NHẬp môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa mác-lênin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa mác-lênin



tải về 1.61 Mb.
trang5/17
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.61 Mb.
#25175
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

2. Bản chất và hiện tượng

a. Phạm trù bản chất, hiện tượng

- Bản chất là một phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những thuộc tính, những mối liên hệ tất nhiên, hợp thành một tổng thể thống nhất hữu cơ bên trong quy định sự vận động và phát triển của sự vật.

- Hiện tượng là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, nhữn mối liên hệ biểu hiện ra bên ngoài của một bản chất nhất định.

b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng

* Tính chất

- Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái tạo nên bản chất của một lớp sự vật nhất định, đồng thời là cái chung của sự vật đó. Tuy nhiên, không phải cái chung nào cũng là cái bản chất, vì bản chất chỉ là cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.

- Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính quy luật. Nói đến bản chất của sự vật là nói đến tổ hợp những quy luật quyết định sự vận động và phát triển của nó. Vì vậy, bản chất là phạm trù cùng bậc với quy luật. Tuy bản chất và quy luật là những phạm trù cùng bậc nhưng chúng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi, lặp lại và ổn định giữa các hiện tượng hay giữa các mặt của chúng. Còn bản chất là tổng hợp các mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên trong sự vật, nghĩa là ngoài những mối liên hệ tất nhiên, phổ biến chung cho nhiều hiện tượng nó còn bao gồm cả những mối liên hệ tất nhiên, không phổ biến, cá biệt nữa. Như vậy, phạm trù bản chất rộng lớn và phong phú hơn phạm trù quy luật.

* Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng

- Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan. Bản chất và hiện tượng trong quá trình tồn tại của mình, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn lẫn nhau. Bản chất bao giờ cũng được bộc lộ ra thông qua hiện tượng. Còn hiện tượng bao giờ cũng là sự tồn tại thông qua cái bản chất. Không thể có hiện tượng và bản chất tồn tại tách rời nhau.

- Tính thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Mỗi sự vật là một sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo.

- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:

+ Bản chất là cái bên trong đối lập với hiện tượng là cái bên ngoài. Tuy nhiên, không phải lúc nào cái bên ngoài cũng phản ánh cái bên trong, thậm chí có lúc nó không chỉ phản ánh không đúng mà còn xuyên tạc bản chất (đây gọi là hiện tượng giả)

+ Bản chất là cái tương đối ổn định và hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.

+ Bản chất là cái sâu sắc hơn hiện tượng và hiện tượng là cái phong phú hơn bản chất.



c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Khẳng định bản chất là cái bên trong tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái bên ngoài thường xuyên biến đổi, phép biện chứng duy vật yêu cầu chúng ta trong nhận thức không được dừng lại ở cái hiện tượng mà phải căn cứ, đi sâu vào bản chất.

- Khẳng định bản chất bao giờ cũng được bộc lộ ra thông qua cái hiện tượng, cho nên muốn nhận thức được bản chất thì phải bắt đầu nhận thức cái hiện tượng. Tuy nhiên, để nhận thức đúng cái bản chất thì cần phải phân loại các hiện tượng để gạt bỏ các hiện tượng không phản ánh đúng bản chất, loại bỏ các hiện tượng giả.



3. Tất nhiên và ngẫu nhiên

a. Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

- Tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không phải khác.

- Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái không phải do bản thân kết cấu của sự vật mà do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, cũng có thể xuất hiện như thế khác.

b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên

* Tính chất

Phạm trù cái tất nhiên và ngẫu nhiên có mối liên hệ với phạm trù cái chung, với tính nhân quả và tính quy luật.

- Phạm trù tất nhiên với phạm trù cái chung. Phần lớn cái chung đều được quyết định bởi bản chất nội tại, bởi quy luật bên trong của sự vật, nhưng cũng có cái chung không phải như thế. Vì cái chung chỉ là những thuộc tính được lặp đi, lặp lại ở nhiều sự vật riêng lẻ. Vì vậy, có cái chung là tất nhiên, nhưng cũng có cái chung là ngẫu nhiên.

- Phạm trù cái tất nhiên - ngẫu nhiên với tính nhân quả. Như đã nói ở trên, bất kỳ hiện tượng nào cũng có nguyên nhân. Vì vậy, cái tất nhiên lẫn cái ngẫu nhiên đều có nguyên nhân. Sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ, cái tất nhiên gắn liền với nguyên nhân cơ bản nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là kết quả tác động của một số nguyên nhân bên ngoài.

- Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên với tính quy luật.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, những hiện tượng nào là tất nhiên thì phải tuân theo quy luật, còn những hiện tượng nào là ngẫu nhiên thì không tuân theo quy luật. Quan điểm này thật ra không đúng. Trên thực tế, cả cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên đều tuân theo quy luật. Sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ, cái tất nhiên tuân theo quy luật được gọi là cái quy luật động lực, còn cái ngẫu nhiên tuân theo quy luật khác được gọi là quy luật thống kê.

Quy luật động lực là gì? Quy luật động lực là quy luật mà trong đó mối quan hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đơn trị, nghĩa là ứng với một nguyên nhân thì có một kết quả xác định.

Quy luật thống kê là gì? Quy luật thống kê là quy luật mà trong đó mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đa trị, nghĩa là ứng với một nguyên nhân thì có thể có kết quả như thế này, cũng có thể có kết quả như thế khác.

* Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người.

K.Marx đã viết, “lịch sử sẽ mang tính thần bí nếu những cái ngẫu nhiên không có tác dụng gì cả. Những cái ngẫu nhiên này chính là một bộ phận trong tiến trình phát triển chung, và sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu nhiên, kể cả những cái ngẫu nhiên rất nhỏ” (Ví dụ: cá tính của những người lãnh đạo phong trào).

- Tất nhiên và ngẫu nhiên bao giờ cũng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ. Song, sự thống nhất hữu cơ đó thể hiện ở chỗ, cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua vô vàn cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên. Điều này giúp ta khẳng định, cái tất nhiên là khuynh hướng của sự phát triển, nhưng khuynh hướng ấy mỗi khi bộc lộ mình thì bao giờ cũng phải bộc lộ ra dưới hình thức ngẫu nhiên nào đó so với chiều hướng chung.

F.Engels viết: “Cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên thuần tuý cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu”.

- Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng chuyển hoá lẫn nhau, tất nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngược lại.



Chú ý: Ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối. Thông qua những mặt này cua quan hệ này thì biểu hiện là ngẫu nhiên nhưng thông qua những mặt khác hay mối quan hệ khác thì lại biểu hiện là tất nhiên và ngược lại. Do vậy, chúng ta cần tránh cái nhìn cứng nhắc khi xem xét sự vật và hiện tượng.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Trong hoạt động thực tiễn ta cần dựa vào cái tất nhiên chứ không thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Nhưng không phải vì thế mà bỏ qua cái ngẫu nhiên, vì, tuy cái ngẫu nhiên không chi phối sự phát triển của sự vật nhưng nó vẫn có ảnh hưởng đến sự phát triển ấy, đôi khi có thể làm cho tiến trình phát triển bình thường của sự vật đột ngột biến đổi...

- Trong hoạt động thực tiễn ta cần dựa vào cái tất nhiên, thì nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của nhận thức khoa học nói riêng cần phải nhận thức cái tất nhiên.

- Vì cái tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần tuý mà bao giờ cũng bộc lộ ra bên ngoài thông qua cái ngẫu nhiên, cho nên muốn nhận thức cái tất nhiên cần bắt đầu từ cái ngẫu nhiên.

- Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại một cách thuần tuý mà bao giờ cũng là hình thức trong đó ẩn nấp cái tất nhiên. Cho nên, trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn không nên bỏ qua cái ngẫu nhiên mà bao giờ cũng phải chú ý tìm ra cái tất nhiên ẩn dấu đằng sau cái ngẫu nhiên đó.

- Không phải cái chung nào đồng thời cũng là cái tất nhiên, cho nên vạch ra được cái chung chưa có ý nghĩa là đã vạch ra được cái tất nhiên. Đó mới chỉ là một bước trên con đường vạch ra cái tất nhiên mà thôi.

- Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên có thể biến thành cái ngẫu nhiên và ngược lại. Cho nên cần chú ý tạo ra những điều kiện cần thiết hoặc để ngăn trở hoặc để sự chuyển hoá đó diễn ra tuỳ theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.

4. Nguyên nhân và kết quả

a. Phạm trù nguyên nhân và kết quả

- Nguyên nhân là phạm trù để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra một biến đổi nhất định.

- Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi do sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng gây ra. Kết quả chỉ sự biến đổi do nguyên nhân gây ra.

b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả

* Tính chất:

- Tính khách quan: Sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay không.



- Tính phổ biến: Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân nhất định, không có hiện tượng nào là không có nguyên nhân, chỉ có điều nguyên nhân đó được phát hiện hay chưa mà thôi.

- Tính tất yếu: Kết quả là do nguyên nhân gây ra và phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. Một nguyên nhân nhất định trong một hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra một kết quả nhất định



Ví dụ: Nước ở áp suất 1 ápmốtphe luôn luôn sôi ở 1000c. Thóc khi reo xuống ruộng chỉ có thể ra lúa chứ không thể ra ngô hay khoai.

- Nguyên nhân khác nguyên cớ.

Nguyên cớ mang tính chủ quan dùng để che đậy những nguyên nhân. Nguyên cớ là điều kiện là cái rất cần thiết để chuyển hoá nguyên nhân thành kết quả.

* Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả:

- Nguyên nhân quyết định kết quả.

- Nguyên nhân có trước, sinh ra kết quả.

- Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết quả thế ấy. Một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân gây ra.

Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự đi kế tiếp nhau về thời gian (cái này có trước cái kia), mà là mối liên hệ sản sinh: cái này tất yếu sinh ra cái kia.

Cùng một nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả do nhiều nguyên nhân sinh ra. Do đó, mối quan hệ nhân quả rất phức tạp. Trong trường hợp nhiều nguyên nhân cùng tham gia sinh ra một kết quả, người ta chia ra các loại nguyên nhân:

+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài

+ Nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp

+ Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản

+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu

+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

+ Kết quả tác động trở lại nguyên nhân

Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân theo hai hướng:

+ Thúc đẩy nguyên nhân.

+ Kìm hãm nguyên nhân.

Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định.

Nguyên nhân sinh ra kết quả, rồi kết quả lại tác động với sự vật, hiện tượng khác và trở thành nguyên nhân sinh ra kết quả khác nữa. Do đó, sự phân biệt nguyên nhân với kết quả chỉ có tính chất tương đối. Chẳng hạn, sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại trở thành nguyên nhân làm biến đổi vật chất.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận để giải thích một cách đúng đắn mối quan hệ nhân - quả; chống lại các quan điểm duy tâm, tôn giáo về những nguyên nhân thần bí.

- Vì nguyên nhân quyết định kết quả nên muốn có một kết quả nhất định thì phải có nguyên nhân và điều kiện nhất định. Muốn khắc phục một hiện tượng tiêu cực thì phải tiêu diệt nguyên nhân sinh ra nó.

- Phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu giữ vai trò quyết định đối với kết quả.

- Biết sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều nguyên nhân để tạo ra kết quả nhất định.

- Biết sử dụng kết quả để tác động lại nguyên nhân, thúc đẩy nguyên nhân tích cực, hạn chế nguyên nhân tiêu cực.



5. Nội dung và hình thức

a. Phạm trù nội dung và hình thức

* Định nghĩa

- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.

- Hình thức là cách tổ chức, kết cấu của nội dung, là mối liên hệ ổn định giữa các mặt, các yếu tố, bộ phận tạo thành nội dung.

Hình thức có hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong quan trọng hơn hình thức bên ngoài.

Cần phân biệt cặp phạm trù nội dung-hình thức với cặp phạm trù bản chất-hiện tượng.

b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

+ Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong mỗi sự vật. Không có nội dung nào lại không có một hình thức nhất định. Cũng không có một hình thức nào lại không chứa đựng một nội dung nhất định.

+ Nội dung quyết định hình thức. Bởi vì, mối liên hệ giữa những mặt, những yếu tố, những bộ phận thì do chính những mặt, những yếu tố, bộ phận đó quyết định.

Hình thức phải phù hợp với nội dung. Tuy nhiên, sự phù hợp giữa hình thức với nội dung không cứng nhắc. Cùng một nội dung nhưng trong những điều kiện tồn tại khác nhau có thể có nhiều hình thức khác nhau.

+ Hình thức có tác động trở lại nội dung. Nếu hình thức phù hợp với nội dung sẽ tạo điều kiện cho nội dung phát triển. Ngược lại, nếu hình thức không phù hợp với nội dung sẽ cản trở sự phát triển của nội dung.

Ví dụ: sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.

+ Khi hình thức cũ, lỗi thời mâu thuẫn với nội dung mới. Cuộc đấu tranh giữa nội dung và hình thức sẽ dẫn đến xóa bỏ hình thức cũ, thay bằng hình thức mới cho phù hợp với nội dung mới. Đồng thời nội dung cũng được cải tạo lại. Lênnin: “Đấu tranh giữa nội dung với hình thức, vứt bỏ hình thức, cải tạo nội dung”.



c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Trong hoạt động thực tiễn, cần tránh sự tách rời giữa nội dung và hình thức.

- Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xem xét sự vật, hiện tượng, trước hết cần căn cứ vào nội dung của nó.

- Trong hoạt động thực tiễn, cần phải biết sử dụng nhiều hình thức để phục vụ cho một nội dung nhất định.

- Cần thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.

6. Khả năng và hiện thực

a. Định nghĩa

- Khả năng là cái chưa có, chưa tới, nhưng sẽ có, sẽ tới trong những điều kiện nhất định.

- Hiện thực là cái đang tồn tại trong thực tế.

Hiện thực có hiện thực vật chất và hiện thực tinh thần.

Khả năng có khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên. Khả năng còn được chia ra: khả năng gần và khả năng xa.

b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực

- Khả năng và hiện thực không tách rời nhau; chúng làm tiền đề cho nhau, chuyển hóa lẫn nhau.

- Khả năng trong những điều kiện nhất định thì biến thành hiện thực. Hiện thực mới lại mở ra khả năng mới.

- Cùng một điều kiện nhất định có thể tồn tại nhiều khả năng, chớ không phải chỉ có một khả năng.

- Khả năng biến thành hiện thực cần phải có những điều kiện nhất định.

- Sự chuyển hóa khả năng thành hiện thực trong tự nhiên diễn ra một cách tự phát, không cần có sự tham gia của con người. Trái lại, trong đời sống xã hội, khả năng biến thành hiện thực phải thông qua hoạt động của con người.



c.Ý nghĩa phương pháp luận

+ Khả năng và hiện thực không tách rời nhau, nên trong hiện thực cần xác định khả năng phát triển của sự vật, lựa chọn khả năng tất yếu và tạo điều kiện để thúc đẩy sự vật tiến lên. Tranh thủ khả năng có lợi, đề phòng khả năng có hại.

+ Phân biệt khả năng với cái không khả năng; khả năng với hiện thực để tránh rơi vào ảo tưởng.

+ Trong đời sống xã hội, để khả năng biến thành hiện thực cần phát huy tối đa tính năng động chủ quan của con người. Cần có chính sách thích hợp để phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân.



IV. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Quy luật là gì? Vai trò của con người đối với quy luật



* Quy luật là gì?

+ Theo quan điểm duy tâm, tôn giáo, quy luật là sự an bài của một lực lượng siêu tự nhiên (Trời, Thượng đế) hoặc là mối liên hệ lặp đi lặp lại của những cảm giác của con người.

+ Quan điểm duy vật biện chứng:

Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, tương đối ổn định và lặp đi lặp lại của các mặt bên trong sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.

- Quy luật không phải là cái gì từ bên ngoài giới tự nhiên, từ bên ngoài sự vật áp đặt cho sự vật, mà chính là mối liên hệ của sự vật, hiện tượng.

- Quy luật là mối liên hệ bản chất, chứ không phải bất cứ mối liên hệ nào. Mối liên hệ hiện tượng không phải là quy luật.

- Quy luật là mối liên hệ tương đối ổn định

* Các loại quy luật:

- Xét trong từng lĩnh vực khác nhau của thế giới, người ta chia ra:

+ Quy luật tự nhiên

+ Quy luật xã hội

+ Quy luật tư duy

Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội đều là quy luật khách quan không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người. Tuy nhiên, quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật của tư duy có sự khác nhau:

Quy luật tự nhiên phát huy tác dụng một cách mù quáng, không có ý thức, không có mục đích.

Quy luật xã hội chỉ phát huy tác dụng thông qua hoạt động có ý thức, có mục đích của con người. Tuy nhiên, quy luật xã hội cũng không phụ thuộc ý thức chủ quan của con người.

Quy luật của tư duy là phản ánh quy luật khách quan vào trong đầu óc con người.

- Xét về phạm vi tác động của quy luật:

+ Quy luật đặc thù

+ Quy luật chung

+ Quy luật phổ biến.

Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật đặc thù và quy luật chung. Phép biện chứng nghiên cứu những quy luật phổ biến, tức những quy luật chung nhất trong tự nhiên, xã hội và tư duy.



* Vai trò của con người đối với quy luật

Con người không thể tạo ra hay xóa bỏ quy luật khách quan, không thể bất chấp hay làm trái quy luật khách quan.

Con người có thể nhận thức được quy luật và hành động phù hợp với quy luật.

Con người có thể vận dụng được quy luật một cách có kế hoạch, hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của quy luật, hướng quy luật tự nhiên và xã hội vào phục vụ sản xuất và cuộc sống của con người.

* Quan hệ giữa việc tuân theo quy luật khách quan và hoạt động tự do, sáng tạo của con người (quan hệ giữa tất yếu và tự do)

Trong hoạt động, con người vừa phải tuân theo quy luật khách quan, vừa có tự do sáng tạo trong hoạt động của mình.

Tự do sáng tạo không phải là làm trái với quy luật khách quan mà phải phù hợp với chúng.

Khi con người chưa nhận thức được quy luật thì con người bị chi phối bởi cái tất yếu mù quáng (tính quy luật khách quan mà con người chưa nhận thức được, nên nhiều khi quy về thần thánh, số mệnh).

Càng nhận thức và vận dụng được quy luật khách quan thì con người càng thoát khỏi sự chi phối của cái tất yếu mù quáng, càng phát huy được sự tự do sáng tạo trong hoạt động của mình; thực hiện bước nhảy từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do.

1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại

Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó nói lên cách thức của sự phát triển.



a. Khái niệm chất, lượng

* Khái niệm “chất”

Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó chứ không phải là cái khác.

Chất là khái niệm triết học, là khái niệm rộng nhất, không đồng nhất với khái niệm chất của các ngành khoa học cụ thể.

Chất xuất phát từ cấu trúc bên trong của sự vật và biểu hiện ra thông qua các thuộc tính của sự vật.

Ví dụ: chất của nước do cấu trúc phân tử của nước là H2O, khác với cấu trúc phân tử của rượu là C2H5OH. Thuộc tính của nước và rượu khác nhau.

* Mối quan hệ giữa chất và thuộc tính:

- Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là những cái vốn có của sự vật đó:

Ví dụ: Thuộc tính của Kim loại: Có ánh kim, dẫn điện, dẫn nhiệt, có khả năng dát mỏng, có khả năng kéo thành sợi. (Đây là thuộc tính chung của các loại kim loại).

- Những tính chất (thuộc tính) của sự vật chỉ bộc lộ ra bên ngoài thông qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với sự vật khác.



Ví dụ: Tính dẫn điện của kim loại chỉ bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong môi trường chênh lệch về điện áp. Tính dẫn điện của kim loại chỉ bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong môi trường có sự chênh lệch về nhiệt độ.

- Do vậy, để nhận thức được thuộc tính của sự vật, chúng ta phải nhận thức mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác.



Thuộc tính về chất là gì? Thuộc tính về chất là một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật, nó được bộc lộ ra trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác.

- Chất là tổng hợp các thuộc tính, trong đó có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Chỉ có thuộc tính cơ bản mới phân biệt chất. Sự phân biệt thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản chỉ có tính tương đối.



* Khái niệm “lượng”

Lượng phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, biểu thị số lượng, quy mô, cường độ, trình độ, nhịp điệu của sự vận đôngj và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của sự vật.

Lượng có thể đo được bằng con số. Tuy nhiên, sự vật phức tạp thì thông số về lượng của nó cũng phức tạp; do đó để nhận thức được lượng của nó, phải sử dụng nhiều con số thống kê và phải thông qua sự phán đoán, đánh giá của tư duy.

* Phân biệt chất và lượng

- Sự vật sẽ không còn là nó khi chất thay đổi, ngược lại lượng có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định, sự vật chưa thành cái khác. Do đó, có thể thấy mức độ hữu cơ khác nhau trong sự gắn bó giữa chất và lượng với sự vật. Chất là cái tương đối ổn định, còn lượng là cái thường xuyên thay đổi.

- Chất trước hết nói lên sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng, lượng là đặc trưng cho những mặt đồng nhất, giống nhau giữa các sự vật trong cùng một nhóm, một loại... Chúng ta chỉ nhận thức được lượng của một nhóm, một loại... khi tạm thời trừu tượng những sự khác biệt, chỉ giữ lại những cái giống nhau, đồng nhất giữa các sự vật trong nhóm đó.



Ví dụ: Khi nói tới “5 người” ta không để ý tới trong đó có nam hay nữ, trẻ hay già... các nhân tố của tập hợp “5 người” được xem là hoàn toàn đồng nhất.

- Mỗi sự vật có nhiều chất do đó có nhiều lượng tương ứng. Hơn nữa, mỗi đặc trưng về chất có nhiều mức độ khác nhau về lượng.

 Chúng ta cần chú ý rằng, sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có tính tương đối.

b. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

* Lượng đổi chất đổi

- Chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chất nào có lượng đó; lượng nào có chất đó. Khi sự vật còn tồn tại trong một chất xác định, nghĩa là sự vật còn tòn tại trong khuôn khổ của “độ”.



- Độ là gì? Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.

+ Độ biểu hiện khuôn khổ ổn định tương đối của sự vật, độ của sự vật có thể thay đổi khi điều kiện thay đổi.

+ Trong khuôn khổ của độ, lượng biến đổi từ từ, tiện tiến, tăng dần hoặc giảm dần, khi lượng biến đổi đạt tới giới hạn, chất của sự vật sẽ thay đổi, giới hạn đó gọi là “điểm nút”.

- Điểm nút là gì? Là giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút.



- Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới, sự chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới gọi là “bước nhảy”.

- Bước nhảy là gì? Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra.

Ví dụ: CH4 là chất khí. Cứ mỗi lần thêm một lượng CH2 thì ta có một chất khí mới. Nếu thêm mãi đến C16H34 thì ta được một chất rắn.

Như vậy, quá trình phát triển bao gồm sự tiệm tiến về lượng và thông qua những bước nhảy vọt tạo ra sự chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới. Bước nhảy là giai đoạn kết thúc sự phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình phát triển liên tục của sự vật.

Nói cách khác, danh giới giữa sự vật hiện tượng cũ và sự vật hiện tượng mới do chất quy định. Sự thay đổi của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Sự biến đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật có nhiều hình thức. Sau đây là ba hình thức cơ bản:

+ Sự tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng.

+ Sự dung hợp giữa các lực lượng cá biệt để tạo thành “hợp lực” mà về cơ bản “hợp lực” này khác về chất so với lực lượng cá biệt.

+ Sự thay đổi về tổ chức, về kết cấu, về quy mô (đặc biệt trong lĩnh vực xã hội).

* Ảnh hưởng của chất mới đến lượng mới trong sự biến đổi

- Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Khi chất mới ra đời nó sẽ tác động trở lại đối với sự biến đổi của lượng trong quá trình phát triển của sự vật. Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 3 hướng sau:

+ Ảnh hưởng đến quy mô biến đổi của lượng.

+ Ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của lượng

+ Ảnh hưởng đến tính chất biến đổi của lượng

* Các hình thức của bước nhảy và các hình thức của bước nhảy

Bước nhảy là một hình thức tất yếu của quá trình vận động và phát triển, nếu không có bước nhảy thì sẽ không có sự chuyển hoá chất cũ thành chất mới được.

Các hình thức của bước nhảy diễn ra rất đa dạng phong phú tùy theo bản chất của sự vật và điều kiện tồn tại của sự vật:

+ Bước nhảy trong tự nhiên và bước nhảy diễn ra trong xã hội (tự phát đến tự giác)

Bước nhảy đột biến và bước nhảy từ từ (Khác nhau về nhịp điệu)

Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận (khác nhau về quy mô)



Nội dung quy luật lượng chất

Quy luật lượng chất là quy luật về tác động biện chứng giữa lượng và chất, từ những thay đổi về lượng dẫn tới những sự thay đổi về chất và ngược lại. Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt luôn biến đổi. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất mới được hình thành với lượng mới, lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến một giới hạn nhất định nó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hảm nó. Qúa trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt chất và lượng tạo nên con đường vận động liên tục, từ biến đổi dần dần tới nhảy vọt rồi lại biến đổi dần dần để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo, cứ thế làm cho sự vật không ngừng biến đổi và phát triển.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi muốn thay đổi về chất thì phải không ngừng tích luỹ về lượng

- Khi tích luỹ đủ về lượng phải thực hiện bước nhảy để chuyển sang chất mới.

- Để chuyển sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất chúng ta phải linh hoạt trong việc thực hiện những bước nhảy.

- Khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, phép biện chứng yêu cầu chúng ta trong quá trình nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cần tránh và chống 2 khuynh hướng sau đây:

+ Khuynh hướng “tả khuynh”: Không chú đến quá trình tích luỹ về lượng nhưng lại vội vàng, nôn nóng, chủ quan áp đặt những bước nhảy vọt khi chưa có đủ điều kiện (họ cho rằng sự phát triển chỉ toàn những bước nhảy vọt).

+ Khuynh hướng “hữu khuynh”: chần chừ, do dự không dám thực hiện những bước nhảy vọt khi đã có đủ những điều kiện cần thiết.



2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong, quá trình đấu tranh của các mặt đối lập hay là quá trình giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.

Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật duy vật. Nó nói lên nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng.

a. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn

* Khái niệm mâu thuẫn và mặt đối lập

- Khái niệm mâu thuẫn:

Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt của sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

Quan điểm siêu hình thì ngược lại.

Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là các mặt đối lập.

- Khái niệm mặt đối lập:

Mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau nhưng tồn tại gắn bó với nhau trong một thể thống nhất hợp thành mâu thuẫn.

Ví dụ: Hưng phấn - ức chế; chân lý – sai lầm; điện tích âm - điện tích dương; .....

* Tính chất chung của mâu thuẫn

- Tính khách quan, phổ biến.

- Tính đa dạng và phong phú.

Phép biện chứng duy vật khẳng định, mâu thuẫn tồn tại khách quan phổ biến và đa dang, phong phú trong tự nhiên, xã hội và tư duy và không chịu sự chi phối của ý thức con người.



Ví dụ: Trong tự nhiên, đó là mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm; giữa sức hút và sức đẩy; đồng hóa và dị hóa ; di truyền và biến dị; giống đực và giống cái; sống và chết.

Trong xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột; giữa thiện và ác; giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa hòa bình và chiến tranh.

Trong tư duy, đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; giữa biện chứng và siêu hình; vô thần và hữu thần; chân lý và sai lầm.

b. Quá trình vận động của mâu thuẫn

Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau



- Khái niệm mặt đối lập:

Mặt đối lập là những mặt có thuộc tính, khuynh hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau, nhưng tồn tại gắn bó với nhau trong một thể thống nhất hợp thành một mâu thuẫn.

+ Mặt đối lập có thể là bản thân những thuộc tính, khuynh hướng đối lập, cũng có thể là những yếu tố, bộ phận, sự vật trong đó chứa những thuộc tính, khuynh hướng đối lập.

+ Một mâu thuẫn bao gồm hai mặt đối lập có mối liên hệ với nhau.

- Khái niệm thống nhất giữa các mặt đối lập:

Thống nhất của các mặt đối lập là sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, quy định lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.

- Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập:

Đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ, phủ định, chống đối nhau của các mặt đối lập.

+ Thống nhất của các mặt đối lập là tương đối. Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.

+ Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quá trình phát triển từ thấp đến cao.

 Sự giải quyết mâu thuẫn không chỉ phụ thuộc vào bản chất và trình độ chín muồi của mâu thuẫn, mà còn phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể nhất định của sự tồn tại của nó.



- Khái niệm chuyển hoá giữa các mặt đối lập:

Chuyển hoá giữa các mặt đối lập không phải là sự thay đổi vị trí của các mặt đối lập một cách giản đơn. Chuyển hoá giữa các mặt đối lập ở đây là sự chuyển hoá về chất.

* Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển

- Đấu tranh giữa các mặt đối lập dẫn đến mâu thuẫn được giải quyết, khi mâu thuẫn được giải quyết sẽ làm cho sự vật không ngừng được đổi mới. Mâu thuẫn cơ bản của sự vật được giải quyết sẽ tạo ra bước nhảy của sự vật: sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.

- Thông qua đấu tranh của các mặt đối lập, những gì lạc hậu, lỗi thời sẽ bị loại bỏ, cái mới, cái tiến bộ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.

Như vậy, mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn chính là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển.

* Các loại mâu thuẫn

- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.

- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản

- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu

- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng



Nội dung của quy luật mâu thuẫn

Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Khẳng định tính khách quan của mâu thuẫn, PBCDV yêu cầu chúng ta muốn tìm hiểu mâu thuẫn thì phải tìm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng đó và muốn tìm bản chất của sự vật, hiện tượng thì phải phân đôi cái thống nhất và nhận thức từng bộ phận của nó. Muốn tìm bản chất của sự vật thì chúng ta phải xem xét các mặt đối lập bên trong bản thân mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó.

- Sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình sẽ có các mâu thuẫn khác nhau, do vậy, cần phải có những phương pháp cụ thể, phù hợp để giải quyết từng loại mâu thuẫn.

- Cần phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn đó là phương pháp đấu tranh.

- Cần nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn xã hội là phải đứng trên lập trường của giai cấp tiên tiến, phương pháp nhận thức là phương pháp duy vật biện chứng, chú ý đến mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.

3. Quy luật phủ định của phủ định

Đây cũng là một trong 3 quy luật của phép biện chứng duy vật. Nó nói lên khuynh hướng của sự phát triển.



Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng

* Khái niệm

- Phủ định nói chung là sự bài trừ, bác bỏ sự vật nhất định nào đó. Nói cách khác, phủ định là một quá trình vận động trong đó sự vật, hiện tượng này được thay thế bởi sự vật, hiện tượng khác (đây là sự biến đổi nói chung).

- Nghiên cứu sâu vào quá trình phát triển của thế giới, phép biện chứng duy vật cho rằng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Mỗi sự vật được thay thế ấy chính là mắt khâu trong sợi dây truyền của sự phát triển của hiện thực và tư duy. Sự ra đời của cái mới là kết quả của sự phủ định cái cũ, cái lỗi thời. Quá trình đó gọi là phủ định biện chứng.

Vậy phủ định biện chứng là gì? Phủ định biện chứng là quá trình tự phủ định, tự phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ hơn so với cái tự phủ định.

Có hai loại phủ định:

- Phủ định không biện chứng thực hiện do nguyên nhân bên ngoài, không có tính tất yếu đối với quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, không có kế thừa.

- Phủ định biện chứng là sự thay thế cái cũ bằng cái mới tiến bộ hơn.



* Đặc trưng của phủ định biện chứng

Phủ định biện chứng gồm hai đặc trưng sau đây:



- Tính khách quan: Phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật tồn tại khách quan

- Tính kế thừa: Đây là đặc trưng cơ bản nhất của phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng cái mới chỉ phủ định mặt lạc hậu, lỗi thời của cái cũ, đồng thời kế thừa những giá trị của cái cũ. Do đó, phủ định biện chứng là sự phủ định nhưng đồng thời cũng là sự khẳng định.

- Từ hai đặc trưng nêu trên của phủ định biện chứng chúng ta thấy nó đối lập hẳn với quan điểm siêu hình. Quan điểm siêu hình cho rằng:

+ Phủ định đó là biến sự vật thành cái khác, đối lập với nó.

+ Đó là sự phủ định sạch trơn không kế thừa, không có trọn lọc

+ Nó là phủ định có thể là khách quan, có thể là chủ quan. Khách quan là tự thân phủ định; còn cái bị các thế lực khác chi phối là phủ định chủ quan.

b. Phủ định của phủ định – hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển

- Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.

Ví dụ: Tằm  Nhộng  Ngài (Bướm ) Trứng  Tằm

CNDV cổ đại  CNDV siêu hình  CNDVBC

- Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn bên trong của sự vật. Mỗi lần phủ định là kết quả của đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập trong bản thân sự vật, giữa mặt khẳng định và mặt phủ định.

- Phủ định biện chứng được hoàn thành trong một chu kỳ phát triển. Sự vật ở điểm xuất phát ban đầu qua lần phủ định thứ nhất trở thành cái đối lập với nó - bước trung gian của sự phát triển; lần phủ định thứ hai, tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lần phủ định thứ hai được gọi là phủ định của phủ định.



Ví dụ: Hạt thóc  Cây lúa  Bông lúa

Số nguyên dương  Số nguyên  Số hữu tỉ  Số thực  Số phức

- Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới là kết quả tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực ban đầu đã được phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả trong những cái phủ định tiếp theo. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả phủ định của phủ định nó sẽ có nội dung toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và cái kết quả của lần phủ định thứ nhất.

- Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, ở đó sự phát triển dường như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, đây là đắc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng - điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo.

- Phủ định của phủ định được hoàn thành trong chu kỳ phát triển, thông thường mỗi chu kỳ trải qua hai lần phủ định. Tuy nhiên, thế giới tồn tại rất đa rạng, do đó, số lần phủ định một chu kỳ có thể nhiều hơn. Nhưng trong số rất nhiều lần phủ định của một chu kỳ chúng ta vẫn có thể khái quát lại hai lần: Phủ định lần thứ nhất chuyển cái xuất phát thành cái đối lập mình; phủ định lần thứ hai chuyển cái trung gian thành cái đối lập với nó, sự vật dường như lặp lại cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn.

- Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Sự phát triển không phải diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”

- Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường xoáy ốc chính là hình thức biểu đạt rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại mà tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay trở lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao.

Nội dung quy luật

Quy luật này nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có thính chất tiến lên không phải theo đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Giúp ta hiểu được khuynh hướng của sự phát triển: tiến lên theo đường trôn ốc, cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ, kế thừa tất cả những yếu tố tích cực của cái cũ. Chống lại thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.

- Khắc phục cách nhìn đơn giản về sự phát triển: phát triển theo đường thẳng, đường tròn khép kín.

- Trong công tác chúng ta phải biết quý trọng và phát hiện cái mới, phải tin vào tương lai phát triển của cái mới, mặc dù lúc đầu nó có thể là cái cá biệt, nhưng dần dần cái cá biệt khi được bồi dưỡng, phát huy nó sẽ trở thành cái phổ biến, hoàn thiện



V. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Lý luận nhận thức hay còn gọi là nhận thức luận được hình ngay từ khi triết học mới ra đời. Nó nghiên cứu bản chất của nhận thức, những tính quy luật, những hình thức, những giai đoạn, trình độ của nhận thức cũng như con đường đi đến chân lý v.v.... Tất cả các trào lưu triết học đều xuất phát từ lập trường thế giới quan của mình để đưa ra những hệ thống quan điểm nhất định về vấn đề nhận thức.

Xuất phát từ cách giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học, K.Marx đã xem xét hoạt động nhận thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn, nên đã đưa ra được những quan điểm đúng đắn về hàng loạt vấn đề phức tạp, nan giải của nhận thức, hình thành nên lý luận nhận thức thật sự khoa học, một bộ phận quan trọng và không thể thiếu được của triết học mácxít.

Bản chất của nhận thức

Nhận thức là gì? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Đây là một vấn đề rộng lớn của mọi triết học. Các quan điểm khác nhau có những cấu trả lời khác nhau đối với vấn đề trên.

- Các nhà triết học duy tâm không thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với ý thức con người, do đó họ không thừa nhận nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan:

+ Đối với nhiều nhà duy tâm chủ quan, họ cho rằng, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là phức hợp những cảm giác của con người. Do đó, nhận thức chẳng qua là sự nhận thức các cảm giác, biểu tượng của con người.

+ Nhiều nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận thức thế giới, song coi nhận thức cũng không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan mà chỉ là sự nhận thức ý niệm (Platon, Hegel), họ cho rằng tư tưởng tồn tại ở đâu đó ngoài con người.

Platon coi tư tưởng chỉ là “sự hồi tưởng của linh hồn về những điều nó đã thấy và đã trải qua khi còn ở thế giới bên kia – vương quốc của những tư tưởng và cái đẹp thuần tuý”.

Những nhà duy tâm trong mọi thời đại đã bác bỏ lý luận phản ánh duy vật. Họ cho rằng, nhận thức chỉ là một quá trình sản sinh ra tư tưởng từ trong chiều sâu ý thức của chủ thể, là quá trình tự sinh của tri thức. Mặc dù vậy, chủ nghĩa duy tâm, bên cạnh những sai lầm trong quan niệm về sự sáng tạo của thế giới là bởi tư tưởng, tinh thần, họ cũng đã nói lên được tính tích cực, chủ động của ý thức, của trí tuệ con người, họ thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người, và thừa nhận thế giới đó như là nguồn gốc của nhận thức.

- Những người theo thuyết hoài nghi lại nghi ngờ tính xác thực của tri thức, biến sự nghi ngờ thành một nguyên tắc nhận thức, thậm chí chuyển thành nghi ngờ sự tồn tại của bản thân thế giới bên ngoài.

- Những người theo thuyết không thể biết lại phủ nhận khả năng nhận thức của thế giới. Quan điểm của thuyết hoài nghi và thuyết không thể biết đã bị bác bỏ bởi thực tiễn và sự phát triển nhận thức của xã hội loài người .

* Quan điểm về bản chất của nhận thức của K.Marx, F.Engels và V.I.Lênin

- “Thế giới không có gì khác ngoài vật chất vận động và phát triển. Không phải ý thức con người sản sinh ra thế giới vật chất như các nhà duy tâm quan niệm, mà ngược lại, vật chất tồn tại độc lập với con người”. Vì vậy, nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc của con người. Sự phản ánh đó không phải là hành động nhất thời, máy móc, giản đơn và thụ động mà là một quá trình phức tạp của hoạt động trí tuệ tích cực và sáng tạo.

- Một số nhà triết học phương Tây hiện đại thường tập trung phê phán lý luận phản ánh của Lênin, họ cho rằng, khái niệm phản ánh đó không nói lên được tính tích cực trong hoạt động nhận thức của con người.

Thực ra, trong khi khẳng định nhận thức là một quá trình phản ánh trong đầu óc con người các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, lý luận nhận thức mácxít không quan niệm đây là một sự tái hiện đơn giản, máy móc, nguyên xi mà là một sự phản ánh mang tính chất tích cực, sáng tạo.

V.I.Lênin đã viết, “ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn sáng tạo ra thế giới khách quan” (t18)

Tính chất sáng tạo trong hoạt động phản ánh của con người được thể hiện qua nhiều khía cạnh, nhiều mức độ; không chỉ tái hiện nguyên xi mà còn tiến hành phân tích, tổng hợp để từ những nguyên liệu có sẵn trong thực tại khách quan, hình dung, tưởng tượng ra những cái chưa có, nhưng cần có cho con người; không chỉ phản ánh cái bên ngoài, những mối liên hệ đơn nhất, ngẫu nhiên mà cả cái bên trong, những mối liên hệ phổ biến mang tính quy luật. Đây là sự phản ánh riêng của con người, nó khác hẳn với hành vi phản ánh của động vật.

Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V.I.Lênin đã nêu lên 3 kết luận được xem là cơ sở lý luận của lý luận nhận thức duy vật biện chứng:

1. Có những sự vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, ở ngoài chúng ta.

2 . Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác nhau nào về nguyên tắc giữa “hiện tượng” và “vật tự nó”. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã được nhận thức và cái chưa được nhận thức.

Kết luận này chính là sự khẳng định năng lực nhận thức thế giới của con người. Với khẳng định trên đây, lý luận nhận thức mácxít khẳng định sức mạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.

Nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan, bởi nhận thức của con người là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Nhờ có nhận thức, con người mới có ý thức về thế giới. Ý thức về cơ bản là quá trình nhận thức về thế giới.

Thế giơi vật chất tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức của con người, tác động vào giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý thức.



3. Nhận thức không phải là hành động tức thời, đơn giản,, máy móc và thụ động, mà là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.

Vì vậy, “trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng. Nghĩa là đừng giả định rằng, nhận thức của chúng ta là bất di, bất dịch và có sẵn rồi; mà phải phân tích sự hiểu biết sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào? Sự hiểu biết không đầy đủ, không chính xác như thế nào?



1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức

a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn

* Khái niệm thực tiễn

- Các nhà duy vật trước K.Marx đã có công lao to lớn trong việc phát triển thế giới quan duy vật, và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm. Như K.Marx đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu, từ trước cho đến nay của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ nghĩa duy vật của Feuerbach) là không thấy được vai trò của thực tiễn” (t1, 252).

+ Feuerbach đã có đề cập đến thực tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là hoạt động vật chất cảm tính, có tính năng động của con người. Do đó, ông coi thường hoạt động thực tiễn, xem thực tiễn là cái gì đó có tính chất con buôn bẩn thỉu, ông không hiểu được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới. Feuerbach viết: “Con người có vừa đủ các giác quan cần thiết để có thể hiểu được toàn bộ thế giới một cách đại thể” hay như “chúng ta đọc cuốn sách của giới tự nhiên bằng giác quan ... nhưng chúng ta không dùng giác quan để hiểu nó được”.

+ Khi đề cập đến “ý niệm thực tiễn”, Hegel đã có tư tưởng hợp lý, sâu sắc: bằng thực tiễn, chủ thể của tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Song, do quan niệm duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng, đối với ông thực tiễn là một “suy lý lôgíc”.

- Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn K.Marx và F.Engels đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luân của mình K.Marx và F.Engels đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức nói riêng.

V.I.Lênin đã nhận xét, “quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.



Vậy thực tiễn là gì?

Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân con người.

* Các hình thức cơ bản của thực tiễn

Nói đến thực tiễn, trước hết ta phải nói đến hoạt động vật chất (khách quan tồn tại), hoạt động thực tiễn có nhiều hình thức khác nhau, trong đó phải kể đến ba hình thức cơ bản sau đây:

- Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn, có vai trò quyết định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.

- Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội: Đây là hình thức cao nhất của hoạt động thực tiễn.

- Quan sát và thực nghiệm khoa học: Nó được xem là khâu trung gian giữa người nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào trong thực tế. Đây là khâu quan trọng nhất trong các khâu của hoạt động thực tiễn khoa học.

* Hoạt động mang thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội:

- Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử nó khác nhau về tính chất, khác nhau về hình thức biểu hiện, nó khác nhau về nội dung.

- Thực tiễn là một hoạt động mang tính xã hội, nhưng không phải hoạt động cá nhân nào cũng mang tính thực tiễn.

- Hoạt động thực tiễn bao giờ cũng mang tính cách mạng, đó là hoạt động cải tạo thế giới và cải tạo chính bản thân con người.

Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế giới.

b. Nhận thức và các trình độ nhận thức

* Khái niệm nhận thức

* Định nghĩa nhận thức:

Nhận thức là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não người. Đó là sự phản ánh năng động, sáng tạo, dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong mối quan hệ với khách thể.

* Các giai đoạn của quá trình nhận thức:

Quá trình nhận thức của con người và loài người nói chung trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tínhnhận thức thức lý tính.



Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động, hiện thực khách quan vào các giác quan của con người. Nhận thức cảm tính bao gồm các hình thức là: cảm giác, tri giác và biểu tượng.

- Cảm giác là gì? Cảm giác là hình thức đầu tiên của phản ánh hiện thực khách quan. Sự vật, hiện tượng tác động vào giác quan gây nên sự kích thích của tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác. Cảm giác là sự phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan của con người.

- Tri giác là gì? Tri giác là sự phản ánh nhiều thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ giữa chúng với nhau. Tri giác được hình thành từ nhiều cảm giác kết hợp lại. Tri giác là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng thông qua giác quan của con người.

- Biểu tượng là gì? Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu tượng là hình ảnh được lưu giữ trong chủ thể khi không còn sự vật, hiện tượng hiện diện trực tiếp trước chủ thể.

Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng), đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình nhận thức, đây là giai đoạn phản ánh trình độ cao, nó không dừng lại ở cái bề ngoài, cái hiện tượng mà nó là sự phản ánh bên trong, mối liên hệ bản chất. Chính vì vậy mà nó phản ánh, vạch ra được quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính gồm ba giai đoạn cơ bản sau: Khái niệm, phán đoán và suy lý:

- Khái niệm là gì? Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy phản ánh một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống về bản chất, quy luật của đối tượng và thường được biểu đạt bằng ngôn ngữ dưới dạng những thuật ngữ.

- Phán đoán là gì? Là sự liên hệ giữa các khái niệm theo một quy tắc xác định mà chúng ta có thể xác định được trị số lôgíc của nó.

- Suy lý là gì? Là một thao tác của tư duy để đi đến những tri thức mới từ những tri thức đã có.



* Các cấp độ nhận thức:

- Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội, hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm.

- Nhận thức lý luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.

 Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau.

+ Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể; bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm chỉ dừng lại ở cấp độ mô tả, phân loại các sự kiện... Do đó, nó chỉ mang lại những hiểu biết rời rạc, riêng lẻ, chưa phản ánh được cái bản chất, mối liên hệ của sự vật, hiện tượng.

+ Nhận thức lý luận không hình thành một các tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính đối lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống con người. Thông quan đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, cái phổ biến.

- Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày.



- Nhận thức khoa học: là nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Nhận thức trừu tượng vừa có tính khách quan, vừa có tính trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực.

 Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau:

+ Nhận thức thông thường là chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, cái không bản chất của đối tượng. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải có quá trình tổng kết, trừu tượng hoá, khái quát hoá đúng đắn của các nhà khoa học.

+ Khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó sẽ tác động trở lại đối với nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.



c. Vai trò của thực tiễn với nhận thức

* Thực tiễn là cơ sở của nhận thức

- Nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức, điều này có nghĩa là, không chỉ thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua sự tác động của chủ thể và khách thể khi đó các sự vật, hiện tượng mới bộc lộ những thuộc tính vốn có của nó, nhờ vậy chúng ta mới nhận thức được sự vật hiện tượng.



Ví dụ: Khoa học nói riêng và tri thức của con người nói chung nó bắt nguồn từ thực tiễn, thông qua quá trình sản xuất. Nhưng đến lượt nó những tri thức khoa học đó lại trở lại phục vụ cho thực tiễn, phục vụ sản xuất, phục vụ đấu tranh của xã hội.

- Nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì, thông qua sự tác động, giác quan của con người ngày càng hoàn thiện hơn, nhờ vậy mà nhận thức của con người ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn.



* Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức

Chúng ta nói thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức là vì, thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, những nhiệm vụ mới cho quá trình nhận thức. Thực tiễn cũng luôn luôn vận động, luôn biến đổi, do vậy, mỗi bước tiến, thay đổi của thực tiễn nó lại đặt ra cho nhận thức những vấn đề phải giải quyết.



* Thực tiễn là mục đích của quá trình nhận thức

Ta nói rằng, thực tiễn là mục đích của quá trình nhận thức theo nghĩa nhận thức phải phục vụ thực tiễn.



* Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính chân lý trong quá trình phát triển nhận thức

Chúng ta nói rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý theo nghĩa, thực tiễn là thước đo cái tính chân thực, cái tính giá trị của những tri thức mà con người đạt được trong quá trình nhận thức.



Lưu ý: Chúng ta nói rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý nhưng đây không phải là tiêu chuẩn duy nhất, điều này cho thấy chân lý còn có nhiều tiêu chuẩn khác nữa.

Ví dụ: Cùng một vấn đề ngoài thực tiễn nhưng người này trình bày thuyết phục, người khác thì không. Điều này nó phụ thuộc vào tư duy logic của mỗi người trình bày.

Chúng ta nói thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý nhưng tiêu chuẩn đó vừa có tính xác định lại vừa có tính không xác định. ...



* Tính thống nhất biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức

- Lý luận chính là kết quả trực tiếp của quá trình tư duy trừu tượng, vai trò của lý luận là rất quan trọng đối với thực tiễn, cụ thể là nó nâng hoạt động thực tiễn từ tự phát lên thành tự giác. V.I.Lênin đã từng nói: “Không có lý luận cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng” hay “thực tiễn mà không có chân lý là thực tiễn mù quáng”.

- Lý luận và thực tiễn được xem là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác. Thực tiễn không thể không có lý luận và lý luận phải lấy thực tiễn làm chân lý.

* Nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận

Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội. Quá trình nhận thức thực tiễn diễn ra không giản đơn, thụ động, máy móc, nhận thức không có sẵn, bất di bất dịch và là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người một cách năng động, sáng tạo, biện chứng. Đó là quá trình đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn.



2. Chân lý và vai trò của chân lý với thực tiễn

* Khái niệm chân lý

Chân lý (truth: sự thật) là tri thức của con người về thế giới khách quan có nội dung phù hợp với thế giới đó và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.

* Các tính chất của chân lý: tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.

Tính khách quan: Nội dung tri thức trong chân lý phù hợp với hiện thực khách quan, không phải là tư tưởng thuần túy chủ quan. Chân lý khách quan là chân lý không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, loài người.

V.I. Lênin viết: “Xét theo quan điểm thứ nhất, - quan điểm của thuyết bất khả tri , hay đi xa hơn nữa, quan điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, thì không thể có chân lý khách quan. Xét theo quan điểm thứ hai, tức là quan điểm của chủ nghĩa duy vật, thì chủ yếu là thừa nhận chân lý khách quan” (Tập 18, tr.147).

“Thừa nhận chân lý khách quan - đứng trên quan điểm lý luận duy vật về nhận thức, thì cũng như nhau thôi” (Tập 18, tr.152).

Chân lý khách quan là chân lý duy nhất (trong trường hợp cụ thể nhất định chỉ có một điều đúng, không thể có nhiều chân lý).



Tính cụ thể : Chân lý bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện cụ thể nhất định. Vượt ra ngoài những điều kiện cụ thể đó thì những tri thức vốn là chân lý có thể trở thành sai lầm.

Tính tương đối và tính tuyệt đối: là hai mặt của một chân lý cụ thể. Một chân lý cụ thể vừa có tính tuyệt đối (vì nếu áp dụng trong điều kiện cụ thể của nó thì nó luôn luôn đúng và không bao giờ trở thành sai lầm), vừa có tính tương đối (vì nó chưa đầy đủ, chưa toàn diện, nếu áp dụng trong điều kiện khác thì sẽ trở thành sai lầm).

Như vậy, không thể có chân lý vĩnh cữu, tức chân lý bất di bất dịch. Tư duy con người trong quá trình tiến lên vô cùng tận ngày càng tiệm cận đến chân lý tuyệt đối, chứ không bao giờ có thể đạt được một cách đầy đủ, hoàn toàn.

V.I. Lênin: “Như vậy là theo bản chất của nó, tư duy của con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới hạn chân lý của mọi định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tùy theo sự tăng tiến của tri thức” (Tập 18, tr.158).

* Vai trò của chân lý đối với thực tiễn

- Các quan điểm không đúng

+ Quan điểm của R.Descartes: Tính rõ ràng, rành mạch của tư tưởng, không gây ra bất cứ sự nghi ngờ nào (tính lôgíc).

+ Chủ nghĩa thực chứng: Chân lý là những gì được chứng thực bằng kinh nghiệm cảm tính.

+ Chủ nghĩa thực dụng: sự thành công hay hiệu quả thực tế, đem lại lợi ích thiết thực.

- Quan điểm duy vật biện chứng :

Tiêu chuẩn của chân lý là hoạt động thực tiễn.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khác với quan điểm thực chứng và quan điểm thực dụng:

+ Quan điểm thực chứng chỉ hạn chế tiêu chuẩn chân lý trong quan sát và thực nghiệm khoa học, còn thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất của loài người, trong đó thực nghiệm khoa học chỉ là một hình thức.

+ Quan điểm thực dụng hạn chế tiêu chuẩn của chân lý ở hiệu quả thực tế của một công việc cụ thể; trái lại tiêu chuẩn thực tiễn của chủ nghĩa duy vật biện chứng là hoạt động vật chất trong phạm vi rộng lớn và trong thời gian dài.

Chương III

CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1. Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất

a. Khái niệm sản xuất vật chất và phương thức sản xuất

* Khái niệm sản xuất vật chất

- Sản xuất xã hội là gì? Sản xuất bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất ra tinh thần và sản xuất ra con người. Ba quá trình này không tách rời nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của tồn tại và phát triển xã hội, xét đến cùng nó quyết định toàn bộ tồn tại xã hội.

- Sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động (tác động trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên, tạo ra của cải xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển, nhu cầu phong phú và vô tận của con người.



* Khái niệm phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất, cách thức con người tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng trong một giai đoạn lịch sử nhất định..

b. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội

* Vai trò của sản xuất vật chất:

- Tạo ra các tư liệu sinh hoạt thoả mãn các nhu cầu của con người.

- Tạo ra các mặt của đời sống xã hội, tạo ra các quan hệ xã hội về Nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật.

- Làm biến đổi tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.

- Sự phát triển của sản xuất quyết định sự phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định xã hội từ thấp đến cao.



* Vai trò của phương thức sản xuất đối với trình độ và phát triển xã hội

- Sản xuất vật chất được thực hiện trong những điều kiện cụ thể về hoàn cảnh địa lý, điều kiện tự nhiên; về điều kiện dân số và phương thức sản xuất. Trong đó phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

- Phương thức sản xuất quyết định tính chất, kết cấu của xã hội. Bởi lẽ, trong mỗi xã hội cụ thể, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của chế độ xã hội sẽ như thế ấy. Kết cấu của giai cấp, tính chất của mối quan hệ giữa các giai cấp cũng như các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức v.v... suy cho cùng đều do phương thức sản xuất quyết định.

- Khi phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ lỗi thời thì sớm hay muộn sẽ có sự thay đổi cơ bản từ kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp; từ các quan điểm chính trị - xã hội đến các tổ chức xã hội v.v... Vì vậy, lịch sử xã hội loài người, trước hết là lịch sử sản xuất vật chất, các phương thức sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển.



2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

* Lực lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. (Là khái niệm để chỉ những phương thức kết hợp giữa người lao động với TLSX trong sản xuất vật chất)

Với ý nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nói cách khác, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người.

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, bao gồm:

+ Người lao động với những kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, tri thức, kinh nghịêm nhất định có khả năng sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất.

+ Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.

+ Đối tượng lao động là những vật mà người lao động tác động vào để tạo ra của cải vật chất.

+ Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và những phương tiện lao động khác, là những vật hay phức hợp những vật mà người lao động sử dụng để tác động vào đối tượng lao động.

- Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quyết định, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”.

- Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao động là yếu tố cơ bản đóng vai trò quyết định. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá”, nó có tác dụng “nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ” của con người trong quá trình lao động sản xuất.

- Ngày nay, khoa học – công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học – công nghệ được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự xâm nhập ngày càng sâu của khoa học – công nghệ vào quá trình sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt.



* Quan hệ sản xuất và ba mặt của quan hệ sản xuất

Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có mối quan hệ cới tự nhiên mà con có mối quan hệ với nhau. Khái quát mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, triết học Mác-Lênin gọi đó là quan hệ sản xuất.



Vậy, quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.

Đây không phải là quan hệ tình cảm, quan hệ tinh thần, mà đây là những quan hệ được hình thành một cách khách quan (quan hệ vật chất). Đây là quan hệ cơ bản nhất, nó quy định các quan hệ xã hội khác.

- Quan hệ sản xuất bao gồm:








Quan hệ sản xuất






















Quan hệ về chiếm hữu tư liệu sản xuất




Quan hệ về quản lý và phân công lao động




Quan hệ về phân phối sản phẩm


Каталог: dspace -> bitstream -> 123456789
123456789 -> XÁC ĐỊnh cơ CẤu cây trồng và thời vụ HỢp lý cho các vùng thưỜng xuyên bị ngập lụt tại huyện cát tiên tỉnh lâM ĐỒNG
123456789 -> THÔng 3 LÁ LÂM ĐỒNG
123456789 -> CHƯƠng I: giới thiệu môn học và HẠch toán thu nhập quốc dân kinh tế vĩ mô là gì?
123456789 -> Bài 1: XÁC ĐỊnh hàm lưỢng oxy hòa tan (DO)
123456789 -> HỌc phầN: VẬt lý ĐẠi cưƠng dành cho sinh viên bậc cao đẲng khối ngành kỹ thuậT
123456789 -> BỘ CÔng thưƠng trưỜng cao đẲng công nghiệp tuy hòA
123456789 -> Chương 1: ĐẠi cưƠng về hoá học hữu cơ Hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ
123456789 -> CHƯƠng 1 những khái niệm chung vài nét về lịch sử Thời kỳ thứ nhất

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương