu indi tu dormi

E u legnu di u to batellu

So u manicu di a to banga

E u purtellu di u to chjosu

So u legnu di u to begulu

E quellu di a to cascia si morte

Ascolta a mio prichera u mi brusgia micca.(1)


(1) Trong bài thơ trên đây của đảo Corse, chữ brusgia trong câu chót là ĐỐT (bruler) không phải PHÁ (détruire) như trong bản chữ Pháp.

Tài liệu tham khảo:


  1. Về bài thơ “Lời Cầu Nguyện Của Rừng “, Lê văn Ký, Giáo Sư Lâm Nghiệp

  2. Về bài thơ “Lời Cầu Nguyện Của Rừng “, Hồ Phùng, Kỷ Sư Thủy Lâm

  3. Lời Cầu Nguyện Của Rừng, Lê Quang Thưởng, Kiểm Sự Thủy Lâm

  4. Các tài liệu trên internet.


tải về 46.32 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương