NHẬp môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa mác-lênin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa mác-lênin


Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa



tải về 1.61 Mb.
trang14/17
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.61 Mb.
#25175
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

3. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

a) Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

Tính tất yếu khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.

Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân là điều kiện cơ bản để tăng cường lực lượng và nếu không có liên minh này thì giai cấp công nhân không thể dành chính quyền và giữ vững chính quyền. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy nếu giai cấp công nhân không liên minh với nông dân thì không thể giành được thắng lợi trong cách mạng xã hội.

Để xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân cũng nhất thiết phải liên minh với nông dân vì đó là lực lượng đông đảo, là một động lực quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Cơ sở khách quan của việc xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân.

Giai cấp nông dân cũng là giai cấp bị bóc lột do đó là người gần gũi với giai cấp công nhân. Liên minh công – nông là do mối liên hệ tự nhiên, gắn bó và thống nhất về lợi ích cơ bản của công nhân, nông dân.

Liên minh công – nông là do sự gắn bó giữa công nghiệp, nông nghiệp, đó là hai ngành sản xuất chính của xã hội. Công nghiệp tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp. Ngược lại, nông nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ cho nhu cầu của toàn xã hội, đồng thời nó cũng tạo ra nông sản phục vụ cho sản xuất công nghiệp.

Liên minh công - nông là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; đó là lực lượng chính trị xã hội cơ bản của cách mạng, là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, nông dân trở thành người bạn tự nhiên, tất yếu của giai cấp công nhân.



b) Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.

Liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm giành chính quyền về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công - nông chính là việc cùng tham gia vào chính quyền nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân không phải là sự dung hoà về lập trường tư tưởng mà giai cấp nông dân phải đứng trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân.

Liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân. Đây là nội dung liên minh quan trọng nhất, chủ yếu trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện liên minh về kinh tế giữa công nhân và nông dân là kết hợp đúng đắn lợi ích của hai giai cấp, vừa đảm bảo lợi ích của nhà nước, của xã hội vừa quan tâm tới lợi ích của nông dân, có chính sách phù hợp với nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

Nội dung về văn hóa, xã hội của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.

Khi nói đến nội dung về văn hoá, xã hội của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, chúng ta phải nhấn mạnh rằng, đây là một trong những vấn đề quan trọng của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện tốt được những nội dung về văn hoá, xã hội của khối liên minh công – nông chúng ta mới có thể phát huy hết được động lực của từng giai cấp cũng như sức mạnh của khối liên minh. Muốn thực hiện tốt những nội dung của liên minh công – nông trên lĩnh vực văn hoá, xã hội chúng ta cần phải: Một là, thường xuyên chăm lo, nâng cao trình độ văn hóa của công nhân và nông dân. Hai là, xây dựng quan hệ xã hội nhân văn, nhân đạo, hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc. Ba là, tạo điều kiện cho quần chúng lao động tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý nhà nước.

Nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp trong khối liên minh công - nông. Xây dựng khối liên minh công – nông không có nghĩa là chia quyền lãnh đạo của hai giai cấp này, mà phải đi theo đường lối của giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ, cục bộ, phân tán, không có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, giai cấp nông dân chỉ có đi theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn của xã hội mới.

Hai là, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Có thực hiện được tinh thần tự nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới bền vững và lâu dài.

Ba là, kết hợp đúng đắn các lợi ích của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Đây là hai giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất với nhau. Sự thống nhất về mặt lợi ích là điều kiện quan trọng để thực hiện liên minh.

III. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA

1. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa

Phương pháp luận cơ bản của việc dự báo xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa: C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử đề nghiên cứu xã hội loài người. Các ông coi sự vận động phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội là quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên, điều đó là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dẫn tới sự kìm hãm lực lượng sản xuất. Nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và nhu cầu tất yếu của sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện trên lĩnh vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản. Sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính vô sản và sự xác lập hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.

C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản phát triển nhưng căn cứ vào những điều kiện thực tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã dự báo sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước có trình độ phát triển trung bình và những dân tộc thuộc địa. Những điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ các nước tư bản chủ nghĩa trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản phải hội tụ đủ các điều kiện sau đây:

Một là, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các nước đế quốc không ngừng xâm lược, khai thác thuộc địa, gây ra chiến tranh…Do đó, đã làm xuất hiện những mâu thuẫn cơ bản và gay gắt của thời đại như: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa; mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân…. Ở các nước nông nghiệp lạc hậu và là thuộc địa mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa thực dân đế quốc cùng bọn phong kiến tay sai, với một bên là cả dân tộc đang bị nô dịch, bị áp bức, b`óc lột.

Hai là, có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, hệ tư tưởng Mác-Lênin, đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức…, làm thức tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong trào yêu nước, giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Phải có sự ra đời của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân và theo hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Như vậy, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khi ra đời ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản không phải là ngẫu nhiên mà nó phải có những điều kiện lịch sử nhất định.

2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa

a) Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Tính tất yếu và hai loại hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do: Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại công nghiệp có trình độ cao. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp nhưng nó chưa phải là cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp, cải tạo nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thành cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh từ chủ nghĩa tư bản, mà chỉ có thể là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khăn phức tạp và đòi hỏi phải có thời gian.



Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của xã hội cũ đan xen với những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đâu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, v.v…và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.



Trên lĩnh vực kinh tế là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế có nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp với nhau, nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau.

Trên lĩnh vực chính trị là sự tồn tại kết cấu giai cấp xã hội đa dạng, phức tạp do đó ý thức chính trị của các bộ phận khác nhau cũng có sự khác nhau.

Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa-xã hội là sự tồn tại nhiều tư tưởng và văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác-Lênin giữ vai trò thống trị vẫn tồn tại các tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông…

Thực chất của thời kỳ quá độ

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về thực chất là thời kỳ đấu tranh quyết liệt về chính trị, tư tưởng, văn hoá, kinh tế, xã hội giữa một bên là giai cấp công nhân liên minh cùng giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác đã giành được chính quyền nhà nước, tổ chức xây dựng xã hội mới, với một bên là giai cấp bóc lột, các thế lực phản động mới bị đánh đổ và vẫn còn nuôi hy vọng giành lại được thiên đường đã mất.



Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong lĩnh vực kinh tế:

Sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Quá trình này phải tuân thủ những đòi hỏi khách quan của quy luật kinh tế, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Đối với những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tất yêu phải tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình này cũng đòi hỏi phải tuân thủ quy luật kinh té khách quan và tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế để xác định chiến lược, bước đi và nội dung thích hợp.

Trong lĩnh vực chính trị:

Đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa .

Đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội của nhân dân lao động.

Xây dựng các tổ chức chính trị-xã hội.

Xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ lịch sử.



Trong lĩnh vực xã hội:

Khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại.

Khắc phục trình độ phát triển chệnh lệch giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư để thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội.

b) Chủ nghĩa xã hội

Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản có các đặc trưng sau:

1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền sản xuất công nghiệp với trình độ công nghệ hiện đại

Xã hội xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa là hai chế độ xã hội mà ở đó có sự khác nhau về chế độ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu. Ở xã hội xã hội chủ nghĩa đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu còn trong xã hội tư bản chủ nghĩa đó là chế độ tư hữu.

Với các nước tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội, với lực lượng sản xuất phát triển, đây là điều kiện thuận lợi để tiếp tục xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Với các nước không phát triển qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

2. Xã hội xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội không xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Vì đây chính là nguồn gốc của áp bức, bóc lột giá trị thặng dư.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội; cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, và vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn lao động, nhân công,…cá nhân người này vẫn có thể còn bóc lột những cá nhân khác. Đây chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét trên bình diện của toàn xã hội, giai cấp này bóc lột giai cấp khác, tầng lớp khác.

3. Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới. Đây là một vấn đề đấu tranh tự hoàn thiện về cách thức lao động và kỷ luật lao động theo tiến trình từng bước của chủ nghĩa xã hội

4. Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động – nguyên tắc phân phối cơ bản nhất. Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản nhất trong chủ nghĩa xã hội nhưng không phải là nguyên tắc duy nhất. Nguyên tắc phân phối này nó phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội.

5. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền và lợi ích của nhân dân

6. Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội mà con người giải phóng, và thoát khỏi chế độ áp bức bóc lột; thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội tạo ra những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện. Mục tiêu cao nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, đây là một quá trình lâu dài và được thực hiện từng bước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng….



Tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra những dự báo khoa học về những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang định hướng để xây dựng, và những dự báo này chỉ đạt được sau khi kết thúc thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai mươi năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về chủ nghĩa xã hội. Điều này được thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X:

- “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;

- Do nhân dân lao động làm chủ;

- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;

- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc;

- Con người được giải phóng khỏi áp bức bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;

- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;

- Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới;

Có thể xem đây là mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc trưng trong mô hình đó vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến các đặc điểm của thời đại. Tuy nhiên ở đây vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và cụ thể.

c) Giai đoạn cao của Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:

Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuấtphát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội tuôn ra dào dạt, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con người được giảm nhẹ, thực hiện phân phối theo nhu cầu. Trrong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết: “Khi nào lao động troẻ thành không những là một phương tiện để sing sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi lên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”(1).

Về mặt xã hội: Trình độ xã hội phát triển nagỳ càng cao, con người có điều kiện phát triển năng lực của mình, trí thức con người được nâng cao, không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giai cấp và nhà nước sẽ tiêu vong. Chỉ lúc đó nhà nước mới tiêu vong, một nền dânchủ thực sự hoàn bị, thực sự không hạn chế mới có thể có và được thực hiện.

Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp tục đưa ra những luận giải về mô hình xã hội trong tương lai. Ông cho rằng, khi xã hội đạt được trình độ phát triển cao như vậy, thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi người, không còn đối tượng bị hạn chế dân chủ, do vậy dân chủ cũng không còn; nhà nước luật pháp tự tiêu vong, vì lúc này không cần tới sự chấn áp của nhà nước, pháp luật trở thành phong tục, tập quán, thành quan niệm đạo đức mọi người tự giác thực hiện.

Cũng theo V.I.Lênin, tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng hoàn toàn, chuyển từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, có điều kiện phát triển toàn diện năng lực và mang hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã hội....

V.I.Lênin cũng cho rằng, không phải nhà nước tiêu vong ngay một lúc, mà là một quá trình: “Chúng ta chỉ có quyền nói rằng, nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản”(1).

Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về gia đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản, các ông đều nêu lên những điều kiện kinh tế - xã hội đảm bảo cho sự xuất hiện của giai đoạn này. Các điều kiện đó là:

Một là, C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của hình thái kinh tế - cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự xuất hiện của giai đoạn này.

Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục nâng cao tinh thần tự giác của con người. Nếu không có quá trình đó cũng không thể xuất hiện được giai đoạn đó.

Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư nhưng không có giai cấp tư sản:”(1). Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính giai cấp của nhà nước, của dân chủ vẫn tồn tại.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra các dự báo và luận giải về sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở phân tích quy luật phát triển khách quan của xã hội, đặc biệt là quy luật kinh tế của sự vận động của xã hội tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, lịch sử phát triển của xã hội luôn luôn chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan trong những điều kiện xác định, từ đó tạo nên tính phong phú đa dạng của tiến trình lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người cũng như của toàn bộ lịch sử nhân loại. Do vậy, tiến trình phát triển của lịch sử không bao giờ là con đường thẳng, trái lại nó có thể phải trải qua những bước thăng trầm với những con đường vòng, thậm chí phải trải qua những bước khủng hoảng và thụt lùi tạm thời trên con đường phát triển của nó. Đó là biện chứng của lịch sử. Hay nói như C.Mác “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.

IV. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG

Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ những lý thuyết không tưởng trở thành một lý luận khoa học. Qúa trình thâm nhập lý luận khoa học đó vào đời sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực: từ một nước đến nhiều nước và trở thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh trên phạm vi quốc tế ở thế kỷ XX với nhiều thành tựu vĩ đại, in đậm dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.

Thế nhưng, vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, đã tiến hành cải cách, mở cửu, đổi mới và tiếp tục phát triển. Thực tế lịch sử đó đã đặt ra một vấn đề lớn về tương lai của chủ nghĩa xã hội. Lời giải đáp chân chính cho câu hỏi này chỉ có thể có được trên cơ sở nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào việc phân tích bối cảnh cụ thể của thời đại ngày nay.

1. Chủ nghĩa xã hội hiện thực

a) Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới

* Cách mạng Tháng Mười Nga (1917)

Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo quần chúng nhân dân khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền xây dựng nhà nước xô viết đầu tiên trên thế giới.

Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng xã hội mới không có người bóc lột người. Sau cuộc cách mạng Tháng Mười thì chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành thực tiễn, lịch sử phát triển của xã hội loài người xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội mới đối lập với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi thế giới.



* Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới

Ngày 25 tháng 10 năm 1917 (theo lịch Julius), tức ngày 7 tháng 11 theo lịch Gregory, Lênin và các đảng viên Bolshevik lãnh đạo các Xô viết làm Cách mạng tháng Mười lập chính quyền Xô viết của công, nông, binh. Chính quyền lập tức ban hành sắc lệnh về hòa bình, sắc lệnh về ruộng đất và ra khỏi chiến tranh với các điều kiện rất ngặt nghèo của phía Đức.

Ngay sau Cách mạng tháng Mười, nước Nga rơi vào thời kỳ nội chiến cực kỳ đẫm máu (1918-1922). Phía cách mạng là công nhân, binh sỹ cách mạng và một bộ phận nông dân, bên kia là các lực lượng phản cách mạng gồm bảo hoàng, thành phần trí thức, trung lưu thành thị, sỹ quan, một bộ phận nông dân, người Cô Dắc... Phe phản cách mạng còn nhận được sự giúp đỡ của các quốc gia châu Âu. Đặc trưng của cuộc nội chiến là tính ác liệt không khoan nhượng. Đến cuối năm 1920 về cơ bản các lực lượng phản cách mạng đã thất bại, chính quyền Xô viết được thành lập trên toàn lãnh thổ còn lại của Đế quốc Nga.

Ngay sau nội chiến kết thúc, nền kinh tế Liên Xô đứng trước nguy cơ phá sản: ở nông thôn, nạn đói hoành hành, cướp bóc thổ phỉ nổi lên khắp nơi, hàng đoàn dân chết đói chạy vào thành phố ăn xin; còn ở thành phố, công nghiệp đình đốn, thất nghiệp cực điểm, tiền không còn giá trị, nguyên liệu, tài chính cạn kiệt – và tình hình xã hội lúc đó cực kỳ căng thẳng. Đứng trước tình hình đó, V.I.Lênin cho tiến hành chính sách kinh tế mới, hay NEP, để thay thế cho chính sách cộng sản thời chiến đã được áp dụng trong nội chiến. NEP là chính sách dùng cơ chế kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, kêu gọi đầu tư tư bản dưới sự định hướng kiểm soát của nhà nước. Đối với nông nghiệp, thay vì trưng thu mọi nông sản của nông dân như trong thời chiến, NEP dùng cơ chế thuế để điều tiết, nông dân sau khi làm nghĩa vụ thuế có thể mua bán nông sản trên thị trường tự do. Tại thành phố chính sách mới khuyến khích đầu tư của tư bản trong nước và nước ngoài, nhà nước chỉ kiểm soát những ngành quan trọng sống còn với quốc gia. NEP của Lenin đã nhanh chóng cho kết quả rất tốt: nạn đói nhanh chóng bị đẩy lùi, công nghiệp, thương mại được phục hồi, tình hình nông thôn và thành thị được ổn định, xã hội có tích luỹ và đời sống người dân tốt lên nhanh chóng.

Sau khi V.I.Lênin qua đời, đường lối và những chính sách của Người đã không được quá triệt và thực hiện một cách đầy đủ. Trong những năm 30 và nữa đầu những năm 40 của thế kỷ XX Liên Xô lại trở thành trung tâm chống phá của các nước đế quốc, không chỉ vậy, Hồng quân Liên Xô cũng chính là lực lượng chủ yếu nhất trong Thế chiến II. Trước những bối cảnh ngặt nghèo như vậy nhưng Liên Xô vẫn đạt được những thành công rực rỡ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trong vòng hơn 20 năm (1924 – 1941) Liên Xô đã tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hoá để đưa đất nước từ một nước đứng ở vị trí thứ 6 về kinh tế (trước Cách mạng Tháng Mười), vươn lên trở thành một siêu cường quốc cả về kinh tế lẫn quân sự, trở thành đối trọng với Mỹ trên nhiều lĩnh vực.


Каталог: dspace -> bitstream -> 123456789
123456789 -> XÁC ĐỊnh cơ CẤu cây trồng và thời vụ HỢp lý cho các vùng thưỜng xuyên bị ngập lụt tại huyện cát tiên tỉnh lâM ĐỒNG
123456789 -> THÔng 3 LÁ LÂM ĐỒNG
123456789 -> CHƯƠng I: giới thiệu môn học và HẠch toán thu nhập quốc dân kinh tế vĩ mô là gì?
123456789 -> Bài 1: XÁC ĐỊnh hàm lưỢng oxy hòa tan (DO)
123456789 -> HỌc phầN: VẬt lý ĐẠi cưƠng dành cho sinh viên bậc cao đẲng khối ngành kỹ thuậT
123456789 -> BỘ CÔng thưƠng trưỜng cao đẲng công nghiệp tuy hòA
123456789 -> Chương 1: ĐẠi cưƠng về hoá học hữu cơ Hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ
123456789 -> CHƯƠng 1 những khái niệm chung vài nét về lịch sử Thời kỳ thứ nhất

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương