NHẬp môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa mác-lênin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa mác-lênin


- Phương pháp luận triết học là gì?



tải về 1.61 Mb.
trang4/17
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.61 Mb.
#25175
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

- Phương pháp luận triết học là gì? Phương pháp luận triết học là cấp độ lý luận cao nhất của phương pháp. Nó thiết lập nên các nguyên tắc chung nhất của nhận thức và hoạt động thực tiễn, từ đó định ra các phương pháp phổ biến đặc trưng cho triết học.

- Phép biện chứng duy vật là gì?

F.Engels cho rằng. “Phép biện chứng ... là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” (Toàn tập, tập 20, tr.201)

Phép biện chứng duy vật là một hệ thống các nguyên lý, nguyên tắc, quy luật và phạm trù: một mặt giải thích thế giới như một chỉnh thể, mặt khác định hướng cho sự phát triển của khoa học chuyên ngành và hoạt động thực tiễn của con người. Nó là một chỉnh thể các hình thức logíc với các yếu tố có chức năng nhất định liên hệ qua lại với thực tiễn; đồng thời nó cũng là một hệ thống mở, đang phát triển.

- Mối quan hệ giữa lý luận và phương pháp trong phép biện chứng duy vật.

Giữa lý luận và phương pháp có mối liên hệ hưu cơ với nhau thể hiện ở chỗ: các nội dung lý luận xác định yêu cầu, những nguyên tắc của phương pháp; còn phương pháp lại đảm bảo thu được những kết quả lý luận tương ứng, xây dựng lý luận có khả năng thâm nhập vào bản chất của đối tượng được nghiên cứu. Nhưng lý luận và phương pháp cũng không hoà vào nhau, mà là những hình thức tương đối.

b. Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật

Xét từ góc độ kết cấu nội dung, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau đây:

- Thứ nhất, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.

- Thứ hai, trong phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện chứng duy vật), do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.

“Các nhà triết học giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song điều quan trọng là cải tạo thế giới”.

II. CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

a. Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến

Thế giới là một chỉnh thể thống nhất, các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.



- Khái niệm mối liên hệ: Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới.

Liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng, quy định lẫn nhau, tác động, chuyển hóa lẫn nhau ... giữa các mặt bên trong sự vật hoặc giữa các sự vật khác nhau.



- Khái niệm mối liên hệ phổ biến: là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới mà ở đó các sự vật, hiện tượng hoặc các mặt bên trong sự vật có mối liên hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng, quy định lẫn nhau, tác động, chuyển hóa lẫn nhau

b. Tính chất của các mối liên hệ

Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người. Chẳng hạn, G.W.F. Hegel đứng trên lập trường duy tâm khách quan đã cho rằng, “ý niệm tuyệt đối là nền tảng của mối liên hệ còn George Berkeley người theo lập trường duy tâm chủ quan cho rằng, “cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng”.

Trái lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, tính chất của mối liên hệ phổ biến bao gồm: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng.

- Tính khách quan của mối liên hệ

Mối liên hệ mang tính khách quan. Bởi, các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới đa dạng, phong phú, khác nhau. Song chúng đều là những dạng vật thể của thế giới vật chất. Và chính tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ. Nhờ có tính thống nhất đó, các sự vật, hiện tượng, không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau.

Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động của chúng với các sự vật, hiện tượng khác.

­- Tính phổ biến của các mối liên hệ:

+ Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nằm ngoài mối liên hệ. Mối liên hệ cũng có ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy.

+ Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, tuỳ theo điều kiện nhất định. Nhưng dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.

- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ

Có rất nhiều loại liên hệ khác nhau:

+ Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài;

+ Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp;

+ Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu;

+ Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản;

+ Mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung, mối liên hệ phổ biến...

Chính tính đa dạng trong quá trình vận động, tồn tại và phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy, trong sự vật có nhiều mối liên hệ, chứ không phải có một cặp mối liên hệ.

Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật.

Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, mối liên hệ này nhìn chung không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật. Và nếu có nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mới thực hiện được.

Ví dụ: Sự lĩnh hội tri thức của người học trước hết và chủ yếu được quyết định bởi chính người đó (nghệ thuật, truyền thụ tri thức...) dù có tốt, có đầy đủ mà người học không chịu học, không chịu tiếp nhận thì tri thức cũng không thể tự nó có được trong đầu óc người đó.

Các cặp mối liên hệ khác nhau cũng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Đương nhiên mỗi cặp liên hệ có đặc trưng riêng. Tuy nhiên, vai trò quyết định của các mối liên hệ trong từng cặp phụ thuộc vào quan hệ hiện thực xác định.

Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, vì mỗi loại liên hệ chỉ có một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ hổ biến. Mỗi loại liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự vật.

Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có các tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.



d. Ý nghĩa phương pháp luận

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện.

- Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng với tất cả các mặt, các mối liên hệ; đồng thời phải đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ; nắm được mối liên hệ chủ yếu có vai trò quyết định.

- Quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ các mối liên hệ của sự vật, nắm được bản chất bên trong, trực tiếp, đồng thời phải nhận thức được không gian, thời gian, điều kiện cụ thể của sự tồn tại và xuất hiện các mối liên hệ, trên cơ sở đó mới nắm bắt được xu hướng biến đổi của các sự vật, hiện tượng.

- Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiếm diện. Quan điểm phiếm diện là cách xem xét từng mặt, từng mối liên hệ tách rời nhau, không thấy được mối liên hệ nhiều vẻ, đa dạng của sự vật.

2. Nguyên lý về sự phát triển

a. Khái niệm “Vận động”“phát triển”

* Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu.

Nói cách khác, vận động là biến đổi nói chung, bao gồm hai khuynh hướng:

- Sự vật, hiện tượng cụ thể đều có bước khởi đầu và sự diệt vong.

- Xem xét trong tính hệ thống, thì đó là sự kế thừa ngày càng hoàn thiện hơn và có tính hệ thống hơn.



* Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.

Như vậy, phát triển không phải là bản thân sự vận động, phát triển chỉ là khuynh hướng tất yếu của vận động, phát triển nó chỉ khái quát những sự vận động đi lên, đó là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ, về kết cấu phức tạo của sự vật và do đó làm nảy sinh tính quy định cao hơn về chất.

Nói cách khách phát triển là quá trình làm xuất hiện cái mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc hậu.



b. Nội dung của nguyên lý phát triển

- Phép biện chứng duy vật khẳng định, đổi mới là quá trình diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.

+ Trong giới hữu sinh sự phát triển biểu hiện ở khả năng tăng cường thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng sản sinh và hoàn thiện chính mình, ở khả năng hoàn thiện về quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.

+ Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức, cải biến tự nhiên và xã hội theo quy luật thông qua hoạt động thực tiễn của con người....

+ Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn về tự nhiên, xã hội và nhận thức chính bản thân con người.

- Phép biện chứng duy vật khẳng định, phát triển là khuynh hướng chung của các sự vật hiện tượng nhưng không diễn ra một cách trực tiếp mà nó quanh co, phức tạp theo hình “xoáy ốc”, trong đó có thể có những bước thụt lùi tương đối.

- Ngược lại, quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi tương đối, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật. Những người theo quan điểm siêu hình còn coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên hoặc nếu có thay đổi nhất định về chất thì cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín. Họ cũng coi sự phát triển cũng chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Như vậy, sự phát triển được xem như một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước thụt lùi, quanh co, phức tạp.

- Về nguồn gốc của sự phát triển, theo quan điểm duy tâm là từ những lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người. Hegel cho rằng, sự phát tiển của giới tự nhiên, của xã hội đều đã được thiết định trước từ sự vận động của ý niệm tuyệt đối.

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, từ cấu trúc của sự vật, do mâu thuẫn bên trong của sự vật quy định. Do đó, phát triển là tự thân phát triển, là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật. Phát triển là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, đồng thời kế thừa những giá trị của cái cũ, tạo ra vòng khâu liên hệ giữa cái cũ và cái mới, tạo ra khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc, nghĩa là, trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên mộ cơ sở cao hơn.

c. Tính chất cơ bản của sự phát triển

- Sự phát triển mang thính khách quan. Bởi vì, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Sự phát triển như vậy không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức của con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn luôn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất.

- Sư phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến ở đây được hiểu là nó diễn ra trong mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy. Ở bất cứ sự vật và hiện tượng nào của thế giới khách quan.

- Sự phát triển còn mang tính đa dạng, phong phú: khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển khác nhau, tồn tại ở không gian và thời gian khác nhau, sự phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của các điều kiện có thể thúc đẩy hoặc kìm hảm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm sự vật thụt lùi.



d. Ý nghĩa phương pháp luận

Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta rút ra được phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.

- Giới tự nhiên, xã hội và tư duy đều trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Bản chất khách quan của các quá trình hiện thực đòi hỏi nhận thức muốn phản ánh đúng hiện thực khách quan thì cần phải có quan điểm phát triển.

- Quan điểm phát triển yêu cầu khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.

- Quan điểm phát triển đối lập với quan điểm bảo thủ, trì truệ, việc tuyệt đối hoá tri thức là kết quả của sự nhận thức về sự vật trong một hoàn cảnh cụ thể và xem xét nó như là tri thức đúng cho cả quá trình phát triển của sự vật..

- Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nhận thức các sự vật, hiện tượng trong thực tế, và xem đó là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó, hoạt động thực tiễn là quá trình tìm ra mâu thuẫn, phân tích mâu tuẫn và tìm ra giải pháp để giải quyết mâu thuẫn. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển. V.I.Lênin cho rằng, để có tri thức đúng về sự vật “bản thân sự vật phải được xem xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó”. Điều này còn có ý nghĩa là, trong các hoạt động của con người chúng ta cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi khi nhận thức và tác động vào sự vật phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.

- Quan điểm phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhìn thấy khuynh hướng biến đổi trong tương lai của chúng: cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẻ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Phải có thái độ lạc quan tin tưởng ở sự tất thắng của cái mới, cái tiến bộ.

III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

- Định nghĩa khái niệm:



Khái niệm là hình thức tư duy phản ánh những mặt, những thuộc tính quan trọng nhất của một lớp sự vật, hiện tượng nhất định.

Tuỳ thuộc vào số lượng của sự vật, hiện tượng được khái niệm phản ánh mà ta có các khái niệm rộng hẹp khác nhau.



Định nghĩa phạm trù:

Khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định được gọi là phạm trù.

Mỗi một môn khoa học riêng đều có phạm trù riêng của mình.



Ví dụ: các phạm trù năng lượng, khối lượng, sóng, hạt, điện từ, từ trường... trong vật lý học; biến dị - di truyền, đồng hoá - dị hoá... trong sinh học; hàng hoá, giá trị... trong kinh tế học v.v...

Khác với các phạm trù trên đây các phạm trù của phép biện chứng duy vật như: vật chất, ý thức, lượng, chất, mâu thuẫn, nguyên nhân, kết quả, tất nhiên, ngẫu nhiên.... là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực (tự nhiên, xã hội và tư duy).

* Lý luận về phạm trù có ngay từ thời cổ đại, nhưng các trường phái triết học khác nhau đã giải đáp vấn đề bản chất của phạm trù theo những cách khác nhau:

- Những người của phái duy thực coi phạm trù là những bản chất của ý niệm, tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người. Ngược, lại những người theo trường phái duy danh lại coi phạm trù chỉ là những từ trống rỗng, không thể hiện một cái gì cả.

- Imanuel Kant và những người thuộc phái của ông lại coi phạm trù là sự phản ánh những mặt nào đó của hiện thực, mà những hình thức nhận biết tồn tại vốn có sẵn của tư duy con người, có trước mọi kinh nghiệm và không phụ thuộc vào kinh nghiệm, được lý trí của con người đưa vào giới tự nhiên.

- Ngược lại với những quan điểm trên đây, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng:

+ Các phạm trù được hình thành trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn. Mỗi phạm trù là kết quả của giai đoạn nhận thức trước đó, đồng thời là điểm tựa của giai đoạn nhận thức kế tiếp của con người trong quá trình đi sâu vào tìm hiểu bản chất của sự vật. Vì vậy, V.I.Lênin cho rằng, các phạm trù là bậc thang của quá trình nhận thức.

+ Là kết quả của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn, các phạm trù phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ tương ứng vốn có sẵn trong bản thân hiện thực. Vì vậy, nội dung của chúng mang tính khách quan, bị thế giới khách quan quy định, mặt dù hình thức tồn tại của chúng là chủ quan. Do đó, các phạm trù chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

+ Vì là những hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, mà bản thân thế giới khách quan lại ở trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng; mặt khác, sự nhận thức của con người về thế giới đó ngày càng trở nên sâu sắc hơn cho nên, các phạm trù phản ánh chúng cũng phát triển theo và hệ thống các phạm trù của triết học cũng ngày càng được bổ sung bằng những phạm trù mới hơn.

1. Cái chung và cái riêng

a. Phạm trù cái chung và cái riêng; cái đơn nhất

* Định nghĩa cái riêng

Trong Bút ký triêt học V.I.Lênin đã nhận xét rằng, “bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hoá mà liên hệ với cái riêng thuộc loại khác” (sự vật, hiện tượng, quá trình).



Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiệng tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.

Ví dụ: + 2 bông hoa hồng của cùng một cây cũng khác nhau về số lượng cánh, chiều dài cánh hoa, vị trí tương quan giữa các cánh hoa, màu sắc...

+ 2 người cùng giới, thậm chí là song sinh cũng có những khác nhau về một loạt tham số: trọng lượng, màu da, chiều cao, tính cách....

Tất cả những điểm khác nhau đó gọi là cái riêng của một sự vật hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.

* Định nghĩa cái chung

­­Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.

Ví dụ: + Nguyên tử của bất cứ nguyên tố hoá học nào cũng có nhân ở giữa và các điện tử quay xung quanh nhân. Nhân nguyên tử của mọi nguyên tố hó học đều được tạo bởi 2 loại hat: nơtron và proton.

+ Tất cả giới sinh vật (từ sinh vật có 1 tế bào (đơn bào) đến thực vật, động vật và cả con người) đều tòn tại quá trình đồng hoá và dị hoá, đây là đặc trưng của sự sống.



* Định nghĩa cái đơn nhất

Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định nào đó và không được lặp lại ở bất kỳ một kết cấu vật chất nào khác.

Ví dụ: Vân tay, tính cách của mỗi con người không ai giống ai....

* Định nghĩa cái đặc thù

­ Cái đặc thù là phạm trù dùng để chỉ những thuộc tính, những đặc điểm, những bộ phận giống nhau tồn tại ở một số sự vật, hiện tượng (không tồn tại ở tất cả các sự vật hiện tượng).

Ví dụ: lao động, tư duy là những cái vốn chỉ tồn tại ở con người (động vật cấp cao) chứ nó không tồn tại ở các loài sinh vật khác.

* Định nghĩa cái phổ biến

Cái phổ biến không chỉ nói lên tính chất của bản chất mà còn nói lên cái không có tính chất bản chất và tồn tại ở rất nhiều sự vật hiện tượng.

Ví dụ: Trong đào tạo theo tín chỉ sinh viên bỏ giờ rất nhiều và kết quả học tập của nhiều sv không cao. Đây là tình trạng chung – “cái chung” nhưng nó lại không mang tính chất bản chất (phổ biến) của sinh viên.

b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất

Vấn đề mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng là một trong những vấn đề quan trọng nhất, khó khăn nhất của triết học nói riêng của sự nhận thức nhân loại nói chung. Trong quá trình tìm lời giải cho vấn đề này, trong lịch sử triết học đã hình thành hai phái rõ rệt đó là: phái duy thực và duy danh.

- Phái duy thực cho rằng, cái chung tồn tại độc lập không phụ thuộc vào cái riêng còn cái riêng hoặc không tồn tại, hoặc nếu có tồn tại cũng là do cái chung nảy sinh ra và chỉ là tạm thời trong một thời gian nhất định rồi sau đó mất đi, trong khi đó cái chung tồn tại vĩnh viễn, không trải qua một biến đổi nào cả.

- Phái duy danh lại phát triển một quan điểm ngược lại. Họ cho rằng, cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung chỉ là những tên gọi do lý trí đặt ra chứ không phản ánh một cái gì trong hiện thực.

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại và khẳng định:

+ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình. Điều này có nghĩa là không có cái chung trừu tượng, thuần tuý tồn tại độc lập ở bên ngoài cái riêng.



Ví dụ: Chúng ta sẽ không có khái niệm sinh viên nếu không có từng sinh viên cụ thể.

+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ đưa đến cái chung. Điều này có nghĩa là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất cứ một cái riêng nào bao giờ cũng tham gia vào các mối quan hệ, liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật hiện tượng khác xung quanh mình. Không có cái riêng nào là tồn tại vĩnh viễn.

+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ phận nhưng là cái sâu sắc hơn cái riêng (ta nói cái chung là bộ phận của cái riêng nhưng đây là bộ phận có tính chất bản chất chứ không phải là bộ phận hợp thành của cái riêng, nó được xác định trong mối quan hệ cụ thể).

+ Trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất, cái chung (phổ biến) có thể chuyển hoá cho nhau. Có điều này là bởi vì, trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc mà lúc đầu nó xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất, cái cá biệt. Nhưng theo quy luật của sự phát triển, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng trở nên hoàn thiện tiến tới hoàn thoàn thắng cái cũ. Ngược lại, cái cũ ngày càng mất đi từ chỗ là cái chung nó biến thành cái đơn nhất.



c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Khẳng định cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình. Phép biện chứng duy vật yêu cầu chhúng ta muốn tìm cái chung, nhận thức cái chung thì phải bắt đầu từ việc nhận thức từng cái riêng cụ thể, để khái quát những đặc điểm chung giống nhau giữa các sự vật, hiện tượng riêng lẻ đó.

- Cái cung là cái bản chất, là cái sâu sắc hơn cho nên trong hoạt động thực tiễn cần phải lấy cái chung làm định hướng cho mọi hoạt động, mặt khác để cho sự vận dụng có hiệu quả tích cực thì cần phải cá biệt hoá cái chung một cách phù hợp cho từng điều kiện cụ thể của từng cái riêng cụ thể.

- Khẳng định tính phong phú của cái tiêng so với cai chung, trong hoạt động thực tiễn cần phải phát huy những đặc điểm riêng của từng cái riêng nhằm tạo nên nhiều lực lượng cho sản xuất phát triển.

- Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn cần phải nhận thức và hành động đầy đủ mối quan hệ gữa cái riêng và cái chung, cần tránh và chống:

+ Chủ nghĩa giáo điều, tả khunynh: vận dụng cái chung một cách máy móc, không có chọn lọc. Ngược lại, xem thường cái riêng, chỉ chú ý đến cái đơn nhất, tuyệt đối hoá cái đơn nhất thì sẽ rơi vào sai lầm của những người hữu khuynh xét lại.

+ Chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi: vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung. Cho nên để giải quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu quả thì không thể lãng tránh được việc giải quyết những vấn đề chung. Những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề đó. Nếu không giải quyết được những vấn đề lý luận chung thì sẽ không tránh khỏi xa vào tình trạng mò mẫm, tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa.



Каталог: dspace -> bitstream -> 123456789
123456789 -> XÁC ĐỊnh cơ CẤu cây trồng và thời vụ HỢp lý cho các vùng thưỜng xuyên bị ngập lụt tại huyện cát tiên tỉnh lâM ĐỒNG
123456789 -> THÔng 3 LÁ LÂM ĐỒNG
123456789 -> CHƯƠng I: giới thiệu môn học và HẠch toán thu nhập quốc dân kinh tế vĩ mô là gì?
123456789 -> Bài 1: XÁC ĐỊnh hàm lưỢng oxy hòa tan (DO)
123456789 -> HỌc phầN: VẬt lý ĐẠi cưƠng dành cho sinh viên bậc cao đẲng khối ngành kỹ thuậT
123456789 -> BỘ CÔng thưƠng trưỜng cao đẲng công nghiệp tuy hòA
123456789 -> Chương 1: ĐẠi cưƠng về hoá học hữu cơ Hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ
123456789 -> CHƯƠng 1 những khái niệm chung vài nét về lịch sử Thời kỳ thứ nhất

tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương