NHẬp môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa mác-lênin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa mác-lênin



tải về 1.61 Mb.
trang6/17
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.61 Mb.
#25175
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

+ Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất.

Có hai hình thức chiếm hữu cơ bản: Chiếm hữu xã hội (công hữu)

Chiếm hữu tư nhân (tư hữu)

+ Quan hệ giữa người với người trong việc quản lý và phân công lao động.

+ Quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm. Trong lịch sử đã có những hình thức phân phối như: phân phối bình quân, phân phối theo tư liệu sản xuất, phân phối theo lao động, v.v..

- Các mặt hợp thành quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm được tư liệu sản xuất trong tay người đó sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm lao động.



b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

* Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại khồn tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất.

Phù hợp là gì? Phù hợp là sự thích ứng tương dối tạm thời, thoáng qua của QHSX với LLSX, và đây là mối quan hệ luôn vận động và biến đối không ngừng, cái không phù hợp bị cái phù hợp phủ định…đây là sự phát triển theo con đường xoáy ốc.

* Trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất

- Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng của khoa hhọc vào quá trình sản xuất. Như vậy, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như thế nào nó sẽ phản ánh tính chất của lực lượng sảm xuất như thế ấy.

- Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và sức lao động. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất ngày càng có tính chất xã hội hoá.

* Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất

- Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Do đó, trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định.

- Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Bởi vì, trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc, và đạt được năng xuất, hiệu quả cao hơn, con người luôn tìm cách không ngừng nâng cao trình độ của mình, cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới ngày càng tinh xảo hơn, vì thế, làm cho lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và phát triển.

- Cùng với sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mới hình thành, biến đổi và phát triển theo:

+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và theo kịp, phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.

+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi nhưng nó không theo kịp, không phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hảm lực lượng sản xuất phát triển. Khi mâu thuẫn này đạt đến độ chín muồi thì quan hệ sản xuất cũ sẽ bị xoá bỏ và thay thế vào đó là một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay thế vào đó là một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn, cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương thức sản xuất cũ, lỗi thời và thay thế vào đó là một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.

Như vậy, lực lượng sản xuất là nguyên nhân, là nội dung sinh động đòi hỏi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển cho phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lượng sản xuất.

* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất

Mặc dù quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất quy định, nhưng nó cũng có vai trò nhất định trong sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.

- Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển; do đó, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Tác động đó diễn ra theo hai hướng:

- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.

- Kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.

K.Marx viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, ... mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội” (Tuyển tập.tII, 638-639).

Tác dụng kìm hãm của lực lượng sản xuất không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu so với trình độ lực lượng sản xuất, mà cả trong trường hợp có những yếu tố của quan hệ sản xuất vượt trước trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

- Sở dĩ quan hệ sản xuất đóng vai trò tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất là vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân thối sản phẩm. Từ đó nó hình thành nên một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hảm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển chẳng những do yếu tố nội tại của nó, mà còn do sự tác động của quan hệ sản xuất. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động đến toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất khác nhau từ thấp đến cao.

* Ý nghĩa phương pháp luận

- Phát triển lực lượng sản xuất: công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng lực lượng sản xuất tiên tiến. Coi trọng yếu tố con người trong lực lượng sản xuất.

- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản xuất ở nước ta.

- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Nâng cao sự quản lý của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế; đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.



II. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG

1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

a. Khái niệm cơ sở hạ tầng

* Khái niệm cơ sở hạ tầng

Quan điểm duy tâm, siêu hình coi xã hội là con số cộng đơn giản giữa người với người, giữa người với vật; trái lại, triết học mácxít coi xã hội là tổng hợp những quan hệ giữa người với người, trong đó quan hệ kinh tế là nền tảng của xã hội và là cơ sở của tất cả các quan hệ xã hội khác.



- Cơ sở hạ tầng là gì? Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

(Kết cấu hạ tầng là những yếu tố gắn kết các yếu tố của LLSX chứ nó không phải là CSHT)

K.Marx đã viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy, hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.



* Kết cấu của cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng bao gồm nhiều kiểu quan hệ sản xuất:

- Quan hệ sản xuất thống trị

- Quan hệ sản xuất tàn dư

- Quan hệ sản xuất mầm mống

Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò quyết định.



b. Khái niệm kiến trúc thượng tầng

* Khái niệm kiến trúc thượng tầng

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v… cùng với các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội … hình thành trên một cơ sở xã hội nhất định.

* Các yếu tố cơ bản hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội

- Những tư tưởng xã hội về chính trị, pháp quyền, triết học, khoa học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo.

- Những thiết chế tương ứng với những tư tưởng đó (nhà nước, các tổ chức chính trị, văn hóa, các tổ chức tôn giáo, v.v..)

* Nhà nước – bộ máy tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội có đối kháng giai cấp

Bộ phận có quyền lực đặc biệt nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp là Nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị xã hội về chính trị, pháp lý. Chính nhờ có Nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị được về mặt kinh tế và nắm giữ quyền lực nhà nước thì hệ tư tưởng cùng với những thiết chế xã hội của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị, nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng phát triển của toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng của xã hội.



2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng

- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng nào thì nảy sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy.

- Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm vị trí thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về đời sống chính trị.

- Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng nó sẽ quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

- Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.

- Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp quyền.... nhưng cũng có những yếu tố thay đổi chậm hơn rất nhiều so với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng như tôn giáo, nghệ thuật, hoặc có những yếu tố tiếp tục tồn tại dai dẳng ngay cả khi cơ sở kinh tế nảy sinh ra nó không còn tồn tại và có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.

b. Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

- Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động và phát triển của cơ sở hạ tầng. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể đứng vững được trong quan hệ thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.

- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp thì nhà nước là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất đối với cơ sở hạ tầng, vì đó là bộ máy bạo lực, tập trung quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, nghệ thuật .... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng những cách khác nhau. Thường những tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp quyền thì mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội.

- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai hướng:

+ Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.

+ Còn ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế, kimg hãm sự phát triển của xã hội. Nhưng sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với yêu cầu của cơ sở hạ tầng.

- Trong bản thân kiến trúc thượng tầng cũng diễn ra quá trình biến đổi, phát triển có tính chất tương đối. Qúa trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sơ hạ tầng càng có hiệu quả.



III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI

1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội

a. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội

* Khái niệm tồn tại xã hội và các nhân tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội

- Khái niệm: Về khái niệm tồn tại xã hội cũng có một số khái niệm khác nhau.

+ Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện vật chất của xã hội, được đặt trong phạm vi thực tiễn của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

Điểm hạn chế của khái niệm trên là phạm vi phản ánh, ngoại diên của khái niệm hẹp hơn so với cái cần khái quát. Họ chỉ đưa ra những điều kiện vật chất nên có những hiện tượng trong đời sống xã hội khái niệm này không thể giải thích được.

+ Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện vật chất cùng với những quan hệ vật chất được đặt trong phạm vi hoạt động thực tiễn của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

- Tồn tại xã hội bao gồm nhiều yếu tố:

+ Phương thức sản xuất vật chất;

+ Điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý;

+ Dân số và mật độ dân cư;...

Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết định, hai yếu tố còn lại có vai trò quan trọng. Ngoài các yếu tố cơ bản trên, khi nói tới tồn tại xã hội cần phải lưu ý tới các quan hệ vật chất khác như quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc tế.



* Khái niệm ý thức xã hội và cấu trúc của ý thức xã hội (tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội; các hình thái ý thức xã hội).

- Khái niệm ý thức xã hội

Về khái niệm ý thức xã hội cũng tồn tại nhiều khái niệm khác nhau.

+ Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. (Khái niệm cũ)

Đây là khái niệm có ngoại diên quá rộng. Vì căn cứ theo khái niệm này ta thấy, bản thân tâm lý sơ cấp của động vật nói chung, không chỉ có ở động vật mà còn có ở con người. Tâm lý sơ cấp nó chưa phải, không phải là ý thức, đây chỉ là “mắt lưới” của ý thức chứ chưa phải là ý thức. Tuy nhiên, nó cũng là một hoạt động tinh thần.



+ Ý thức xã hội là khái niệm chỉ các hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, phản ánh tông tại xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

+ Về mặt nội dung, ý thức xã hội gồm: tư tưởng, quan điểm, tâm trạng, tình cảm, tập quán, truyền thống...

 Khái niệm ý thức nhằm trả lời cho câu hỏi: con người có nhận thức được thế giới hay không?

 Khái niệm ý thức xã hội nhằm trả lời cho câu hỏi: con người đã nhận biết được gì trong hiện thực,

 Với tư các là một phạm trù thì khái niệm ý thức đối lập với khái niệm vật chất.

 Với tư cách là một phạm trù thì khái niệm ý thức xã hội đối lập với khái niệm tồn tại xã hội.

Để hiểu rõ hơn về ý thức xã hội, chúng ta cần phải phân biệt nó với ý thức cá nhân.

­+ Khái niệm ý thức cá nhân: Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau.

Chúng ta cần nhận thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân.

 Bản thân ý thức xã hội không nằm ngoài ý thức cá nhân, không tồn tại có tính chất trừu tượng, mà ý thức xã hội bao giờ cũng tồn tại thông qua ý thức cá nhân. Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Về mặt bản chất thì ý thức cá nhân không thể không mang tính xã hội.

 Ý thức xã hội bao giờ cũng được biểu hiện và thông qua ý thức cá nhân nhưng không phải ý thức cá nhân nào cũng là ý thức xã hội. Nó không gia nhập hết vào ý thức xã hội. Vì vậy, ta phải bảo vệ, tôn trọng và phát triển tính sáng tạo của ý thức cá nhân. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý thức cá nhân tiêu cực cần được dẹp bỏ.

Tóm lại, ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.

­- Kết cấu của ý thức xã hội

Khi nói về kết cấu của ý thức xã hội chúng ta tiếp cận theo 2 cấp độ:

+ Tiếp cận theo các hình thái ý thức, ý thức xã hội bao gồm: ý thức chính trị, pháp quyền, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học, thẩm mỹ ... Đây là cách tiếp cận theo “lát cắt dọc”. Nghĩa là ta tiếp cận các hình thái ý thức xã hội theo nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

+ Tiếp cận ý thức xã hội theo trình độ phản ánh. Cách tiếp cận này gồm 2 cấp độ:

Ở cấp độ thấp: ý thức xã hội thể hiện ra là ý thức sinh hoạt thông thường (đời thường). Đây là những tri thức, những quan niệm của con người được hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá, đó mới chỉ là những tri thức mang tính kinh nghiệm, phản ánh những cái bề ngoài, cái không bản chất. Bộ phận quan trọng của nó là tâm lý xã hội.



Tâm lý xã hội là gì? Tâm lý xã hội là một bộ phận của ý thức sinh hoạt đời thường, nó là biểu hiện của những hoạt động và cử chỉ của con người. Tâm lý xã hội xã hội bao gồm: tình cảm, tâm trạng, truyền thống, thói quen, nguyện vọng, ý thích, thị hiếu... riêng của mỗi người trong một hoàn cảnh nào đó.

Ở cấp độ cao: Ý thức xã hội được thể hiện ra ở ý thức lý luận. Ý thức lý luận là những tri thức của con người đã được hệ thống hoá, khái quát hoá thành những tư tưởng, học thuyết và nó được thể hiện thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nó mang tính bản chất và thể hiện năng lực tư duy của con người. Bộ phận quan trọng nhất của ý thức lý luận là hệ tư tưởng.



Hệ tư tưởng là gì? Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo) kết quả của sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một các tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định.

Giữa ý thức thông thường và ý thức lý luận là mối quan hệ biện chứng giữa một cái cao và thấp trong quá trình phản ánh.



Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

 Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có sự khác nhau nhưng giữa chúng đều có điểm giống nhau. Cả tâm lý xã hội và hệ tư tưởng đều có nguồn gốc chung đó là phản ánh tồn tại xã hội.

 Mặc dù đều có nguồn gốc chung nhưng sự phân biệt rạch ròi giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là rất cần thiết. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là hai phạm trù khác nhau về chất. Tâm lý xã hội ở trình độ thấp, còn hệ tư tưởng ở trình độ cao. Tuy nhiên, tâm lý xã hội không thể trở thành hệ tư tưởng được. Tình cảm xã hội và lý tưởng xã hội là cầu nối cho mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Tình cảm xã hội và tâm lý xã hội luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau.

b. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

K.Marx viết: “...không thể nhận định được về thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội” (Toàn tập, tập 3, tr.15).

- Tồn tại xã hội là cơ sở, là nguồn gốc khách quan và là nguồn gốc duy nhất của ý thức xã hội, nó làm hình thành và phát triển ý thức xã hội. Còn ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội.

- Khi tồn tại xã hội thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.

- Ta nói tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội là ta nói trong tất cả các bộ phận của tồn tại xã hội đều có ảnh hưởng đến sự thay đổi của ý thức xã hội. Nhưng trong đó phương thức sản xuất là yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất, trực tiếp nhất đến sự thay đổi của ý thức xã hội. Có nghĩa là muốn thay đổi ý thức xã hội, muốn xây dựng ý thức xã hội mới thì dứt khoát sự thay đổi và xây dựng đó phải dựa trên sự thay đổi của tồn tại vật chất hay thay đổi bởi những điều kiện vật chất.

2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở những điểm sau đây:



a. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội

Lịch sử xã hội loài người đã cho thấy, nhiều khi xã hội đã mất đi, thậm chí mất đi rất lâu nhưng ý thức xã hội do xã hội ấy sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng (truyền thống, tập quán, thói quen...). Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau đây:

- Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.

- Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán, cũng như do tính lạc hậu bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

­- Ba là, việc kế thừa ý thức xã hội, xét về góc độ xã hội: trong xã hội có giai cấp thì giai cấp thống trị bao giờ nó cũng phải kế thừa ý thức của các thời đại trước, trong quá trình kế thừa đó, giai cấp thống trị nó phải kế thừa những nội dung có lợi cho địa vị và lợi ích của giai cấp mình. Cho nên, ngoài những nội dung có giá trị tiến bộ thì nó còn có những nội dung không tiến bộ, phản khoa học, kéo lùi xã hội.

b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.

Tính vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội thể hiện ở 2 khuynh hướng sau:

- Ý thức xã hội có tính vượt trước so với tồn tại xã hội nhưng tính vượt trước này lại dựa trên quy luật khách quan. Chính vì vậy, khuynh hướng này là khuynh hướng tiến bộ, khoa học, nó định hướng tích cực cho hoạt động của con người.

- Khuynh hướng thư hai là dựa trên cái chủ quan – là sản phẩm của cái chủ quan. Nó thường đem lại cho chúng ta nhứng ý thức khôg khoa học, thậm chí phản khoa học.



c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình

- Ý thức xã hội của một giai đoạn lịch sử nhất định bao giờ nó cũng là sự hợp thành bởi ý thức xã hội của các thời đại trước với ý thức xã hội của thời đại đó. Điều này cho thấy, không có sự kế thừa thì không có ý thức xã hội.

- Do ý thức xã hội có tính kế thừa nên xuất hiện hiện tượng: có thể về điều kiện vật chất của xã hội nó đang còn thiếu, yếu, phát triển ở trình độ thấp, thế nhưng một bộ phận nào đó trong lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội có thể phát triển ở trình độ cao (tính kế thừa trong sự phát triển).


Каталог: dspace -> bitstream -> 123456789
123456789 -> XÁC ĐỊnh cơ CẤu cây trồng và thời vụ HỢp lý cho các vùng thưỜng xuyên bị ngập lụt tại huyện cát tiên tỉnh lâM ĐỒNG
123456789 -> THÔng 3 LÁ LÂM ĐỒNG
123456789 -> CHƯƠng I: giới thiệu môn học và HẠch toán thu nhập quốc dân kinh tế vĩ mô là gì?
123456789 -> Bài 1: XÁC ĐỊnh hàm lưỢng oxy hòa tan (DO)
123456789 -> HỌc phầN: VẬt lý ĐẠi cưƠng dành cho sinh viên bậc cao đẲng khối ngành kỹ thuậT
123456789 -> BỘ CÔng thưƠng trưỜng cao đẲng công nghiệp tuy hòA
123456789 -> Chương 1: ĐẠi cưƠng về hoá học hữu cơ Hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ
123456789 -> CHƯƠng 1 những khái niệm chung vài nét về lịch sử Thời kỳ thứ nhất

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương