NHẬp môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa mác-lênin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa mác-lênin



tải về 1.61 Mb.
trang1/17
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.61 Mb.
#25175
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17
Chương mở đầu

NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN

CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận lý luận cấu thành

a. Chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của K.Marx, F.Engels và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học.



b. Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin bao gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực, nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Triết học Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học, dù theo trường phái nào, thì cũng đều là thế giới quan và nhân sinh quan của con người; khi xã hội có giai cấp thì thế giới quan và nhân sinh quan mang tính giai cấp. Triết học Mác-Lênin là thế giới quan, nhân sinh quan của giai cấp công nhân hiện đại, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động trong thởi đại ngày nay.

- Kinh tế chính trị học Mác-Lênin là khoa học xã hội, đối tượng nghiên cứu của nó là mặt xã hội của sản xuất, tức là quan hệ sản xuất hay là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Mặt khác, quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc thượng tầng, nhất là các quan hệ về chính trị, pháp lý .... có tác động trở lại mạnh mẽ với quan hệ sản xuất. Vậy, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.

­- Chủ nghĩa xã hội khoa học: Những quy luật và tính quy luật chính trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

- Như vậy, ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin đều có đối tượng nghiên riêng nhưng đều nằm trong một hệ thống khoa học lý luận thống nhất – đó là khoa học về giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột, tiến tới giải phóng con người.

2. Khái lược quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin

a. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Marx

- Điều kiện kinh tế-xã hội:

Chủ nghĩa Marx ra đời trong những năm 40 của thế kỷ XIX. Trong thời gian này, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ở nhiều nước châu Âu, mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ ra một cách gay gắt. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của nền sản xuất với tính chất tư bản chủ nghĩa của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất và về sản phẩm xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra ở Pháp, Đức, Anh.

Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản đề ra nhu cầu phải có lý luận cách mạng thật sự khoa học để giải thích đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, vai trò lịch sử của giai cấp vô sản, triển vọng của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và tương lai của xã hội loài người nói chung. Chủ nghĩa Marx ra đời gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và trở thành vũ khí lý luận của cuộc đấu tranh đó.

Mặt khác, sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cho phép khái quát nhiều nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử: về vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng, vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử, vai trò của quần chúng nhân dân trong sự phát triển lịch sử; trên cơ sở đó, Marx đưa ra những dự kiến khoa học về khả năng xóa bỏ giai cấp, khả năng tiến tới một xã hội tốt đẹp trong tương lai.



- Tiền đề lý luận: Chủ nghĩa Marx có 3 nguồn gốc lý luận: Triết học cổ điển đức, Kinh tế học chính trị Anh và Chủ nghĩa xã hội Pháp, Anh, trong đó Triết học cổ điển Đức là tiền đề lý luận trực tiếp.

K.Marx và F.Engels kế thừa hạt nhân hợp lý trong Phép biện chứng của Hegel là lý luận về sự phát triển, loại bỏ cái vỏ duy tâm của nó, đưa nó về với quan điểm duy vật về tự nhiên và lịch sử. Đồng thời K.Marx kế thừa chủ nghĩa duy vật và tư tưởng vô thần của Feuerbach, khắc phục những chế siêu hình của nó. Trên cơ sở đó, K.Marx sáng lập nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật.

Sự ra đời của chủ nghĩa Marx là một tất yếu lịch sử. Những điều kiện lịch sử đã chín muồi cho phép các nhà khoa học đi đến những kết luận duy vật biện chứng về thế giới nói chung và về xã hội loài người nói riêng. Chủ nghĩa Marx không thể ra đời sớm hơn khi chưa có đủ những tiền đề vật chất và tư tưởng cần thiết. Mặt khác, nó cũng không thể không ra đời được. Sự thật cho thấy rằng trong thời điểm này, đã có một số nhà tư tưởng khác cũng đi đến những kết luận duy vật lịch sử một cách độc lập với K.Marx và F.Engels.

- Tiền đề khoa học tự nhiên

Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Marx là kết quả của sự tổng kết những thành tựu tư tưởng của nhân loại, được chứng minh và phát triển dựa trên những kết luận mới nhất của khoa học tự nhiên, trong đó có 3 phát minh quan trọng nhất:



- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. (Năng lượng không tự sinh ra mà cũng không tự mất đi, nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác mà thôi). Đây là cơ sở khoa học để khẳng định rằng vật chất và vận động của vật chất không thể do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Chúng chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, hình thức này sang hình thức khác mà thôi.

- Thuyết tiến hóa của Darwin. Darwin đã kế thừa những thành tựu của Lamax để viết nên tác phẩm Nguồn gốc các loài vào năm 1859. Học thuyết tiến hóa của ông đã luận chứng về quá trình đấu tranh sinh tồn của muôn loài, qua sự chọn lọc tự nhiên, dần dần sản sinh ra những giống loài mới. Từ đó ông đưa ra lý luận về sự tiến hoá của sinh vật mà hạt nhân là sự chọn lọc tự nhiên, vén bức màn bí ẩn về sự tiên hoá của các loài trong tự nhiên. Lý luận tiến hoá sinh vật đã áp dụng quan điểm lịch sử vào lĩnh vực sinh vật học. Nó luận chứng về quá trình lịc sử của giới hữu cơ, chứng minh rằng, thực vật, động vật, bao gồm cả loài người đều là sản phẩm phát triển của lịch sử.

- Học thuyết tế bào: Học thuyết tế bào do GS. M.Slaiđen (trường Đại học Gana, ở Đức) xây dựng năm 1838. Ông cho rằng, tế bào là đơn vị sống cơ bản nhất trong kết cấu của mọi thực vật. Qúa trình phát dục của thực vật là quá trình hình thành và phát triển của tế bào. Sau đó, vào năm 1839 GS. T.Svannơ (GS phẫu thuật người của trường Đại học Ruăng ở Đức) đã mở rộng học thuyết tế bào từ giới thực vật sang giới động vật, khiến loài người nhận thức được rằng, tế bào là đơn nguyên kết cấu chung của mọi cơ thể sinh vật. Những phát hiện nêu trên đã vạch ra quá trình biện chứng của sự vận động, phát triển, chuyển hoá không ngừng của bản thân giới sinh vật.

b. Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Marx

K.Marx (Karl Marx, 1818-1883)



K.Marx sinh ở Trier (Đức), học Đại học ở Bonn, Berlin. Ông có bằng tiến sĩ triết học. Năm 1842 viết báo và trở thành chủ bút tờ Rheinische Zeitung. Năm 1843, tờ báo bị đóng cửa và Marx bị trục xuất. Ông sang Paris (Pháp), Brussels (Bỉ) và cư trú lâu dài ở Luân Đôn (Anh). Năm 1844. K.Marx và F.Engels gặp nhau và trở thành đôi bạn thân thiết, cùng cộng tác với nhau suốt cuộc đời làm khoa học và hoạt động cách mạng.

Những tác phẩm chủ yếu của K.Marx và F.Engels: Phê phán triết học pháp quyền Hegel (1843); Bản thảo kinh tế - triết học 1844; Hệ tư tưởng Đức (1844); Gia đình thần thánh (1845 - 1846); Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848); Phê phán Kinh tế học chính trị (1859); Nội chiến ở Pháp (1871); Phê phán cương lĩnh Gotha (1875); Tư bản (xuất bản thành 3 quyển trong những năm 1867- 1895) .



F.Engels (Friedrich Engels, 1820-1895)



F.Engels sinh ở Barmen (nay là Wuppertal). Bố của ông là một nhà doanh nghiệp lớn ở Đức lúc bấy giờ. Tuy nhiên, F.Engels lại say mê nghiên cứu khoa học và triết học và cùng với Marx hoạt động trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và trở thành một trong những lãnh tụ của giai cấp vô sản thế giới.

Ngoài những tác phẩm viết chung với Marx, F.Engels còn viết: Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, (1844); Chống Duhring, (1878); Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà nước, (1884); Biện chứng của tự nhiên, (1872-1882); L.Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ đển Đức, (1886-1888); Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, (1892)….

* Giai đoạn hình thành chủ nghĩa Marx

- Thời gian từ 1842 về trước: K.Marx và F.Engels là những thanh niên đầy nhiệt tình và lòng nhân đạo, say mê nghiên cứu triết học, nhưng chưa thoát khỏi lập trường triết học duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng.

- Thời kỳ hình thành triết học Marx diễn ra từ 1842 đến 1848.

+ Bước chuyển từ lập trường duy tâm và dân chủ cách mạng sang lập trường duy vật và chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ khi Marx làm việc ở báo Sông Ranh từ tháng 5-1842.

+ Năm 1843, sau khi báo Sông Ranh bị đóng cửa, Marx bắt tay viết tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền Hegel.

+ Từ 1844, K.Marx và F.Engels cộng tác với nhau từng bước xây dựng triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

+ Năm 1844, Marx viết tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học 1844, nói lên vai trò của lao động sản xuất vật chất trong việc sáng tạo ra bản thân con người và loài người, vạch ra những biểu hiện và nguyên nhân của sự tha hóa của người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản.

+ Cũng trong năm 1844, F.Engels viết tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân Anh.



+ Cuối năm 1844, K.Marx và F.Engels viết tác phẩm Gia đình thần thánh để phê phán thế giới quan duy tâm của các đại biểu trong nhóm Hegel trẻ, qua đó trình bày những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

+ Năm 1845, Marx viết Luận cương về Feuerbach, vạch ra những hạn chế của Feuerbach trong quan niệm về con người và làm rõ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.

+ Năm 1845-1846, hai ông viết tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, tiếp tục phê phán Hegel và chủ nghĩa duy tâm nói chung, phê phán những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Marx, đặc biệt là quan điểm duy tâm về lịch sử của Feuerbach. Đồng thời trong tác phẩm này hai ông cũng trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.

+ Năm 1847, hai ông viết tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, phê phán tính chất duy tâm, siêu hình trong quan niệm về các phạm trù kinh tế của P.Prudhon, phát triển phương pháp biện chứng duy vật, những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, của kinh tế học chính trị.

+ Cuối 1847 đầu 1848 K.Marx và F.Engels viết tác phẩm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Hai ông trình bày một cách hoàn chỉnh lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, cương lĩnh cách mạng của giai cấp vô sản. Bằng luận cứ khoa học và xác đáng, Tuyên ngôn đã vạch ra tính tất yếu của xã hội cộng sản, trong đó, khi sự đối kháng giai cấp bị xóa bỏ thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng không còn. “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (Toàn tập, t.4, tr.628).

* Giai đoạn phát triển chủ nghĩa Marx

- Sau 1848 là thời kỳ K.Marx và F.Engels bổ sung và phát triển triết học của mình. Trong thời kỳ này, K.Marx và F.Engels tham gia phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và triết học của các ông trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản ở các nước lớn ở châu Âu và châu Mỹ.

- Từ 1848 đến Công xã Paris năm 1871, K.Marx và F.Engels viết nhiều tác phẩm để tổng kết phong trào đấu tranh giai cấp ở Pháp như tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp (1848-1850), Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapac (1851-1852), Cách mạng và phản cách mạng ở Đức (do F.Engels viết 1851-1852). Bộ Tư bản cũng được Marx viết trong thời kỳ này.

- Từ 1871 trở đi, K.Marx và F.Engels có thêm kinh nghiệm của Công xã Pari. Những tác phẩm hai ông viết trong thời kỳ này tiếp tục khái quát kinh nghiệm đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, phát triển ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Marx và làm phong phú thêm những nguyên lý của chủ nghĩa Marx. Marx tiếp tục viết tác phẩm Tư bản, còn F.Engels viết các tác phẩm Chống Duhring (1876-1878), biện chứng của tự nhiên (1873-1883). Sau khi Marx qua đời năm 1883, F.Engels hoàn thành việc xuất bản bộ bản của Marx, đồng thời tiếp tục lãnh đạo phong trào giai cấp công nhân và viết một số tác phẩm như: Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà nước (1884), L.Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886).



c. Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Marx

Triết học Marx được V.I.Lênin phát triển và vận dụng trong cách mạng vô sản nên được gọi là triết học Mác-Lênin.





Vlađimir Ilich Lênin (1870-1924) sinh ở Simbirsk. Lênin là người vận dụng và phát triển chủ nghĩa Marx nói chung và triết học Marx nói riêng.

Lênin phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng; lý luận nhận thức; lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp; lý luận về nhà nước và cách mạng vô sản, về chuyên chính vô sản, về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.



* Bối cảnh lịch sử mới và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Marx

- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang một giai đoạn mới: chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc, là giai đoạn cao của chủ nghĩa tư bản. Các nước tư bản chia nhau thị trường thế giới và gây ra cuộc chiến tranh thế giới 1914-1918.

- Cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trực tiếp.

- Sau khi F.Engels qua đời, các phần tử cơ hội trong Quốc tế II xuyên tạc chủ nghĩa Marx. Tình hình đó đòi hỏi Lênin phải tiến hành đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Marx.

- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên, nhất là trong vật lý học, có một loạt phát minh khoa học làm đảo lộn quan niệm siêu hình về vật chất và vận động, gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. Chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tình trạng khủng hoảng này để tấn công và bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Lênin phải tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật.

* Vai trò của V.I Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Marx trong điều kiện lịch sử mới

Trước năm 1907, Lênin lãnh đạo phong trào công nhân Nga, tiến hành đấu tranh chống phái dân túy. Lênin viết các tác phẩm như: Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao (1894); Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy và sự phê phán trong cuốn sách của ông Stơruvê về nội dung đó (1894); Làm gì (1902); Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ (1905).

Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907, Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908); Bút ký triết học (1914-1916); Ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Marx; tác phẩm K.Marx; Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916); Nhà nước và cách mạng (1917). Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lênin phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan và phát triển chủ nghĩa duy vật, phát triển lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Trong tác phẩm Bút ký triết học, Lênin tổng kết và phát triển phép biện chứng duy vật.

Lênin đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, mở ra cho nhân loại một thời đại mới: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin nghiên cứu giải quyết các vấn đề của cách mạng vô sản, xây dựng cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, vấn đề xây dựng đảng và nhà nước. Những tác phẩm trong thời kỳ này là: Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết (1918); Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu tư sản (1918); Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản (1820); Về Chính sách kinh tế mới (1921); Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922). Đặc biệt, trong chính sách kinh tế mới, Lênin nêu lên tư tưởng về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

d. Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới

Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.

- Cách mạng tháng Mười mở ra cho nhân loại thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới:

+ Sau cuộc cách mạng Tháng Mười thì chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành thực tiễn, lịch sử phát triển của xã hội loài người xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội mới đối lập với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa.

+ Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi thế giới.

+ Sau Cách mạng Tháng Mười, cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều quốc gia sau khi giành được độc lập dân tộc đã đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.

- Sau khi Lênin qua đời, Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản trên thế giới tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng nó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Chủ nghĩa xã hội đã đem lại những thành tựu to lớn ở Liên Xô, đưa nước Nga từ một nước tư bản lạc hậu thành một trong những nước có công nghiệp và khoa học tiên tiến nhất thế giới. Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đã góp phần tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, cổ vũ và ủng hộ phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều dân tộc bị áp bức và lạc hậu trên thế giới hướng về Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa như là ngọn cờ tiêu biểu cho độc lập, dân chủ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước đã mắc phải sai lầm trong việc nhanh chóng xóa bỏ kinh tế thị trường, xóa bỏ các thành phần kinh tế tư nhân, đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, duy trì quá lâu hệ thống quan liêu bao cấp khi tình hình thế giới đã có những biến đổi lớn lao.

- Trong những năm đầu thập kỷ 80, chủ nghĩa xã hội bắt đầu lâm vào cuộc khủng hoảng: sản xuất rơi vào tình trạng trì trệ, hiệu quả và tính tích cực xã hội giảm sút. Do sai lầm trong cải tổ, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.

Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu không đồng nhất với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Một số nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam ... thực hiện thành công công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội, chẳng những đã có thể ra khỏi khủng hoảng, mà còn thực hiện tốt hơn những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải là thất bại của chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là sự thất bại của một mô hình thực tiễn nhất định, tức mô hình Liên Xô của chủ nghĩa xã hội. Việc đổi mới thành công chủ nghĩa xã hội ở một số nước đã mở ra cho nhân loại nhiều triển vọng mới. Nhân loại chẳng những không từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà trái lại, tìm kiếm một mô hình mới của chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình mới.

- Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng ta phát động và lãnh đạo không có nghĩa là từ bỏ mà là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội; nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước ta và trên thế giới trong tình hình hiện nay.



II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

1. Đối tượng và mục đích của việc học tập, nghiên cứu

- Đối tượng học tập, nghiên cứu “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” là: “những quan điểm và học thuyết” của K.Marx, F.Engels và V.I Lênin trong phạm vi những quan điểm, học thuyết cơ bản nhất thuộc ba bộ phận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin.



- Mục đích của việc học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin là để xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Đồng thời hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí MinhĐường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng niềm tin, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức nhằm đáp ứng được với tình hình mới.

2. Một số yêu cầu cơ bản về phương pháp học tập, nghiên cứu

- Thứ nhất, những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là lý luận “chết cứng”, một chiều mà nó luôn luôn vận động và phát triển cùng với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Do đó, khi học tập và nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý cơ bản đó trong thực tiễn.

- Thứ hai, sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin là một quá trình. Trong quá trình ấy, những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ nhau. Vì vậy, học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin chúng ta phải đặt trong mối quan hệ với các luận điểm khác, ở các bộ phận cấu thành khác, có như vậy mới thấy được sự thống nhất trong tính đa dạng và nhất quán của chủ nghĩa Mác-Lênin.

- Thứ ba, học tập và nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin để hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, phải gắn những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và bối cảnh của thời đại, có như vậy mới thấy được sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện trong từng giai đoạn lịch sử.

- Thứ tư, chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là một hệ thống khép kín, nhất thành bất biến, trái lại, đây là một hệ thống lý luận không ngừng vận động và phát triển trên cơ sở những thành tựu của văn minh nhân loại. Vì vậy, việc học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời cũng là quá trình tổng kết, đúc kết kinh nghiệm để góp phần phát triển tính khoa học, tính cách mạng và nhân văn vốn có của nó. Mặt khác, việc học tập, nghiên cứu các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng cần phải đặt nó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại, có như vậy chúng ta mới đảm bảo được tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

PHẦN THỨ NHẤT


Каталог: dspace -> bitstream -> 123456789
123456789 -> XÁC ĐỊnh cơ CẤu cây trồng và thời vụ HỢp lý cho các vùng thưỜng xuyên bị ngập lụt tại huyện cát tiên tỉnh lâM ĐỒNG
123456789 -> THÔng 3 LÁ LÂM ĐỒNG
123456789 -> CHƯƠng I: giới thiệu môn học và HẠch toán thu nhập quốc dân kinh tế vĩ mô là gì?
123456789 -> Bài 1: XÁC ĐỊnh hàm lưỢng oxy hòa tan (DO)
123456789 -> HỌc phầN: VẬt lý ĐẠi cưƠng dành cho sinh viên bậc cao đẲng khối ngành kỹ thuậT
123456789 -> BỘ CÔng thưƠng trưỜng cao đẲng công nghiệp tuy hòA
123456789 -> Chương 1: ĐẠi cưƠng về hoá học hữu cơ Hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ
123456789 -> CHƯƠng 1 những khái niệm chung vài nét về lịch sử Thời kỳ thứ nhất

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương