NHẬp môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa mác-lênin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa mác-lênin


d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội



tải về 1.61 Mb.
trang7/17
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.61 Mb.
#25175
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   17

d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội

- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.

- Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy: thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu vầ tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác.

Nhìn chung, để phản ánh tồn tại xã hội thì mọi hình thái ý thức xã hội đều phải thông qua lăng kính của hình thái ý thức chính trị để phản ánh tồn tại xã hội. Tính giai cấp của ý thức xã hội cũng phản ánh qua ý thức chính trị.

e. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội

Đây là biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là rất lớn. Tuy nhiên, vai trò này không phải là cơ bản, mà hiệu quả của sự tác động còn phụ thuộc vào những điều kiện sau đây:

- Phụ thuộc vào lực lượng xã hội, giai cấp đề ra những quan điểm, tư tưởng cho xã hội.

- Phụ thuộc vào mức độ phù hợp ít hay nhiều của những tư tưởng đó đối với hiện thực.

- Phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của những tư tưởng đó đối với nhu cầu phát triển xã hội và vào mức độ mở rộng của tư tưởng đó trong quần chúng.

Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của các hình thái ý thức xã hội cũng như đời sống tinh thần của xã hội nói chung. Nguyên lý này đã bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

3. Ý nghĩa phương pháp luận

- Nghiên cứu ý thức xã hội không được dừng lại ở các hiện tượng ý thức mà phải đi sâu nghiên cứu tồn tại xã hội.

- Muốn phát triển ý thức xã hội của một xã hội mới về lâu dài phải phát triển cơ sở vật chất xã hội của nó.

- Phải thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của ý thức xã hội đối với quá trình phát triển nền văn hoá mới và con người mới. Nói cụ thể hơn, đó chính là việc phát huy, khai thác tính đa dạng, sáng tạo của ý thức xã hội để làm cho đời sống tinh thần không bị tẻ nhạt, phát huy được tính chủ động của mỗi người.



IV. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ-TỰ NHIÊN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI

1. Khái niệm, kết cấu hình thái kinh tế-xã hội

a. Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội

Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất tương ứng với những lực lượng sản xuất ở một trình độ phát triển nhất định và một kiến trúc thượng tầng được dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó.

Xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội và tương ứng với 5 phương thức sản xuất: Cộng sản nguyên thủy  chiếm hữu nô lệ  phong kiến  tư bản chủ nghĩa  cộng sản chủ nghĩa.



b. Kết cấu của hình thái kinh tế-xã hội

Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc, những cá nhân riêng lẻ. Xã hội là một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp, trong đó có những mặt cơ bản nhất là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có một vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo nên sự vận động của cơ chế xã hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng khái niệm hình thái kinh tế - xã hội.

- Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau sẽ có những lực lượng sản xuất khác nhau. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, xét đến cùng do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao.

- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Đây là quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả những quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội lại có một quan hệ sản xuất của nó tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất đó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.

- Kiến trúc thượng tầng. Những quan hệ sản xuất là bộ xương cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở những quan hệ sản xuất đó hình thành nên những quan điểm về chính trị, pháp lý, đạo đức, triết học ... và những thiết chế tương ứng hợp thành kiến trúc tượng tầng xã hội mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.

Ngoài những mặt cơ bản nêu trên (lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng) thì hình thái kinh tế - xã hội còn có những quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của các quan hệ sản xuất.



2. Quá trình lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội

a. Tính lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội

- Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội.

Trên cơ sở phát hiện các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội, K.Marx đã đi đến kết luận “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” (Tập 23, tr.21).

- Các mặt hợp thành của hình thái kinh tế - xã hội không tách rời nhau mà có mối liên hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật vận động, phát triển khách quan và phổ biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác.

Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động và phát triển từ thấp đến cao như một quá trình lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thì sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Nó vừa đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển, vừa biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.

- Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao – đó là con đường phát triển chung của nhân loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hoá, điều kiện quốc tế v.v... Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những nét độc đáo riêng trong sự phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Nhưng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, sự bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.

K.Marx đã từng lưu ý: “Một số dân tộc, một số quốc gia bỏ qua một vài giai đoạn để đến với một giai đoạn xã hội cao hơn không phải là không có điều kiện mà nó phải tuân thủ theo các điều kiện: Phương thức sản xuất định bỏ qua đã lạc hậu, lỗi thời; phương thức mà xã hội ấy muốn thiết lập thì nó đã hình thành hoặc ít ra nó cũng đang hình thành và tỏ rõ được tính ưu việt của nó; phải có sự giúp đỡ của quốc tế; ngoài ra bản thân dân tộc đó phải có được lực lượng cách mạng - một chính đảng có đầy đủ năng lực để lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng ấy”.

Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội trong những điều kiện nhất định.



b. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế – xã hội

- Là cơ sở lý luận để hiểu được cấu trúc và quy luật phát triển của xã hội loài người

- Chống lại các quan điểm duy tâm, siêu hình về xã hội.

- Hiểu sự phát triển của xã hội như là quá trình lịch sử - tự nhiên.

V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác mở đường cho việc nghiên cứu rộng rãi và toàn diện quá trình phát sinh, phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế-xã hội, bằng cách xem xét toàn bộ những xu hướng mâu thuẫn nhau, bằng cách quy những xu hướng ấy vào những điều kiện sinh hoạt và sản xuất đã được xác định rõ ràng của các giai cấp trong xã hội, bằng cách gạt bỏ chủ nghĩa chủ quan và thái độ tùy tiện khi lựa chọn những tư tưởng “chỉ đạo” hay khi giải thích những tư tưởng ấy, bằng cách vạch ra nguồn gốc của mọi tư tưởng và của mọi xu hướng khác nhau trong trạng thái của của lực lượng sản xuất vật chất, không trừ một tư tưởng, một xu hướng nào cả. Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng cái gì quyết định những động cơ của con người và của chính quần chúng nhân dân; nguyên nhân của những xung đột giữa những tư tưởng mâu thuẫn và giữa những nguyện vọng mâu thuẫn là gì, toàn bộ những xung đột ấy trong toàn thể xã hội loài người là như thế nào; những điều kiện khách quan của sự sản xuất ra đời sống vật chất, tức là những điều kiện làm cơ sở cho mọi hoạt động lịch sử của con người, là những gì, quy luật phát triển của những điều kiện ấy là gì? Mác đã chú ý đến tất cả những vấn đề ấy và đã vạch ra con đường nghiên cứu lịch sử một cách khoa học, coi lịch sử là một quá trình thống nhất và có quy luật, mặc dù quá trình đó cực kỳ phức tạp và có rất nhiều mâu thuẫn [26/68-69].

- Nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế-xã hội giúp ta hiểu được đường lối và chủ trương của Đảng ta trong việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để xây dựng hình thái kinh tế-xã hội ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát triển lực lượng sản xuất bằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng cơ sở hạ tầng bằng chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bằng việc xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, v.v..



V. VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI KHÁNG GIAI CẤP

1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

a. Khái niệm giai cấp, tầng lớp xã hội

* Khái niệm giai cấp

- Định nghĩa giai cấp của Lênin:

“Người ta gọi là giai cấp những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đọat lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế-xã hội nhất định”(tập 39, tr. 17-18).



- Theo Lênin, giai cấp có các đặc trưng sau:

+ Là những tập đoàn người to lớn trong xã hội, khác nhau về địa vị kinh tế. Có giai cấp thống trị, có giai cấp bị thống trị trong nền kinh tế.

+ Các giai cấp có quan hệ đối khác nhau đối với tư liệu sản xuất: có giai cấp nắm tư liệu sản xuất (giai cấp chủ nô, giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến, giai cấp tư sản). Có giai cấp không có tư liệu sản xuất (giai cấp nô lệ, giai cấp nông nô, giai cấp vô sản). Có giai cấp có ít tư liệu sản xuất.

+ Các giai cấp có vai trò khác nhau trong tổ chức lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất. Có giai cấp tổ chức, quản lý sản xuất. Có giai cấp chỉ làm thuê.

+ Các giai cấp có cách thức và quy mô hưởng thụ (thu nhập) khác nhau.

Sau khi nêu ra 4 đặc trưng về giai cấp, Lênin kết luận: Giai cấp là những tập đoàn, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác. Đây là thực chất của đối kháng giai cấp và nguyên nhân của đấu tranh giai cấp.



b. Nguồn gốc giai cấp

* Nguồn gốc giai cấp

- Trong xã hội nguyên thủy chưa có giai cấp vì lực lượng sản xuất quá thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp và chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó, không thể tồn tại khả năng bóc lột sức lao động của người khác.

- Khi công cụ bằng kim loại thay thế công cụ bằng đá. Năng suất lao động tăng lên. Tròng trọt, chăn nuôi ra đời và phát triển cùng với các ngành nghề thủ công khác. Chế độ tư hữu ra đời thay thế chế độ công hữu.

- Trên cơ sở chế độ tư hữu diễn ra sự phân hóa thành giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Chế độ chiếm hữu nô lệ là xã hội đầu tiên có giai cấp đối kháng. Sự hình thành giai cấp diễn ra bằng hai con đường:

+ Sự phân hóa trong nội bộ thị tộc, bộ lạc thành giai cấp bóc lột thống trị và giai cấp bị bóc lột, bị thống trị.

+ Chiến tranh cướp bóc là tăng thêm sự giàu có của giai cấp thống trị. Tù binh bị bắt trong chiến tranh bị biến thành nô lệ.



* Kết cấu giai cấp:

- Trong một hình thái kinh tế-xã hội dựa trên chế độ tư hữu có một kết cấu giai cấp nhất định. Khi hình thái kinh tế-xã hội này thay đổi thì kết cấu giai cấp cũng thay đổi theo.

- Trong mỗi kết cấu giai cấp có những giai cấp cơ bản (do phương thức sản xuất thống trị sinh ra) và những giai cấp và thành phần không cơ bản (tàn dư của phương thức sản xuất cũ, mầm mống của phương thức sản xuất mới).

c. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

* Đấu tranh giai cấp nguyên nhân của đấu tranh giai cấp

- Đấu tranh giai cấp là gì ?

Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, là đấu tranh của những giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau, không thể điều hòa được. Đó là cuộc đấu tranh của quần chúng thống trị, áp bức, bóc lột chống lại giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột; là đấu tranh của giai cấp nô lệ chống giai cấp chủ nô, của giai cấp nông nô chống giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến, đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản.

Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội và kết quả cuối cùng của đấu tranh giai cấp là sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau.

- Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp

+ Nguyên nhân sâu xa của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời.

+ Giai cấp bóc lột thống trị có lợi ích gắn liền với quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời nên tìm mọi cách bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất đó. Giai cấp bị thống trị, bị bóc lột có lợi ích gắn liền với việc xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời nên tiến hành đấu tranh để chống lại sự áp bức bóc lột và xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn.

- Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển lịch sử

Đấu tranh giai cấp là một động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng vì:

+ Đấu tranh giai cấp giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất lỗi thời, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

+ Đấu tranh giai cấp dẫn đến đỉnh cao là cách mạng xã hội, xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, cơ sở kinh tế cũ, kiến trúc thượng tầng cũ đưa xã hội phát triển lên một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn.

+ Vai trò động lực của đấu tranh giai cấp thể hiện không chỉ trong thời kỳ cách mạng, mà ngay cả trong thời kỳ hòa bình. Chẳng hạn, đấu tranh của giai cấp vô sản trong xã hội tư bản, tuy chưa xóa bỏ được chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng đã buộc các nhà tư bản phải cải thiện đời sống và điều kiện lao động của giai cấp công nhân; buộc các nhà tư bản phải áp dụng khoa học-kỹ thuật vào trong sản xuất để tăng năng suất lao động.

d. Ý nghĩa phương pháp luận

- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp là cơ sở lý luận khoa học để hiểu thực chất của vấn đề giai cấp trong xã hội, hiểu được nguồn gốc của những mâu thuẫn, xung đột, những cuộc đấu tranh v.v.. trong xã hội.

Lênin viết: “Ai cũng biết rằng, trong mọi xã hội, nguyện vọng của những kẻ này thì ngược với nguyện vọng của những kẻ khác; rằng đời sống xã hội chứa đầy mâu thuẫn;...Chủ nghĩa Mác đã cho ta cái kim chỉ nam để tìm ra những quy luật trong tình trạng rối tung và hỗn độn bề ngoài ấy, đó là lý luận về đấu tranh giai cấp” (Tập, 26, tr.69).

- Là cơ sở khoa học để phân định giai cấp trong xã hội, hiểu thái độ, động cơ của từng giai cấp và xác định lực lượng, động lực của cách mạng.

- Tìm ra con đường đúng đắn, khoa học để xóa bỏ sự phân biệt giai cấp và đấu tranh giai cấp, tiến tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, không có áp bức, bóc lột, không còn đối kháng giai cấp và bạo lực, chiến tranh; đem lại hòa bình vĩnh viễn cho dân tộc và nhân loại.

2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

a. Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của cách mạng xã hội

* Khái niệm cách mạng xã hội và khái niệm cải cách xã hội

- Khái niệm cách mạng xã hội

+ Theo nghĩa rộng:Cách mạng là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.

+ Theo nghĩa hẹp: Cách xã hội là việc lật đổ một chế chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ.

- Khái niệm cải cách xã hội: Cải các xã hội là cách tạo ra những bước ngoặt, tạo nên sự thay đổi về chất nhất định trong đời sống xã hội nhưng cải cách này nó không làm thay đổi một cách triệt để về mặt chính quyền, nó chỉ tạo nên sự biến đổi riêng lẻ, bộ phận chế độ xã hội đang tồn.

­- Khái niệm đảo chính: Đảo chính là thủ đoạn giành quyền lực nhà nước bởi một cá nhân hoặc một nhóm người. Nó không phải là phong trào cách mạng của quần chúng. Cuộc đảo chính chỉ mang tính cách mạng khi nó hoà nhập được với phong trào cách mạng trong xã hội.

- Khái niệm tiến hoá xã hội: Tiến hoá được xem như một quá trình biến đổi về lượng, tích luỹ mà không có sự biến đổi về chất.

- Khái niệm cải lương: Đây là con đường mà những người theo chủ nghĩa cải lương thực hiện nhằm biến đổi. Họ hy vọng làm biến đổi xã hội bằng con đường đấu tranh nghị trường, xa rời đấu tranh bạo lực.



* Nguyên nhân của cách mạng xã hội: Cách mạng xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và biểu hiện về mặt xã hội của nó là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị lỗi thời với giai cấp cách mạng (giai cấp bị thống trị). Khi mâu thuẫn này phát triển đến độ gay gắt nó sẽ dẫn tới đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp ắt sẽ dẫn tới cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế độ xã hội lỗi thời và thay thế vào đó là một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn.

* Các loại hình cách mạng trong lịch sử:

- Cách mạng chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thủy lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ.

- Cách mạng chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ lên hình thái kinh tế - xã hội phong kiến.

- Cách mạng chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội phong kiến lên hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.

- Cách mạng chuyển hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.



b. Những điều kiện khách quan và chủ quan của một cuộc cách mạng xã hội

- Để một cuộc cách mạng xã hội có thể nổ ra được thì cần phải có sự chín muồi về những điều kiện khách quan nhất định, gọi là tình thế cách mạng, bao gồm tình trạng giai cấp thống trị không thể tiếp tục thống trị như trước nữa; chúng đã lâm vào một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Giai cấp bị thống trị cũng không thể tiếp tục sống như trước nữa, vì nổi cùng khổ, quẫn bách của họ đã đến mức nặng nề. Đồng thời tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt: quần chúng sẵn sàng đứng lên làm cách mạng.

- Ngoài ra còn phải có những điều kiện chủ quan nữa. Đó là năng lực tổ chức, lãnh đạo của giai cấp cách mạng, nhất là có một chính đảng có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, có khả năng tập hợp, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đứng lên làm cách mạng.

c. Đặc trưng của một cuộc cách mạng xã hội

Dấu hiệu dặc trưng của một cuộc cách mạng là sự chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng đại diện cho phương thức sản xuất mới cao hơn. Cùng với sự thay đổi chính quyền nhà nước là sự thay đổi cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng của xã hội; xã hội thực hiện một bước nhảy từ hình thái kinh tế-xã hội cũ lên hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn.



d. Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội

- Tính chất của cách mạng xã hội được xã định bởi nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn kinh tế và xã hội tương ứng (mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, xoá bỏ xã hội cũ thiết lập xã hội mới tiến bộ hơn).

- Lực lượng của cách mạng là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có lợi ích ít nhiều gắn với cách mạng và thúc đẩy cách mạng phát triển.

- Động lực của cách mạng xã hội là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng xã hội.

- Vai trò lãnh đạo cách mạng xã hội thuộc về giai cấp đứng ở trí trung tâm của thời đại, giai câp đại biểu cho phương thức sản xuất mới.

e. Nội dung của cách mạng xã hội

- Trong lĩnh vực kinh tế: cách mạng xã hội nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nó xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một kiểu quan hệ sản xuất mới, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.

- Trong lĩnh vực chính trị: Các cuộc cách mạng xã hội nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng cũ. Tức là thiết lập một kiểu kiến trúc thượng tầng mới. Trước hêt là thay đổi bộ máy nhà nước, tạo điều kiện cho chính quyền mới phát triển. Đồng thời với việc thay đổi kiến trúc thượng tầng cách mạng xã hội còn thiết lập một nền dân chủ mới.

- Trên lĩnh vực văn hoá – tư tưởng: cách mạng xã hộ có nhiệm vụ xoá bỏ những lạc hậu, bảo thủ, những tư tưởng không phù hợp với xã hội mới. Trên cơ sở đó xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới nhằm phát triển xã hội.



f. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

* Cách mạng xã hội là phương thức và động lực của sự vận động, phát triển xã hội có đối kháng giai cấp

- Các nhà lý luận của giai cấp tư sản phủ nhận cách mạng xã hội. Họ cho rằng xã hội có thể tiến hóa dần dần mãi mãi mà không cần đến cách mạng.

- Theo quan điểm mácxít, xã hội chỉ có thể tiến hóa trong phạm vi một hình thái kinh tế-xã hội nhất định; nhưng đến một trình độ nhất định thì xã hội không thể tiếp tục tiến hóa nữa. Do đó, cần phải có một cuộc cách mạng xã hội thì mới có thể tạo ra bước nhảy đưa xã hội đi lên một trạng thái mới cao hơn.

- Trong phạm vị hình thái kinh tế - xã hội cũ, giai cấp thống trị mặc dù lỗi thời nhưng vẫn tìm mọi cách, kể cả việc sử dụng công cụ bạo lực để duy trì quan hệ sản xuất cũ và sự thống trị chính trị của nó,. Do đó, muốn thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, thực hiện bước chuyển biến cơ bản và sâu sắc trong tất cả các mặt của đời sống xã hội thì cần phải có một cuộc cách mạng xã hội.



VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN

1. Con người và bản chất của con người

a. Quan niệm về con người trong Triết học Phương đông

- Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần). Cuộc sống vĩnh cửu là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được giải thoát để trở thành bất diệt.

- Khổng Tử (551 – 479 tr.CN): Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức “nhân” là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là con người quân tử. Khổng Tử chia con người trong xã hội thành “quân tử” và “tiểu nhân”.

- Mạnh Tử: quy tính chất của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tư tưởng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình.

- Tuân Tử: Ông cho rằng, bản chất của con người khi sinh ra là ác, nhưng có thể cải biến được, phải chống lại cái ác, con người mới tốt được.

- Đổng Trọng Thư: Là người kế thừa Nho giáo theo xu hướng duy tâm cực đoan. Ông quan niệm Trời và Người có thể thông hiểu lẫn nhau (Thiên nhân cảm ứng). Cuộc đời con người bị quyết định bởi “thiên mệnh”.

- Lão Tử: Con người được sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải sống “vô vi” theo lẽ tự nhiên, không trái với tự nhiên.

Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức...

Nhìn chung con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.

b. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước K.Marx.

- Ky tô giáo: Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn. Thể xác thì mất đi nhưng linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc linh hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh cửu.

- Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la.

- Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế. Cuộc sống trần thế là tạm bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia.

- Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ.

- Triết học cổ điển Đức: G.V.Hegel cho rằng, là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, còn L.Feuerbach lại cho rằng, con người là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời.

Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước Marx, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đền không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là tuyệt đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.



c. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất con người.

Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.Marx chỉ ra hạn chế của Feuerbach trong việc xem xét con người như là một cơ thể sinh vật có ý thức và tình cảm, như tình yêu, tình bạn, không thấy mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con người. K.Marx vạch rõ: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” (Toàn tập, tập 3, tr.11).



* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội

- Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người.

- Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời sống tinh thần của con người.

Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.

Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quas trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau:

- Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể

- Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức.

- Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.

Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.

Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.



* Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.

Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.Marx khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”.

- Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôm cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.

- Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác-Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết học Mác-Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội.

* Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử

- Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.

- Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội.

- Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.

Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.



2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và cá nhân

a. Khái niệm quần chúng nhân dân

Quần chúng nhân dân là bộ phân có cùng chung lợi ích căn bản bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức hay một đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.

Quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động, biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.



b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử

* Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử

- Quần chúng nhân dân là người sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Hoạt động sản xuất vật chất của họ là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.

- Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần cho xã hội.

- Quần chúng nhân dân là chủ thể và là động lực của các phong trào xã hội.

- Lợi ích của quần chúng là điểm khởi đầu và cũng là mục đích cao nhất của mọi phong trào cách mạng.

* Vai trò của cá nhân, vĩ nhân đối với sự phát triển của lịch sử

- Lãnh tụ là cá nhân kiệt xuất xuất hiện trong phong trào quần chúng nhân dân, được quần chúng suy tôn làm người lãnh đạo phong trào quần chúng.

- Lãnh tụ là người có tri thức uyên bác, có tầm nhìn xa trông rộng, nắm được xu thế phát triển khách quan của lịch sử, đề ra được đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn cho phong trào quần chúng.

- Lãnh tụ là người có năng lực tập hợp, thống nhất, tổ chức, lãnh đạo quần chúng, thống nhất hoạt động của quần chúng nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề ra.

- Lãnh tụ là người có ý chí, quyết tâm cao, có đạo đức tiêu biểu, là hạt nhât đoàn kết và tượng trưng cho ý chí và sức mạnh của phong trào quần chúng.

* Cá nhân và mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội



- Cá nhân là gì? Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.

- Quan hệ giữa cá nhân và xã hội

Cá nhân và xã hội có mối quan hệ khắng khít tác động lẫn nhau. Quan hệ về lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) là nền tảng của quan hệ cá nhân và xã hội.

+ Xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân, bởi vì:

 Sự hình thành nhân cách của cá nhân chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện xã hội nhất định và phụ thuộc vào những điều kiện đó.

 Nhu cầu và lợi ích cá nhân chỉ hình thành và được thực hiện trong những điều kiện xã hội nhất định.

+ Sự phát triển của cá nhân có tác động trở lại sự phát triển của xã hội:

 Cá nhân tích cực có vai trò thúc đẩy sự phát triển xã hội. nhất là những cá nhân kiệt xuất (vĩ nhân) có vai trò rất to lớn trong sự phát triển xã hội. Nhân cách và hoạt động của họ để lại dấu ấn rất sâu sắc trong lịch sử. Đó là những lãnh tụ cách mạng, những tướng tài, những nhà triết học, khoa học, những tài năng nghệ thuật.

 Cá nhân tiêu cực có tác dụng kìm hãm sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, tác dụng kìm hảm của họ chỉ có tính chất tạm thời, vì xã hội phát triển theo quy luật khách quan không phụ thục ý chí cá nhân nào.

Trong các xã hội có giai cấp bóc lột, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có mâu thuẫn gay gắt. Chủ nghĩa cá nhân, nhất là chủ nghĩa cá nhân cực đoan là một trở ngại lớn cho sự phát triển xã hội. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một xã hội, trong đó lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội được kết hợp hài hòa, tác động, thúc đẩy lẫn nhau cùg phát triển.



* Ý nghĩa phương pháp luận.

- Hiểu được vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, tư đó xây dựng quan điểm quần chúng: tôn trọng và tin tưởng vào sức mạnh và khả năng to lớn của quần chúng, dựa vào quần chúng, phát huy nguồn sức mạnh tiềm tàng của quần chúng. Hiểu được quan điểm của Hồ Chủ tịch và Đảng ta: coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, người cán bộ là đầy tờ trung thành của nhân dân.

- Hiểu được vai trò to lớn của lãnh tụ, lựa chọn lãnh tụ có đủ tài đức để lãnh đạo phong trào. Tôn kính lãnh tụ, nhưng không được sùng bái cá nhân lãnh tụ. Tôn kính lãnh tụ là tình cảm đạo đức đúng đắn, xuất phát từ chỗ hiểu biết tài năng, phẩm chất và cống hiến của lãnh tụ. Trái lại, sùng bái cá nhân lãnh tụ xuất phát từ sự ngu dốt và mê tín, coi lãnh tụ là thần thánh, làm cho lãnh tụ xa rời quần chúng, phạm sai lầm sai lầm không khắc phục được.

PHẦN THỨ HAI

HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

Chương IV

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TR­ƯNG VÀ ­ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá

Ki nim sản xuất hàng hóa

Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán. Đó là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.

Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức nền kinh tế - xã hội trong đó phổ biến và chủ yếu là sản xuất hàng hoá.

Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ hai điều kiện sau đây:



a. Phân công lao động xã hội

Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội.

Vì có sự phân công lao động xã hội nên mỗi người, nhóm người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm khác nhau dẫn đến kết quả:

- Một : Năng suất lao động tăng (do độ thuần thục của tay nghề, cải tiến máy móc, công cụ sản xuất) dẫn đến sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều, trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến.

- Hai : Sản phẩm tạo ra chỉ một vài thứ nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau; do đó, họ phải cần đến sản phẩm của nhau, trao đổi với nhau.

Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hoá, làm xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm. C.Mác đã chứng minh rằng, trong công xã thị tộc Ấn Độ thời cổ, đã có sự phân công lao động khá chi tiết, nhưng sản phẩm lao động chưa trở thành hàng hoá. Bởi vì tư liệu sản xuất là của chung nên sản phẩm và từng nhóm sản xuất chuyên môn hoá cũng là của chung; công xã phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu. C. Mác viết: "Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá". Vậy muốn sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai nữa.



b. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hay tính chất tư nhân của quá trình lao động

Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thuỷ là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua - bán hàng hoá, tức là phải trao đổi sản phẩm dưới những hình thái hàng hoá.

Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hoá.

Từ hai điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá ta thấy: phân công lao động xã hội, sản phẩm của người lao động sản xuất hàng hoá mang tính chất lao động xã hội vì sản phẩm của họ là để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhưng sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của họ lại mạng tính chất là lao động tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như thế nào lại là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Lao động tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với lao động xã hội. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá là mâu thuẫn giữa lao đông tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng sản xuất thừa.



2. Đặc tr­ưng và ­ưu thế của sản xuất hàng hoá

a. Đặc tr­ưng của sản xuất hàng hoá

Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội”, xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.

Sản xuất hàng hoá khác với kinh tế tự cấp tự túc, do sự phát triển của phân công lao động xã hội làm cho sản xuất được chuyên môn hoá ngày càng cao, thị trường ngày càng mở rộng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá đã xoá bỏ tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất.

Sản xuất hàng hoá có đặc trưng và ưu thế như sau:

- Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích để trao đổi chứ không phải để tiêu dùng cho người sản xuất ra nó, khác với sản xuất tự cung tự cấp là sản xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội bộ của từng gia đình, từng đơn vị sản xuất.

- Sản xuất hàng hóa có đặc trưng là cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.

b. Ưu thế của sản xuất hàng hoá

- Thúc đẩy sản xuất phát triển.

Mục đích của sản xuất hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thỏa mãn nhu cầu của người khác, của thị trường. Do vậy, nhu cầu của thị trường càng lớn càng tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.

- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển:

Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán do đó có sự cạnh tranh gay gắt. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động trong sản xuất kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ nhiều hàng hóa và thu lợi nhuận ngày càng nhiều. Vì lẽ đó mà cạnh tranh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.

- Làm cho đời sồng vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao:

Do nhu cầu về mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và mua nguyên vật liệu cho sản xuất mà nền sản xuất hàng hóa làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển, từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.

c. Hạn chế của sản xuất hàng hoá.

Mục đích của sản xuất hàng hóa là sản xuất để bán, người sản xuất quan tâm tới giá trị chứ không phải giá trị sử dụng, vì vậy có hiện tượng làm hàng giả, trốn thuế, phân hoá giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường sinh thái, xã hội,v.v…



II. HÀNG HOÁ

1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá

a. Khái niệm hàng hoá

Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Các dạng biểu hiện của hàng hóa:

+ Dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm…

+ Dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ…



b. Hai thuộc tính của hàng hoá

* Giá trị sử dụng của hàng hoá

- Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người (khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, xã hội). Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó (tính có ích đó) làm cho hàng hoá có giá trị sử dụng.



Ví dụ: công dụng của gạo là để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn…

- Giá trị sử dụng của hàng hoá là do những thuộc tính tự nhiên (lý, hoá học) của thực thể hàng hoá quyết định; do đó, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.



dụ: thuộc tính tự nhiên của nước là chất lỏng không màu, không mùi, không vị, do vậy mà nó có thể dùng trong sinh hoạt, trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp.

- Giá trị sử dụng của hàng hoá được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ thuật và của lực lượng sản xuất; vì vậy khi xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.

- Giá trị sử dụng của hàng hoá là giá trị sử dụng cho xã hội, cho người khác chứ không phải cho người sản xuất trực tiếp ra nó. Giá trị sử dụng đến tay người tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hoá phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì hàng hoá của họ mới bán được.

- Trong nền sản xuất hàng hóa giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi, người ta không trao đổi những vật phẩm không có giá trị sử dụng.



* Giá trị của hàng hoá

Để hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi.



- Giá trị trao đổi: là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.

d: 1m vải = 5 kg thóc (tức 1 mét vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc)

Tại sao vải và thóc lại có thể trao đổi được với nhau, và hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định (1/5)? Vì giữa chúng có một cơ sở chung, cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng của vải là để mặc, giá trị sử dụng của thóc là để ăn. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hoá có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hoá cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn giấu trong những hàng hoá ấy.

Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hoá là cơ sở chung của việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá.

- Giá trị ca hàng hoá: Là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.

Giá trị trao đổi mà chúng ta đề cập ở trên, chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, còn giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá, khi nào còn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì những người sản xuất còn quan tâm tới giá trị. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử.



c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa

Hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.

- Mặt thng nht biu hiện ch: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nếu một vật có giá trị sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội), nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như: không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hoá. Ngược lại, một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng không có giá trị sử dụng (tức không thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng không trở thành hàng hoá.

- Mâu thuẫn gia hai thuộc tính ca hàng hoá thể hiện ở ch:



Th nht, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất (vải mặc, sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất về chất, đều là “những sự kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi”, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá (vải mặc, sắt thép, lúa gạo... đều do lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó).

Th hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian.

 Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước.

 Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.

Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ cũng phải chú đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.



2.Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá

Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.



a. Lao động cụ thể

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.

Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động, kết quả lao động riêng. Những cái riêng đó là cơ sở để phân biệt các loại hàng hóa khác nhau (ví dụ: lao động của người thợ may, thợ mộc, thợ nề là những loại lao động cụ thể khác nhau nó tạo ra giá trị sử dụng khác nhau của hàng hóa). Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.

Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về bào, khoan, đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.

b. Lao động trừu t­ượng

Là sự tiêu hao sức lao động (sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung. Các hình thức lao động cụ thể rất nhiều, rất khác nhau nhưng đều có một cái chung là sự tiêu hao sức lực của con người bao gồm cả thể lực và trí lực.

- Lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa tạo ra giá trị của hàng hóa. Vậy có thể nói giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hoá. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.

- Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa.

- Tính chất tư nhân của lao động của người sản xuất hàng hóa biểu hiện: Mỗi người sản xuất hàng hóa sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào là là quyền của họ vì vậy lao động đó mang tính chất tư nhân, lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.

- Tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa biểu hiện: Lao động của người sản xuất hàng hóa là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Căn cứ để trao đổi hàng hóa là lao động trừu tượng vậy lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.



Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn, biểu hiện:

+ Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội (thừa hoặc thiếu). Nếu sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội sẽ có một số hàng hóa không bán được, không thực hiện được giá trị.

+ Chi phí cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với chi phí xã hội cho phép, không bán được, không thu hồi được chi phí lao động bỏ ra.

Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa. Chính vì mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hóa vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng khoảng.



3. Lư­ợng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hư­ởng đến lư­ợng giá trị hàng hoá

* Lượng giá trị hàng hoá là gì? Là lượng lao động tiêu phí để sản xuất ra hàng hoá (Chi phí xã hội để sản xuất ra hàng hóa đó chứ không phải chi phí cá biệt).

* Đơn v đo lượng giá trị của hàng hoá là gì?: Là thời gian lao động, nhưng không phải thời gian lao động bất kỳ. Trong nền sản xuất hàng hóa, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời gian lao động để sản xuất ra loại hàng hoá đó là khác nhau, tức là có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Thế nhưng lượng giá trị của hàng hoá không phải là do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định mà nó được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.

a. Th­ước đo l­ượng giá trị hàng hoá

* Giá trị cá biệt và giá trị xã hội của hàng hóa

- Giá trị cá biệt của hàng hóa là hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó, được đo bằng thời gian lao động cá biệt.

Ví dụ: cùng là thợ thủ công dệt vải , để dệt 1m vải anh A bỏ ra 3 giờ lao động., anh B bỏ 3giờ 30 phút... Thời gian hao phí của từng người để dệt 1m vải đó gọi là thời gian cá biệt, hoặc hao phí lao động cá biệt.

- Giá trị xã hội của hàng hóa: Giá trị của hàng hóa được xã hội thừa nhận gọi là giá trị xã hội chính là mức hao phí lao động cần để sản xuất ra hàng hoá được xã hội thừa nhận, được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiêt.



* Thời gian lao động xã hội cần thiết

Khái niệm: Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó mà được xã hội thừa nhận trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

Điều kiện sản xuất bình thường của xã hội là những điều kiện sản xuất trong đó tuyệt đại bộ phận của một loại hàng hoá nào đó được sản xuất ra và cung cấp cho nhu cầu thị trường.

Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá nào cung cấp đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định, vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang bị kỹ thuật trung bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi (cao hay thấp) thì lượng giá trị của hàng hoá cũng thay đổi.



b. Các nhân tố ảnh hư­ởng đến l­ượng giá trị hàng hoá

Tất cả những yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới số lượng giá trị của hàng hoá. Cụ thể đó là những nhân tố sau đây:



* Năng suất lao động

Khái nim năng sut lao động: Là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm (hàng hoá).

- Năng suất lao động ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hóa như thế nào?

Năng suất lao động tăng thì lượng giá trị hàng hóa sẽ giảm và ngược lại. Tức là cùng trong một thời gian lao động nhưng khối lượng hàng hoá sản xuất ra sẽ tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết kết tinh trong một đơn vị hàng hoá giảm xuống. Nghĩa là giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

- Các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất lao động:

+ Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người công nhân.

+ Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất.

+ Trình độ quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, và các điều kiện tự nhiên.

Muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.



* C­ường độ lao động

Khái niệm cường độ lao động: Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động.

Cường độ lao động tăng lên thì khối lượng hàng hóa sản xuất ra cũng tăng lên nhưng mức độ hao phí sức lao động cũng tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên tương ứng, vì vậy, lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá vẫn không đổi, vì tăng cường độ lao động, thực chất, chính là kéo dài thời gian lao động, chỉ có tổng giá trị tăng lên.


* Sự giống và khác nhau giữa tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động:

- Ging nhau: chúng đều thuộc sức sản xuất của lao động: đều dẫn đến số lượng, khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên.



- Khác nhau: Tăng năng suất lao động làm cho số lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, và giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm xuống, còn tăng cường độ lao động làm cho số lượng sản phẩm sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi.

Tăng năng suất lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố máy móc kỹ thuật, do đó nó gần như là một yếu tố có “sức sản xuất” vô hạn; còn tăng cường độ lao động phụ thuộc nhiều vào thể chất và tinh thần của người lao động, do đó nó là yếu tố của “sức sản xuất” có giới hạn nhất định. Chính vì vậy, tăng năng suất lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.



* Mức độ phức tạp của lao động (lao động giản đơn và lao động phức tạp)

- Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không phải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.

- Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được.

Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị (số lượng, chất lượng sản phẩm) hơn lao động giản đơn, vì vậy lượng giá trị hàng hóa giảm. Lao động phức tạp, thực chất là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trình trao đổi hàng hoá, mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động đơn giản trung bình, và điều đó được quy đổi một cách tự phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hoá, hình thành những tỷ lệ nhất định thể hiện trên thị trường.



Каталог: dspace -> bitstream -> 123456789
123456789 -> XÁC ĐỊnh cơ CẤu cây trồng và thời vụ HỢp lý cho các vùng thưỜng xuyên bị ngập lụt tại huyện cát tiên tỉnh lâM ĐỒNG
123456789 -> THÔng 3 LÁ LÂM ĐỒNG
123456789 -> CHƯƠng I: giới thiệu môn học và HẠch toán thu nhập quốc dân kinh tế vĩ mô là gì?
123456789 -> Bài 1: XÁC ĐỊnh hàm lưỢng oxy hòa tan (DO)
123456789 -> HỌc phầN: VẬt lý ĐẠi cưƠng dành cho sinh viên bậc cao đẲng khối ngành kỹ thuậT
123456789 -> BỘ CÔng thưƠng trưỜng cao đẲng công nghiệp tuy hòA
123456789 -> Chương 1: ĐẠi cưƠng về hoá học hữu cơ Hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ
123456789 -> CHƯƠng 1 những khái niệm chung vài nét về lịch sử Thời kỳ thứ nhất

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương