NHẬp môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa mác-lênin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa mác-lênin


II. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA



tải về 1.61 Mb.
trang16/17
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.61 Mb.
#25175
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

II. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

a) Khái niệm văn hóa, nền văn hóa

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Văn hóa là biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

Khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác-Lênin đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Với ý nghĩa như vậy, theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần:

Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất.

Theo nghĩa hẹp, văn hoá được hiểu chủ yếu là văn hoá tình thần.



Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạtn động tinh thần của con người.

Như vậy, nói tới văn hoá là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do vậy, văn hoá có mặt trong mọi hoạt động của con người, du đó là hoạt động trên lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, hay trong tư tưởng, tinh thần...

Văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác nhau, đặc biệt là của giai cấp thống trị là yếu tố quyết định hình thành các nền văn hóa khác nhau.

Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa.

Kinh tế là cơ sở của nền văn hóa còn chính trị là yếu tố quy dịnh khuynh hướng phát triển của nó, tạo nên ý thức hệ của nền văn hóa. Chính vì vậy, một nền chính trị lạc hậu tất yếu sẽ không tạo ra một nền văn hoá tiến bộ. Do đó, nền văn hoá của bất cứ thời kỳ nào của lịch sử cũng đồng thời có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới.

Trong xã hội có giai cấp và quan hệ giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử đều in dấu ấn của mình trong lịch sử phát triển của văn hoá và tạo ra nền văn hoá của xã hội đó, tạo ra những giai đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển văn hoá.



b) Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Sự ra đời của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử, là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa hình thành.

Chủ nghĩa xã hội được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị (giai cấp công nhân và nhân dân lao động dành được chính quyền) và tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập), đó cũng chính là những tiền đề hình thành nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Vậy, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là gì? Nền văn hóa xã hội củ nghĩa là nền văn hoá được xây dựng và phát triển tren nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đưa nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.



c) Đặc trưng của nền văn hóa Xã hội chủ nghĩa.

Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau đây:



Thứ nhất, chủ nghĩa Mác Lênin giữ vai trò chủ đạo và là nền tảng tư tưởng, quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa .

Thứ hai, là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc thể hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng xã hội mới và nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng Cộng sản, có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa không hình thành một cách tự phát. Trái lại, nó phải được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhân vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước đối với tinh thần của xã hội, đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đều nhất định sẽ làm cho đời sống văn hoá tinh thần của xã hội phát triển lệch lạc, mất phương hướng.



2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để toàn diện do đó đòi hỏi phải thay đổi phương thức sản xuất tinh thân để phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội chủ nghĩa .

Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức lạc hậu của xã hội cũ., đưa quần chúng nhân dân trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa tinh thần.

Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa, tạo điều kiện để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của nhân dân.

Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu xuất phát từ yêu cầu khách quan: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

3. Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

a) Nội dung cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Một là, nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của quần chúng nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa do vậy con người cần phải được chuẩn bị tốt về tinh thần, trí lực, tư tưởng...do đó nâng cao dân trí là nhu cầu cấp bách và lâu dài. Nâng cao dân trí phải gắn liền với sự nghiệp giáo dục đào tạo, bồi dưỡng để hình thành đội ngũ trí thức mới, có tri thức hiện đại, mang bản sắc văn hóa dân tộc.

Hai là, xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Con người là sản phẩm của xã hội và tạo nên xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải xây dựng con người mới, đó là yêu cầu khách quan. Con người mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng là con người phát triển toàn diện, có tinh thần và năng lực xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, có tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế trong sáng, có lối sống tình nghĩa và có tính cộng đồng cao.

Ba là, xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Lối sống là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác nhau; là tổng thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất, tinh thần và xã hội của con người. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được hình thành trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng xã hội, mở rộng dân chủ.

Bốn là xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa. Gia đình là một hình thức cộng động đặc biệt, ở đó con người chung sống với nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.

Gia đình là một hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa-xã hội đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên.

Xã hội loài người đã trải qua các hình thức: gia đình huyết tộc, gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ, một chồng. Bởi vậy, xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa cần chú ý các vấn đề sau:

- Xây dựng cơ sở kinh tế xã hội của gia đình.

- Cách mạng tư tưởng văn hóa có tác động trực tiếp đến việc xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa .

- Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong thời kỳ quá độ, các yếu tố cũ và mới của gia đình tồn tại đan xen vào nhau nên gia đình chịu nhiều yếu tố chi phối từ tâm tư, tình cảm, tâm lý của nhiều giai cấp khác nhau trong xã hội vì vậy gia đình cũng có vai trò không giống nhau đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng phát triển trên cơ sở giữ gìn phát huy giá trị tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ tàn tích của ché độ hôn nhân và gia đình phong kiến, đồng thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại về gia đình.

- Trong xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa phải chú trọng cả viẹc xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội. Tạo quan hệ yêu thương, gắn bó, bình đẳng, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau.



b) Phương thức xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa

Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội.

Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của nhà nước Xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa.

Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại.

Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động sáng tạo văn hóa.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động chính là chủ thể sáng tạo và cũng là những người hưởng thụ những thành tựu của văn hoá. Chính vì vậy, để phát huy hết tính sáng tạo của quần chúng nhân dân Đảng và Nhà nước cần phải tổ chức thực hiện nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động sáng tạo văn hoá.



III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO

1. Vấn đề dân tộc và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc

a) Khái niệm dân tộc

Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định được hình thành trong lịch sử; là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.

Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất :

Thứ nhất, dân tộc là cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó. (tộc người)

Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. (quốc gia - dân tộc)

b) Hai xu hướng phát triển của dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc như sau:



Xu hướng thứ nhất: Khi mà các tộc người, cộng đồng dân cư có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, thì các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Trên thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.

Xu hướng thứ hai: Sự liên hiệp lại của các dân tộc trong một quốc gia, các dân tộc của nhiều quốc gia nhằm mở rộng, tăng cường quan hệ kinh tế, phá bỏ ngăn cách về kinh tế giữa các dân tộc.

Hai xu thế này vận động trong một thể thống nhất, mỗi nước vừa có nhu cầu độc lập, tự chủ… nhưng đồng thời vừa phải mở rộng quan hệ với bên ngoài, hoà nhập với cộng đồng quốc tế và ngày càng xích lại gần nhau trên các lĩnh vực. Đây là hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và ngày nay nó đang có những biểu hiện rất phong phú và đa dạng.



Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi đến sự tự chủ và phồn vinh cua bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hoà hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia trên cơ sở hợp tác bình đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng và hữu nghị.



Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật. Trong thời đại ngày nay, các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy đấu tranh xoá bỏ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc để giành lấy quyền quyết định vận mệnh của dân tộc mình, đó là quyền tự lựa chọn chế độ chính trị, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại - mục tiêu độc lập dân tộc.

Thời đại ngày nay các dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau thành những liên minh trên cơ sở lợi ích chung nhất định của các dân tộc. Hơn nữa sự liên minh đó còn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhằm tập trung giải quyết những vấn đề chung của cả nhân loại như: phòng, chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường sinh thái, dịch bệnh, v.v…



c) Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc

Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản do đó giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài của dân tộc.

Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, và từ thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản. Nội dung của Cương lĩnh gồm:

1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

Quyền bình đẳng dân tộc là bảo đảm cho mọi dân tộc dù đông người hay ít người, dù có trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế.

Để thực hiện tốt quyền bình đẳng dân tộc đòi hỏi chúng ta phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phát xít mới.

2. Các dân tộc được quyền tự quyết. Đây là quyền cơ bản thiêng liêng của mọi dân tộc.

Quyền tự quyết dân tộc trước hết là quyền tự quyết về chính trị, tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển cho dân tộc mình, thực hiện quyền làm chủ vận mệnh dân tộc mình mà không một dân tộc nào được quyền dùng áp lực can thiệp vào công việc nội bộ của dân tộc khác.

Quyền tự quyết dân tộc bao gồm: quyền tự do phân lập và quyền các dân tộc tự nguyện liên hiệp lại thành một liên bang các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, giúp nhau cùng tiến bộ. Do đó, khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân.

3. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp

Những người cộng sản lấy đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn đấu trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

2. Tôn giáo và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo

Tôn giáo trong hình thức đã phát triển là một hiện tượng xã hội bao gồm: Lễ nghi tôn giáo, tổ chức tôn giáo và ý thức tôn giáo. Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng tôn giáo chủ yếu dưới góc độ chính trị - xã hội, trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác-Lênin. Nếu như triết học Mác-Lênin nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo với tư cách là một loại hình ý thức xã hội nói chung thì chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo như một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân trong xã hội, có quan hệ đến nhiều lĩnh vực khác, trước hết là lĩnh vực chính trị, tư tưởng và đời sống văn hóa tinh thần.



a) Khái niệm tôn giáo

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.

Nói đến tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, trước hết và căn bản nhất là nói đến ý thức tôn giáo. Ý thức tôn giáo đó là những quan điểm, tư tưởng tôn giáo, những tín điều tôn giáo và tâm lý tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là những tình cảm, niềm tin tôn giáo, tập quán tôn giáo và những biểu tượng hoang đường của quần chúng có tín ngưỡng. Những tư tưởng, quan điểm được các nhà thần học đề xướng và phát triển thông qua giáo lý, trong đó thế giới quan tôn giáo được diễn đạt theo quan điểm của các giai cấp nhất định. Nó mang tính chất một hệ tư tưởng, có tác dụng chỉ đạo, cũng cố, phát triển tâm lý tôn giáo. Ngược lại tâm lý tôn giáo là điều kiện cho tư tưởng, giáo lý thâm nhập vào quần chúng.

Ý thức tôn giáo thuộc thế giới quan duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm triết học và chủ nghĩa duy tâm tôn giáo giống nhau về nguyên tắc: đều coi thực thể tinh thần nào đó là cái có trước và quyết định vật chất nhưng nó lại khác nhau về hình thức, tính chất và trình độ phản ánh hiện thực.

Ở những giai đoạn nhất định của lịch sử những tôn giáo mới ra đời như những hình thức đặc thù cùng với triết học, nghệ thuật, … biểu hiện trình độ phát triển của ý thức xã hội. Và cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo cũng mang bản chất riêng của mình:

- Mặt tiêu cực : tôn giáo nó là một hiện tượng xã hội (là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội nhất định) phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. Tôn giáo nó phản ánh một cách hoang đường, hư ảo cái hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người, nó giải thích thế giới bằng niềm tin (niềm tin là cái không thể giải thích và không cần giải thích) mà không dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn nên nó không đưa lại cho con người những nhận thức đúng đắn về hiện thực khách quan. Sự phản ánh bế tắc, hư ảo của tôn giáo phần nào hạn chế khả năng lao động sáng tạo của con người.

- Mặt tích cực: Tôn giáo thể hiện nguyện vọng và con đường thực hiện giải phóng quần chúng (giải phóng về mặt tinh thần - đời sống tinh thần). Tôn giáo nó còn chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân đạo, hướng thiện, nó đáp ứng một phần nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần, đời sống tâm linh của một bộ phận nhân dân, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa của dân tộc và nhân dân.



b) Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

Có thể nói, tôn giáo còn tồn tại lâu dài, cả trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu như tôn giáo không mất đi bằng con đường “tự tiêu vong” thì cũng không thể xóa bỏ tôn giáo bằng các sắc lệnh hay bằng biện pháp bạo lực.

Các tôn giáo vẫn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội chủ nghĩa là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây.

Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã hội chủ nghĩa trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được.

Những sức mạnh tự phát của thiên nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đến đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức con người trong xã hội, trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa. Tôn giáo đã trở thành tinh thần của thế giới không có tinh thần.



Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử xã hội loài người. Tín ngưỡng tôn giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống.

Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là một hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất.



Nguyên nhân chính trị - xã hội: Những giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội tôn giáo cũng có khả năng biến đổi để thích nghi theo xu hướng “đồng hành với dân tộc” sống “tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”.

Đấu tranh giai cấp đã và đang diễn ra vô cùng phức tạp, các thế lực chính trị lợi dụng tôn giáo phục vụ mưu đồ chính trị của mình; chiến tranh cục bộ; xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, ... nổi lo sợ chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi để tôn giáo tồn tại.

Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và nhiều giai tầng xã hội với lợi ích khác nhau, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.

Nguyên nhân về văn hóa: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống.

Tín ngưỡng tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, do đó sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội khách quan.



Như vậy, từ những nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu trên chúng ta có thể khẳng định rằng:

- Nhà nước xã hội chủ nghĩa không sử dụng tôn giáo như là công cụ thống trị về mặt tinh thần để thống trị nhân dân; không dùng tôn giáo để củng cố địa vị thống trị của giai cấp công nhân.

- Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là sinh hoạt tinh thần của một bộ phận dân cư được Nhà nước tôn trọng.

- Đồng bào có đạo, không có đạo bình đẳng trước pháp luật.

- Những người có chức sắc không còn có đặc quyền về kinh tế- xã hội, họ được đào tạo để chăm lo cho công tác của đạo....

Cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội. Quần chúng nhân dân có đạo đã thực sự trở thành chủi thể của xã hội, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao. Trên cơ sở đó họ dần được giải thoát khỏi tình trạng mê tín dị đoan, ngày càng có đời sống tinh thần lành mạnh. Các tổ chức tôn giáo không còn là công cụ để các các thế lực mưu toan lợi dụng mà ngày càng hướng vào chăm lo việc đạo, tham gia tích cực vào công tác từ thiện, công tác xã hội; xung đột tôn giáo không còn. Đông đảo quần chúng nhân dân có tôn giáo ngày càng có điều kiện tham gia đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa được khơi dậy, tạo nên sức mạnh cùng toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.



c) Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.

Cùng với vấn đề dân tộc thì tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và đang có những diễn biến phúc tạp. Vì việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ và chuẩn xác; vừa đòi hỏi phải giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt đúng như tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng là: Không “tuyên chiến” với tôn giáo mà tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.

Giải quyết vấn đề tôn giáo trong qua trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những quan điểm sau:

Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tại xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Khắc phục những tiêu cực trước hết chúng ta phải không ngừng phát triển khoa học – công nghệ. Trang bị thế giới quan của chủ nghĩa vô thần khoa học cho nhân dân. Nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho nhân dân …

Phải khắc phục những tiêu cực của tôn giáo bởi vì chủ nghĩa Mác-Lê nin (tư tưởng chủ đạo của chủ nghĩa xã hội) và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.

Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi công dân theo tôn giáo hay không theo tôn giáo nào đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.

Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp chân chính (tôn giáo hợp pháp và chân chính là những tôn giáo có tổ chức giáo hội được Đảng và Nhà nước ta thừa nhận, và nằm trong khối đại đoàn kết dân tộc), đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.

Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.

Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tôn giáo, khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng.

Mặt chính trị thể hiện sự lợi dựng tôn giáo để chống lại sự đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo.

Năm là, phải có quan diểm lịch sử cụ thể trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không như nhau. Quan điểm của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo./..


Каталог: dspace -> bitstream -> 123456789
123456789 -> XÁC ĐỊnh cơ CẤu cây trồng và thời vụ HỢp lý cho các vùng thưỜng xuyên bị ngập lụt tại huyện cát tiên tỉnh lâM ĐỒNG
123456789 -> THÔng 3 LÁ LÂM ĐỒNG
123456789 -> CHƯƠng I: giới thiệu môn học và HẠch toán thu nhập quốc dân kinh tế vĩ mô là gì?
123456789 -> Bài 1: XÁC ĐỊnh hàm lưỢng oxy hòa tan (DO)
123456789 -> HỌc phầN: VẬt lý ĐẠi cưƠng dành cho sinh viên bậc cao đẲng khối ngành kỹ thuậT
123456789 -> BỘ CÔng thưƠng trưỜng cao đẲng công nghiệp tuy hòA
123456789 -> Chương 1: ĐẠi cưƠng về hoá học hữu cơ Hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ
123456789 -> CHƯƠng 1 những khái niệm chung vài nét về lịch sử Thời kỳ thứ nhất

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương