Nguyên Bản: Three Steps One Bow Tập hồi ký của Thích Hằng Cụ & Thích Hằng Do


Ngày 2 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết



tải về 2.46 Mb.
trang8/21
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích2.46 Mb.
#37895
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   21

Ngày 2 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Trời hôm nay thật lạnh và gió nhiều, chúng tôi đang tiến gần đến vùng Trinidad. Khoảng 9 giờ sáng, thấy có chiếc xe chở đầy những người bạn cũ đến trong bất ngờ. Chúng tôi có một bữa tiệc thịnh soạn, chan chứa thật nhiều tình nghĩa. Giáo sư Ron Epstein (Quả Dung), dạy triết học ở trường San Francisco State cũng đến. Ði cùng với ông, gồm vợ chồng Quả Chu, Quả Tải Round và Steve Berman. Anh Steve ngỏ lời mời chúng tôi về nhà nếu mai nầy đi ngang qua vùng Trinidad. Quả Chu Round cũng đã tốt nghiệp trường Harvard như Quả Dung, anh là một trong những người hiếm có, vì anh không những chỉ tin tưởng mà còn áp dụng thực hành theo những đạo lý căn bản Phật giáo nữa. Dù nhà anh cách xa San Francisco, về hướng bắc khoảng bảy mươi lăm dặm, nhưng mỗi tuần đều dành ra một ngày để đến tu viện làm công quả và hành thiền. Sự tu tập của anh cũng bắt đầu có kết quả qua việc sắp phát hành tập truyện dài đầu tay với tựa đề là "Chuyến du hành của Celebrisi" (Celebrisi's Journey). Cuốn sách nầy được xem như là sự thay đổi nhanh chóng của một người đàn ông ở New Jersey, bắt đầu có kinh nghiệm về sự khai tâm. Câu chuyện kể về những cảm xúc của ông trong những chuyến đi mạo hiểm vùng đất Mỹ Châu trong trạng thái hãy còn mê ngủ, dại khờ để tìm kiếm sự dẫn đạo chánh đáng cho tâm linh. Quả Tải, vợ Quả Chu, cũng là một nhà giáo ở trường Berkeley, đã chuẩn bị bữa cơm trưa nóng hổi cho chúng tôi gồm những rau cải do chính tay chị trồng lấy.
Hiện trời đã về đêm, chúng tôi vẫn còn nghỉ lại trên mảnh đất kỳ quặc của ông Robert Alexander.
Ngày 3 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Do viết:
Qua khỏi vùng Trinidad, đại gia đình nhà họ Whittenbergs tìm đến. Sau khi lần lượt tự mình giới thiệu, rồi trao tặng thức ăn và trà cho chúng tôi, họ còn bảo rằng sẽ đi thăm viếng tu viện Kim Sơn ở San Francisco. Chiều tối, anh Steven Berman cùng vợ là Felicia chở chúng tôi về nhà. Anh Steve vừa thổi sáo vừa hát bài ca Phật giáo cổ truyền bằng tiếng Tàu. Bài hát nhắc đến một đệ tử của đức Phật là ngài Mục Kiền Liên, vừa khai thông thiên nhãn, nên có thể nhìn thấu suốt khắp mọi nơi trong vũ trụ. Khi thấy mẹ mình đang bị thiêu đốt dưới địa ngục, Ngài bèn thưa hỏi đức Phật để tìm phương cứu vớt: "Bạch Thế Tôn có bao nhiêu con đường dẫn đến Linh Thứu sơn."
Ðức Phật đáp: "Có cả muôn vạn và nhiều hơn nữa. Hàng muôn vạn. A Di Ðà Phật, A Di Ðà Phật !"
Có đoạn diễn tả thật sâu sắc mà hôm trước tôi định đề cập đến:
Khí hữu trước không, bệnh diệc nhiên
Do như tị nịch nhi đầu hỏa
Xả vọng tâm, thủ chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy.
Nghĩa là:
Bỏ có níu không, thế cũng bệnh,
Khác nào trốn nước sa vào lửa.
Buông vọng tâm, giữ chân lý,
Tâm giữ buông cũng là xảo ngụy.
Ðiểm sai lầm là sự bỏ cái có để dính mắc cái không, cũng giống như tránh né bị chết chìm, nhưng lại nhảy vào lửa. Như có người chối bỏ vọng tâm để cố giữ chân lý, nhưng chính những ý nghĩ về chối bỏ hay cố giữ cũng chỉ là một giả kế khéo léo mà thôi.
Ðó là đoạn văn xuôi được dịch từ những câu thơ trong "Chứng Ðạo Ca" do Thiền sư Vĩnh Gia, một vị cao tăng đức độ người Hoa sáng tác.
"Bỏ cái có để dính mắc cái không" là cũng như ưa thích một vật mà vật nầy lại liên quan đến vật khác. Như bảo rằng màu xanh dương tốt hơn màu xanh lá cây vậy. Sai lầm nầy cũng như "tránh né bị chết chìm, nhưng lại nhảy vào lửa." Nếu bạn khăng khăng cố chấp bám níu chỉ một bên mà không chịu thừa nhận cái giá trị của bên kia, tức bạn đang tạo một lỗi lầm khủng khiếp về mặt tinh thần. Con đường để tránh lỗi lầm đó là nhận thật được cả hai mặt của đồng xu mới tạo nên sự hiện hữu thật sự của nó.
"Như có người chối bỏ vọng tâm để cố giữ chân lý," câu nầy nhắc tôi nhớ đến những người đã nói rằng: "Chúng tôi đúng, chúng tôi là đại diện cho sự thật, vì thế ông là kẻ sai lầm." Tương tự như những lúc chúng tôi tiếp chuyện với những người truyền đạo, họ thường có thái độ như thế, bởi chính những giáo điều của họ bao hàm ý nghĩa của sự đối đãi.
"Nhưng chính những ý nghĩ về chối bỏ hay cố giữ cũng chỉ là một giả kế khéo léo mà thôi."
Câu nầy có nghĩa là tất cả những sự tương phản, trái ngược nhau đều phát xuất từ một nguồn duy nhất, và khi chúng ta đạt được điều nầy tức sẽ nhận ra ngay tất cả những công sức chấp trước về "thật" và sự từ bỏ cái "giả" đều là ảo tưởng, không thật.
Ðó không có ý là ta có thể mặc sức buông lung trên đường du hành rồi còn biện hộ rằng ta không nên chấp mắc vào đúng sai. Mà có nghĩa là nếu cảnh giới tâm linh mình hạn cuộc vào những quan niệm nhị nguyên, của phải hay quấy, của thật hay giả thì mình sẽ không bao giờ tương ưng, mà thể nhập vào được cái nhất nguyên của lý hiện hữu, là cánh cửa đưa mình đến cảnh giới cao hơn.
Ngày 4 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Phía bắc Trinidad, xa lộ cũ 101 chạy dọc theo bãi dốc đá, còn đại lộ lại nằm gần hướng đất liền. Chúng tôi chọn tuyến đường xa lộ cũ vì an toàn hơn - ít xe cộ và phong cảnh lại tuyệt diệu. Trong khi lạy, chúng tôi nhìn thấy những đợt sóng biển không ngớt đập vào, tạo nên những bọt nước xanh hòa trắng, ào ạt tràn lên những phiến đá phún thạch nhô lên trông như những hòn đảo nho nhỏ. Tiếng sóng biển vỗ ầm ầm trong bầu không khí đầy hơi nước, khiến chúng tôi phấn tấn, tỉnh thức lên thêm.
Sau bữa cơm trưa, có hai ông Ái Nhĩ Lan tuổi khoảng trung niên lái chiếc Volvo nhỏ ngừng lại hỏi chuyện. Cả hai tỏ vẻ ưa thích về khuynh hướng triết lý, chỉ có điều là đang say rượu chút đỉnh, nhưng chúng tôi cũng đã cùng nhau trao đổi ý kiến rất lý thú. Họ thắc mắc rằng chúng tôi đã từng có những kinh nghiệm "bất thường" gì với Sư Phụ không. A ha! Ðiều nầy tôi có thể nói đến tràng giang đại hải cũng còn được. Nhưng tôi chỉ kể cho họ nghe về câu chuyện mà tôi chợt nhớ ra trước nhất.
Nguyên là mấy năm về trước, khi mới đến tu viện, tôi được giao cho phận sự rửa chén. Hôm đó nhằm ngày chủ nhật, lại có lễ lớn, nên có thêm thật nhiều chén bát và tôi phải bị kẹt lại để rửa. Sau bữa cơm trưa, mọi người tụ họp từng nhóm nhỏ để trò chuyện và uống trà. Tôi bắt đầu cảm thấy chán nản, nên thầm nghĩ: "Chẳng có ai muốn giúp mình cả, có ai thèm để ý đến mình đâu!" Nhìn đống chén dĩa dơ, tôi phát nghĩ đến chuyện muốn bỏ lên lầu để cuốn gói đồ đạc. Ðang đứng tần ngần trước bồn chén trong nỗi tủi thân uất ức, tình cờ nhìn lên, thấy Sư Phụ đang đứng phía bên tay mặt, cách tôi khoảng năm bước với nụ cười tươi. Rồi bỗng nhiên Ngài bắt đầu nói trỏng, la lớn vô cớ thấy rõ. "Ngươi làm bể nhiều chén dĩa quá đi!" Vì Ngài nói bằng tiếng Anh không rành rẽ: "Nhiều chén dĩa bị rung rinh quá (bể)!"
Tôi giựt mình choáng váng, không nói được lời nào, những ý tưởng chán nản lẹ làng chuyển sang biện hộ cho mình: "Cái gì mà kỳ vậy! Cả tháng nay mình đâu có làm bể cái chén nào đâu! Chẳng biết Sư Phụ đang nói chuyện gì mà kỳ vậy cà?" Nhưng tôi chẳng nói ra được lời nào, mà chỉ biết "Ơ, ơ, ơ, ơ..." ấp a ấp úng, câu trả lời hay nhất mà tôi nghĩ ra được thế thôi. Rồi trong phút chốc, Ngài đột nhiên biến mất, cũng như lúc xuất hiện vậy. Tôi cố suy nghĩ để biết chuyện gì mà kỳ cục quá, nhưng không tìm ra lý lẽ. Vài phút sau, tôi như quên đi câu chuyện vừa qua vì bận lo rửa chén. Lúc nhìn về phía bên phải, tôi thấy một chuyện xảy ra, thật không thể ngờ. Ai đó đã chất chồng đống chén dĩa vào trong một cái chão lớn đáy tròn. Vì chất cao quá nên cái dĩa trên cùng bắt đầu làm cả chồng dĩa rung rinh theo. Vừa lúc nhìn về phía đó thì cũng là lúc chúng thi nhau đổ ào xuống nền xi măng, bể văng tung tóe những mảnh vụn khắp nơi. Giá trị số chén dĩa bị bể nầy cũng cỡ khoảng hơn ba mươi đô. Chỉ có mình tôi đang ở bên cạnh đống chén dĩa, coi như chính tôi là thủ phạm đã gây ra. Lúc đó mọi người chạy ùa ra xem xét sự tình, và tôi mới chợt hiểu được những gì Sư Phụ vừa nói.
Trước đây thì còn nghi ngờ nầy nọ, nhưng bây giờ chẳng có gì để thắc mắc nữa, biết rằng mình mới chứng kiến được sự biểu hiện một năng lực vượt xa hẳn phạm vi tri kiến của phàm phu. Từ đó về sau tôi bắt đầu để ý và hiểu rằng, thì ra lúc nào Sư Phụ cũng luôn để tâm trông chừng bọn đệ tử. Ngoài ra còn nhiều sự việc khác cũng tương tợ như vậy, thật không thể nào đếm hết được, chứng tỏ rằng Sư Phụ luôn "bên cạnh chúng tôi." Tôi biết chuyện nầy nghe qua có vẻ như phi lý quá, nhưng thật là thế, đối với những ai đã từng có những lúc gần gũi tiếp xúc ở Tu viện thì đều biết rõ cả. Sư Phụ gọi cách giáo hóa nầy là "Sự giáo hóa từ trong ra ngoài."
Hai anh triết học thích chí tức cười về câu chuyện, ra về trong tinh thần cao hứng.
Hiện chúng tôi đang cắm lều ở công viên Patricks Point của tiểu bang, rộng mênh mông với một rừng cây lá xanh tươi trên những bờ dốc biển nhấp nhô. Nơi đây, ngoài những nhân viên canh giữ, cả vùng như thuộc về chúng tôi.
Ngày 5 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Vì hôm nay thời tiết quá xấu nên chúng tôi vẫn ở nán lại trong công viên. Cả ngày cứ hết đọc sách, ngồi thiền, rồi lại tản bộ dọc theo các ghềnh đá và nghỉ ngơi. Tối đến, chúng tôi cùng nhau trao đổi giáo lý và học ôn chữ Trung Hoa. Tôi có riêng cuốn tự điển tiếng Trung Hoa loại bỏ túi, và vẫn thường dùng nó để tập luyện với sư Hằng Do trong những lúc rảnh rỗi. Tiếng Trung Hoa của Thầy Hằng Do rất giỏi. Thật ra Thầy Hằng Do là người rất phi thường với nhiều đức tánh đáng chú ý như khỏe mạnh, cần mẫn, sốt sắng, kỹ lưỡng, có trách nhiệm, thông minh, và nhạy cảm. Dù là đang gắn ráp ống nước, rửa phim, phiên dịch kinh điển, nướng bánh mì, kiết già tọa thiền, hoặc căng tấm lều nặng năm pounds (hai ký rưỡi) trên những ghềnh dốc đá, Thầy đều rất tỉ mỉ và rõ ràng, như làm việc được trả tiền lương vậy. Thầy chăm chú cân nhắc đâu đó rồi mới bắt tay vào việc cho đến khi hoàn tất.
Dĩ nhiên là nếu tôi cứ đưa ra những ưu điểm thì sự đánh giá phê bình nầy sẽ không thành thật cho lắm. Nên tôi phải thêm vào, cũng không có lỗi gì gọi là quá tệ, nhưng nhiều lúc Thầy Hằng Do xử sự có vẻ hơi theo ý riêng mình. Có những lúc Thầy như rơi vào trạng thái đăm chiêu thâm trầm, thấy như khó mà giải tỏa được, khiến tôi cũng bị lôi cuốn theo. Mỗi khi nhìn thấy "điều đó" hiện lên nét mặt Thầy là tôi biết ngay mình có chỗ nào đó, lúc nào đó... đã làm sai sót điều gì rồi.
Những lúc như vậy, tôi tự kiểm điểm lại những gì mình đã lầm lỗi, và tìm cách hòa giải những mối bất đồng. Thường thì tôi vẫn nói: "Này Thầy Hằng Do! Mình tạm ngưng một chút để uống sô cô la (chocolate) nóng nhé!" Trong suốt cuộc hành trình, nhiều lần pháp sô cô la nóng nầy thường giải quyết các vấn đề của hai chúng tôi hơn là những cách khác mà tôi có thể nghĩ ra. Thật ra tôi cũng tự thấy mình có lúc hành động thiếu suy nghĩ, nhưng sau khi gốc rễ của những chuyện vớ vẩn đó bị nhổ đi, Thầy Hằng Do vui vẻ trở lại và tinh tấn thêm, còn tôi thì trở lại cái bản tánh đôi lúc hơi khả ố dễ ghét. Và rồi chúng tôi cùng nhau trở ra mặt lộ để tiếp tục lên đường.
Ngày 6 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Chúng tôi lạy được năm dặm, hiện cắm trại trên bãi cát biển, và nhúm lên ngọn lửa vui mừng nổ vang tí tách. Hôm nay khi đi ngang qua vùng Big Lagoon, tôi cảm thấy khoảng đường nầy có vẻ gì hơi là lạ. Trong lúc lạy dọc theo đầm nước, tôi bắt đầu mất đi cảm giác về không gian và thời gian. Cơn gió nặng nề mang theo hơi nước từ biển thổi vào. Tôi có cảm tưởng mình như đang đứng tại chỗ mà lễ lạy, dĩ nhiên trong khi tất cả những cảnh vật ở thế gian vẫn lướt qua tôi. Có lẽ vì tình trạng ý thức bị kích thích không mạnh mẽ như của mắt vậy. Phong cảnh bao la và con đường nhỏ hẹp của xa lộ chạy mất hút như sợi chỉ dài vô tận tới chân trời, giúp tạo nên thành quả. Nhưng dù sao tôi cũng phải tự ghi vào sổ cho mình là đã lạy liên tục không ngừng nghỉ được hơn một dặm một phần tư. Sức lực càng lúc càng gia tăng, tôi cảm thấy khỏe khoắn vô cùng.
Ngày 7 Tháng 2 Năm 1971. Hằng Cụ viết:
Vừa lạy được hai dặm, nhưng thấy cơn bão to sắp sửa kéo đến nên chúng tôi buộc phải tìm chỗ ẩn náu. Hiện chúng tôi đang dựng lều trên bãi đất của một xưởng gỗ lớn. Ðôi khi nghĩ lại mà cảm thấy rùng mình trong cảnh trôi giạt lang thang như vầy. Chúng tôi như những chiếc lá bị gió mùa thu thổi bay qua một hành tinh xa lạ và tiếp tục bay trong sự im lìm, không dính mắc vào đâu, chỉ lặng lẽ trôi lăn trong tỉnh giác.
Ngày 8 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Trời vẫn đổ mưa, chúng tôi vẫn ở chỗ cũ đầy ẩm ướt. Những lúc như hôm nay thật ê chề chán nản, vì chẳng làm được gì hơn là phải chờ đợi. Cũng còn may là chúng tôi có thể hành thiền.
Trong kinh Hoa Nghiêm có câu: "Tánh không tức là Phật."
Nhiều người chỉ biết chấp mắc vào cảnh vật nên quên mất chẳng quay về với chân tánh, vốn đầy đủ tứ đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Giác linh sẵn có nầy đã bị che lấp bởi những nghiệp thức hạn cuộc, và hầu hết chúng ta đều không biết đến. Trong những ngày mưa gió, cũng là dịp tốt cho chúng tôi ở lại trong lều để tham thiền, suy ngẫm những điều nầy.
Ngày 9 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Mặc cho mưa gió, hôm nay chúng tôi vẫn trở ra đường. Chẳng thà bị ướt mà có tiến bộ, hơn là khô ráo mà chểnh mảng.
Hiện chẳng phải hòa hợp, khứ lai cũng như vậy
Tất cả pháp vô tướng, đây là chân thể Phật.
Những lời nầy xuất phát từ kinh Hoa nghiêm, thật khiến tôi suy tư về tất cả những kinh nghiệm nầy. Chúng tôi đã không ngừng di chuyển, điều nầy cũng dễ hiểu thôi, vì thật ra cũng chẳng có gì để bám víu. Tôi nghĩ nếu dẹp được thời gian cuộc đời qua được một bên thì rất hay, như vậy ta mới có thể tạm thời buông bỏ hết tất cả để chỉ đơn thuần làm người không dính mắc. Ðó chính là bài học thực tế rất giá trị. Có nhiều chuyện tự mình tưởng là quan trọng, nhưng thật ra chúng chẳng là gì cả. Ví như có thể nói là: Ở vào trình độ cao thâm, sẽ thấy không có gì thật là vấn đề cả. Sự vật chỉ là những hình tướng đơn thuần của chính nó thôi. Ðây là đạo lý cao siêu mà mọi người nên cố gắng để thâm nhập. Một khi ta hiểu được căn bản tất cả chỉ là không, thì mới có thể trở về với lối sống hiện tại, thật sự vững vàng. Khi đó ta sẽ nhận rõ ra được cái ta thật thể sẽ là gì, và có thể lăn mình phấn đấu để có một cuộc sống xứng đáng. Sự vật trên thế gian nầy thật, giả đều lẫn lộn nhau, và chỉ tùy theo cái nhìn của mỗi người. Cho nên có câu: Tất cả các pháp là giả, là không, song cũng chính các pháp nầy lại thể hiện lên cái hiện thực. Dù ở trường hợp nào đi chăng nữa, tốt hơn là xây dựng một nền tảng vững chắc, một trung tâm bất động, thì chúng ta mới có thể quán xét và xử lý được với những biến chuyển đa dạng của sinh tử.
Ngày 10 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Do viết:
Chúng tôi cắm trại trên bờ biển, cách thành phố Crescent khoảng bốn mươi dặm về hướng nam. Tôi có thể nghe bao âm thanh hòa nhịp của sóng biển ầm ầm dồn dập, tiếng gió rít vi vu, tiếng lửa nổ vang tí tách và tiếng hòa đồng, hợp xướng của tám vạn bốn ngàn con ếch nhái trong cái vũng đầm ở phía sau chúng tôi. Ngọn lửa hồng trong đêm đen lạnh rét như có một cái gì thật là êm đềm tuyệt diệu, nên tôi có thể ngồi hàng giờ để nhìn ánh lửa và lắng nghe âm thanh của nó. Lửa trại nầy thật thuận tiện cho việc hong khô áo quần, nấu nước pha trà và cả việc hầm đậu cho bữa trưa mai, nó như còn có một cái gì thu hút, luôn được chào đón mỗi khi màng đêm buông xuống, tôi cũng chẳng biết vì sao.
Theo sự tính toán thì hiện chúng tôi đã lạy được 379 dặm đường, dọc theo lộ trình bờ biển. Nếu dùng theo tuyến đường trong đất liền thì lộ trình sẽ ngắn hơn, chỉ cách San Francisco 308 dặm thôi. Sư huynh Cụ đã phải bao lần đắp vá lại miếng vải bao nơi đầu gối, mấy bánh xe kéo cũng đã bốn lần đổi thay và chúng tôi cũng đã tiêu thụ mất hằng mấy cân bột sữa rồi. Sau trận lụt lớn cho đến nay, chỉ có khoảng bốn hay năm ngày mưa, ngoài ra thì thời tiết cũng khá tốt. Từ lúc rời khỏi vùng Humboldt Bay, chúng tôi tiến vào một địa thế tuyệt đẹp với những cây Hồng mộc (redwood) và những cây tùng (Douglas) về phía Redwood National Park, một công viên mới nhất của quốc gia.
Ngày 11 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Do viết:
Lại một lần nữa chúng tôi cắm trại trên bờ biển về hướng nam của thành phố Orick, nơi nầy với danh gọi là "Cổng vào công viên quốc gia." Dựng lều xong, tôi gom góp mấy khúc gỗ từ biển tấp trên bờ, chất thành đống lớn. Vừa mới nhúm lên ngọn lửa thì có ông cảnh sát khu vực tìm đến. Tin chắc là thế nào mình cũng bị đuổi vì tội cắm trại ở bờ biển và ngọn lửa cũng sẽ bị dập tắt dưới gót giầy. Ngạc nhiên thay, ông lại nói: "Chào! Chỗ nầy cắm trại lý tưởng quá há!" Ðó là ông James Kennedy, chỉ đến để trò chuyện và xem nếu chúng tôi có cần gì không.
Lúc trong ngày đang lễ lạy, có ba nhân viên sửa đường chăm chú quan sát Huynh Cụ đang miệt mài cọ quét ngang qua chiếc xe vận tải lớn chở đồ phế thải của họ. Sau đó một lúc, anh tài xế lên tiếng hỏi thăm vài chuyện về chuyến đi của chúng tôi. Thấy rõ mấy anh nầy lộ vẻ hơi căng thẳng khi nói chuyện với tôi. Cũng dễ hiểu thôi, có lẽ họ đã từng nghe nhiều chuyện kỳ dị về chúng tôi rồi, nên mới tỏ vẻ ngần ngại khi tiếp xúc với tôi vậy.
Một anh hỏi chúng tôi mỗi ngày có tiến bộ không.
Tôi đáp: Có.
Và đây là dịp để tôi kể lại câu chuyện bị nạn về lá sồi độc ở vùng Bodega Bay. Dù chuyện xảy ra đã lâu, nhưng đến nay khi nhắc lại, câu chuyện cũng vẫn còn rất khôi hài lý thú. Khi nghe có người dùng lá sồi độc để thay cho giấy vệ sinh, ai nấy cũng ôm bụng cười lăn. Tôi diễn tả câu chuyện một cách thật hài hước khiến mấy anh công nhân nầy áp nhau cười rần. Trước khi lái xe đi, họ cũng đã chúc lành và khen ngợi mục đích việc làm của chúng tôi.
Tôi tin rằng ảnh hưởng tai nạn của lá sồi độc sẽ nhắc nhở cho mọi người biết chúng tôi cũng là người như mọi người, cũng có lỗi lầm như bao người khác. Câu chuyện nầy sẽ như chiếc cầu nối liền khoảng trống, mà lắm khi trong lúc giao thiệp có thể xảy ra.
Ngày 12 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Trong cơn mưa lất phất, chúng tôi lạy đến vùng Orick. Vừa vào khu phố thì có vài chiếc xe bóp còi inh ỏi chạy lướt qua chúng tôi, chắc là từ đám học sinh trung học ở vùng nầy. Nhưng chỉ vậy thôi, không có gì xảy ra. Có bà nội trợ, tuổi khoảng trung niên đã cố thuyết phục tôi vào đạo của bà. Ðến trung tâm thành phố, lúc đi ngang qua tiệm bán bánh mì " I'm a hamburger" (Tôi là bánh hem bơ gơ, loại bánh mì kẹp miếng thịt bò xay nhuyễn), có mấy chiếc xe hàng tấp vào phía trước, rồi tài xế đến hỏi han vài câu. Tuy họ không hiểu nhiều gì về đạo Phật, nhưng chắc chắn rất hiểu về những dặm đường mà chúng tôi đã lạy qua. Họ tỏ vẻ rất cảm kích khi biết chúng tôi đã lạy được hơn 300 dặm đường.
Chiều xuống, chúng tôi gặp anh Tom Carter cùng vợ là Sunny và được mời về nhà nghỉ tạm nơi phòng khách. Chúng tôi mua bột mì ở tiệm, nơi anh Tom đang làm việc. Rồi sau đó đã sản xuất ra được ba ổ bánh mì cho ảnh chỉ và ba ổ cho chúng tôi. Buổi tối chúng tôi vừa uống trà vừa bàn luận Phật pháp.
Ngày 13 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Khi đi ngang qua dãy nhà trọ cho thuê Mosely Motel ở đường Dawson, bà Mosely đích thân ra mời chúng tôi vào uống cà phê. Vì đang trong tình trạng xăng dầu khan hiếm, nên những phòng ngủ cho mướn của bà còn rất nhiều chỗ trống. Mặc dù được bà dành riêng một phòng để nghỉ qua đêm, nhưng chúng tôi từ chối và quyết định tiếp tục lên đường, đến cuối ngày cũng tìm được một chỗ khá tốt, cách xa lộ để dựng lều. Trời về đêm rất yên lặng, chỉ nghe tiếng dế, cóc kêu thôi. Thầy Hằng Do đang cặm cụi nhóm lửa để nấu đậu cho bữa trưa mai.
Diệc như hỏa tánh nhất, năng thiêu nhất thiết vật
Hỏa diệm vô phân biệt, chư Phật Pháp như thị.
Nghĩa là:
Cũng như lửa một tánh, thiêu đốt tất cả vật
Lửa cháy không phân biệt, pháp chư Phật như vậy.
Bài kệ nầy được trích từ kinh Hoa Nghiêm, nói về tánh vô ngã. "Lửa cháy không phân biệt," tuy lửa không có tâm thức nhưng diệu dụng của nó thật hoàn hảo. Ðó là kết quả đơn thuần của các nhân duyên đã hội đủ. Tâm cũng không có tự ngã và nếu không có sự cảm thọ về cái ngã thì nó cũng có cái diệu dụng hoàn hảo, luôn luôn dung hòa với hoàn cảnh, không có vấn đề gì. Tất cả các pháp cũng như vậy, chỉ có thế thôi. Nếu mọi sự vật đều theo đúng nguyên tắc căn bản nầy thì dù cho cái "ngã" có nổi lên hay không thì cũng không thành vấn đề.
Ngày 14 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Phía bắc Orick, chúng tôi tiến dần vào đất liền và đang ở giữa vùng công viên Redwood National. Cả vùng mênh mông nầy chỉ có chúng tôi và những cây cổ thụ: có mấy cây già đến ba ngàn tuổi, nghĩa là chúng đã có mặt trên trái đất nầy ngay cả trước thời của đức Phật! Phong cảnh nơi đây có vẻ an lạc quá!
Hôm nay có chiếc xe thơ ngừng lại trên xa lộ, và anh phát thơ xuống xe đi về phía Thầy Hằng Do đang lạy bên lề. Thì ra chúng tôi có món quà đặc biệt do ông Bob Olson, giám đốc công ty điện Olson ở San Francisco gởi biếu một hộp đậu (nut) to tướng, có cả lá thơ từ Chùa Kim Sơn nữa. Trong thơ nói rằng mọi người rất thích thú về chuyến du hành qua những bài tường trình do chúng tôi gởi về. Giờ đây chúng tôi cắm trại ở công viên Prairie Creek State về phía bắc. Có một đàn nai đông đảo đang ùa nhau chạy lướt qua cánh đồng trống.
Ngày 15 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Lạy được ba dặm trước khi Quả Quy Nicholson cùng người em họ là Margaret đem cơm trưa đến và tặng cho chúng tôi hai cái áo khoác nylon bằng vải dù. Thấy trận bão to sắp sửa kéo tới, nên trước khi ra về, mấy ảnh chở chúng tôi đến một căn nhà bỏ hoang nằm phía trên bờ sông Klamath. Màn đêm buông phủ, tiếng gió hú quái đảng len lỏi qua các khe cửa kiếng bể, khiến mấy tấm ván lỏng sút đinh phát kêu kèn kẹt, hòa cùng những âm thanh vang rền của bọn côn trùng ếch nhái.
Trong kinh Hoa Nghiêm có bài kệ:
Diệc như phong tánh nhất, năng xuy nhất thiết vật
Phong vô nhất dị niệm, chư Phật Pháp như thị.
Nghĩa là:
Cũng như gió một tánh, thổi động tất cả vật
Gió không nghĩ đồng khác, pháp chư Phật như vậy.
Những tác dụng chịu đựng của gió và tất cả vạn vật của thiên nhiên đều thật không thể nghĩ bàn. Ðã không một ai hay một nhân vật nào có thể sai khiến được chúng cả. Những sự việc xảy ra của thiên nhiên là vô ngã. Và lạ kỳ thay! Con người cũng giống vậy thôi. Câu trên đã phân tích rằng: Gió vốn vô tâm phân biệt, hoặc nó đâu có thể tự gọi là gió. Trong đạo Phật gọi đó là chân đế hay sự thật tuyệt đối của vô ngã.
Bao thế kỷ trôi qua, Thiền tông đã dùng phương pháp tham thiền hướng dẫn thiền sinh tìm đến chân thật nầy bằng câu hỏi "Ai?" Bởi hằng suy tư trong tỉnh giác với câu hỏi nầy, đồng thời mục kích những hành vi của thân tâm, ta mới có thể nhận ra được tự tánh vốn bao la vô tận. Cũng giống như gió: không ngằn mé, không có sự bắt đầu và cũng không có ngã tướng. Tất cả mọi vật trên vũ trụ đều vô ngã. Hay nói một cách lạc quan hơn: con người đã hoàn toàn, đã là Phật rồi. Và sự bất diệt nầy nay vẫn đang tiếp tục, không còn gì hơn để có thể làm cho sự bất diệt nầy trở nên bất diệt vĩnh cửu hơn nữa cả. Hiện tại, sự tuyệt đối của đúng hay sai đều thể hiện đồng lúc ngay trước chúng ta theo luật nghiệp báo một cách đích xác hoàn toàn.
Ngày 16 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Do viết:
Hôm nay trước khi dựng lều trong những lùm cây Hồng mộc, chúng tôi đã lạy được bốn dặm rưỡi dọc trên đoạn đường nhỏ hẹp. Hầu như mưa rơi suốt cả ngày, nhưng lần nầy chúng tôi dùng tấm bố vải dầu không thấm nước, phủ lên trên lều, để nước mưa trơn tuột xuống hết. Kết quả thật tốt, nước mưa đã không thấm rỉ vào, nên phía trong lều cũng giảm bớt phần nào độ ẩm ướt. Tại sao trước đây chúng tôi không nghĩ ra cách nầy hở?
Hơn một giờ trôi qua, chúng tôi vừa tọa thiền xong. Bây giờ ngoài trời đã tối đen, im phăng phắc. Một ngày dài đã qua, phút chốc sau buổi tọa thiền, chúng tôi cảm thấy tinh thần như thư giãn trong an lạc. Cũng có thể đấy là ảo giác do được thư thả tự do sau một ngày hành trình và kiếm tìm chỗ thuận tiện để cắm lều. Mặc khác, cũng có thể bảo đấy là pháp hỷ lạc của thiền duyệt, kết quả từ sự dụng công hành thiền liên tục. Cái cảm giác mà tôi đã từng cảm nghiệm được thật không mãnh liệt cũng không là mối xúc cảm, mà nó như một sự thỏa mãn, một cảm giác hài lòng: Cuối cùng tôi cũng đã ở đúng nơi, làm đúng những chuyện với những lý do chánh đáng. Dù tập khí trần tục, và vị trí tâm linh của tôi có lẽ hãy còn xa tít, nhưng biết đâu trong khoảnh khắc tôi cũng có thể đến đích. Nhưng cái vui nhẹ nhàng đó khiến tôi biết rằng mình đang đi đúng đường và cũng bắt đầu tìm được niềm hoan hỷ của thiền duyệt.
Âm thanh của bọn dế như đan kết nhau thành màng lưới phủ giăng, phá tan sự tịch tĩnh của đêm đen. Có phải là tôi đã thật sự nếm được mùi vị của thiền duyệt, hay có phải tự mình cho đó là thành công chăng? Khác biệt cái gì đây?
Ngày 17 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Chúng tôi lạy xuống dãy đồi và qua luôn một cây cầu dài, thấy có hai con gấu xi măng màu vàng đứng sừng sửng ở cuối đầu cầu. Khi băng qua khỏi ranh giới Humboldt-Del Norte, có hai viên cảnh sát chận tôi lại xét hỏi. Họ đến bằng hai chiếc xe, một ông ngồi trong xe với khoảng cách an toàn, trong khi ông kia dè dặt tiến lại gần, tra hỏi mấy câu như: Ông là ai, và đang làm gì? Mỗi lần thấy tôi di động là mỗi lần ông ta giựt mình nhảy nhổm. Tôi chưa bao giờ thấy có vị cảnh sát nào đang thi hành công tác mà lại sợ sệt, nhút nhát đến thế. Nhưng rồi cũng không có vấn đề gì, mấy ổng chỉ hiếu kỳ muốn biết vậy thôi!
Lạy về hướng nam cuối vùng Klamath, chúng tôi căng lều ngay trên khoảng đất mà trước đây vốn là khu phố cũ kỹ đã bị cơn lũ lụt lớn cuốn sạch vào năm 1964. Sau đó một thành phố mới được thành lập trên vùng đất cao hơn. Ðấy là điểm lý thú, chứng tỏ con người đã học được kinh nghiệm từ những sai lầm của mình.
Ngày 18 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Do viết:
Không nên dựng lều ở chỗ thấp trũng lại quá gần sát mé sông, chuyện nầy lẽ ra chúng tôi nên biết hơn hết. Mười năm trước, cả thành phố nầy đã bị con sông Klamath cuốn sạch. Trong khi phố phường nhà cửa lại không thể xây cất lên, thế thì lều trại làm sao mà có thể đứng vững được chớ!
Trời đổ mưa liên tục suốt mười bốn tiếng đồng hồ, thế nên hôm nay chúng tôi chẳng lễ lạy được. Ðến trưa, mực nước chung quanh đã lên đến ba phân, cho nên chúng tôi lo thâu dọn đồ đạc, và mò mẫm tìm chỗ ẩn náu khá hơn. Cũng may tìm được căn nhà hoang nằm hướng về phía sông. Nước sao mà nhiều quá! Tôi chưa bao giờ thấy qua cảnh nầy!
Ngày 19 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Do viết:
Lạy được gần một dặm, Thầy Hằng Cụ đề nghị rằng tôi khỏi phải phí sức đem đồ đạc ra ngoài nầy làm gì. Thế là tôi ở lại trong căn chòi vốn chỉ còn là bộ sườn cũ kỹ. Trong lúc Thầy Hằng Cụ dầm mưa để "tăng gia thêm vài dặm," còn tôi thì hết đọc sách, rồi tọa thiền, sửa chữa đồ đạc, sau đó trời tạnh mưa, tôi ra ngoài tản bộ.
Lúc ở Hải Quân, Thầy Hằng Cụ đã từng có thời gian năm năm sống giam hãm trong quy luật của chiếc tàu ngầm, nên Thầy rất ít có chuyện lộn xộn, làm mích lòng ai, dù sống trong khoảng thời gian dài, chỗ ở lại nhỏ hẹp. Theo danh từ tu đạo mà Thầy thường chỉ vạch cho tôi biết rằng, người người đều có tâm linh hay khoảng cách riêng biệt về tinh thần cũng như thể xác. Có người tự vẽ đặt ranh giới tu hành nhằm được một nơi cố định riêng biệt, nên đôi khi họ cảm thấy bất bình khi những ranh giới đó không được người khác tôn trọng. Nếu chấp lấy những ý kiến riêng để làm thế nào cho xong việc, thì đây có thể là cái trở ngại cho sự thành công mà ta hằng mong mỏi. Sẵn dịp hôm nay được rảnh rang nên tôi kiểm điểm lại cái ranh giới tâm linh và thông thả tự do trong vòng phạm vi tâm tư của mình. Nhờ vậy tôi cảm thấy thoải mái vì đã giảm bớt phần nào mối căng thẳng mà thỉnh thoảng nó phát khởi giữa tôi và sư huynh.
Thầy Hằng Cụ trở về và tường thuật tình hình lễ lạy trong ngày rằng có một ông la hét: "Ê mậy! Còn chút thuốc nha phiến nào không hả?" Sau đó có bà hơi trọng tuổi tên Gracie Knight mời chúng tôi nếu ngày mai có đi ngang qua, thì ghé lại nhà bà nghỉ ngơi.
Suốt cả đêm, hình như cơn gió đã dùng những khí cụ dị kỳ để thổi lên những âm điệu quái gở lồng vào căn nhà cũ nát.
Ngày 20 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Phía bắc vùng Klamath, ông Jack, chủ nhân cho mướn phòng ngủ Pines Motel, đem cà phê ra mời mọc và khoe khoang giới thiệu con chó của ông. Sau đó ông còn kể sơ lý lịch vùng nầy cho chúng tôi nghe. Ông nói sở dĩ hai con gấu xi măng ở đầu cầu Klamath màu vàng là vì có một đêm, sau khi nhậu say, chính ông cùng vài người bạn kéo nhau đến đó để sơn phết cho chúng. Chuyện nầy xảy ra cũng đã nhiều năm, nhưng từ đó đến nay như đã trở thành một thông lệ cổ truyền.
Sau năm dặm tiến hành lễ lạy, chúng tôi làm dấu địa điểm và được bà Gracie Knight đến chở về nhà nghỉ ngơi. Căn nhà tọa lạc trên một sườn đồi nhỏ ở hướng bắc Klamath. Bà Gracie và chồng với biệt danh là "Bố Ray" (Daddy Ray), là cặp vợ chồng có nhiều đặc điểm. Mặc dầu đã gần bảy mươi, nhưng bà Gracie đều đều mỗi ngày chạy bộ năm dặm đường. Bà còn tổ chức một hội thiền vào mỗi tối thứ năm để cùng mấy người bạn đạo tham khảo đạo lý căn bản. Bố Ray vốn là thợ mộc đã về hưu, gốc từ tiểu bang Arkansas nên biết cách tiếp khách rất lịch thiệp theo tập tục người miền Nam. Ông đặc biệt dọn cho chúng tôi một căn phòng đãi khách thật tiện nghi có cả lò sưởi nữa.
Bà Gracie bảo rằng trong suốt bốn mươi năm qua, vợ chồng bà không hề có những trận gây gổ gì trầm trọng cả. Bà tiếp: "Khi có chuyện lộn xộn sắp sửa bùng nổ thì tôi và Bố Ray liền ngồi ngay xuống sàn nhà, mặt đối mặt để giải bày cho ra lẽ. Có lúc phân bua cả mấy tiếng đồng hồ, nhưng rốt cuộc thì lúc nào cũng êm xuôi, đâu vào đó." Bà còn giải thích về kinh nghiệm xuất hồn mỗi khi tọa thiền, lại đang tham khảo phương pháp ngủ ngồi, và sẽ bớt ăn thịt gà. Hai vợ chồng nầy thật là quá tốt!
Ngày 21 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Bà Gracie cố nài nỉ mời chúng tôi ở lại thêm một đêm, nên chúng tôi để đồ đạc lại và sau đó được bà chở ra địa điểm cũ. Sư đệ tôi dù đầu gối không bao bọc gì, nhưng cũng vẫn lễ lạy ở phía sau, cách khoảng trăm bước. Nếu so với lúc trước thì sáng nay chúng tôi đã phá kỷ luật, là lễ lạy không ngừng nghỉ, dọc theo những ghềnh dốc đá cao. Ði ngang qua trại dân da đỏ cạnh bờ biển, thấy nơi nầy chẳng còn chi ngoại trừ hàng ngàn khúc cây bị sóng thủy triều đẩy vào. Sau đó chúng tôi bắt đầu trèo lên dãy đồi bằng con đường bám sát vách đá, trông giống như con sâu lông đeo chặt vào thân cây.
Chúng tôi vừa lạy được ba dặm rưỡi thì được bà Gracie rước về nhà ăn cơm. Bữa cơm chay thịnh soạn được bà chuẩn bị tươm tất để cúng dường. Tôi và Sư Hằng Do dùng khánh đánh nhịp, cầu nguyện trước và sau bữa cơm.
Sau bữa ăn trưa, bà mời vài người bạn láng giềng đến dùng trà và cùng chúng tôi đàm luận chút ít về đạo Phật ngay tại phòng khách. Ngoài kia mưa gió đang ào ạt tuôn xuống mái nhà.
Ngày 22 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Gia đình họ Knight, tức là Gracie và Daddy Ray, chở chúng tôi trở ra chỗ cũ. Lần cuối cùng nầy bà Gracie móc ra tờ năm đồng, cố dí cho Thầy Hằng Do. Thấy Thầy từ chối, Bà nói: "Cầm lấy đi mà! Ðừng có chống lại mấy người già cả nầy!"
Chúng tôi đi dọc theo dãy đồi rộng bát ngát, nằm giữa công viên Jedidiah Redwood, có lẽ ngày mai hay ngày mốt thì sẽ bắt đầu xuống đến thành phố Crescent, một quận lớn cuối cùng của tiểu bang California. Thời tiết hôm nay thật lạ, chỉ trong vòng một giờ mà chúng tôi phải đương đầu với tuyết, mưa, mưa đá và rồi ánh nắng mặt trời ló dạng chiếu sáng chói chan.
Gần chiều tối, có chiếc xe ngừng lại, rồi anh tài xế tóc dài bước ra, vừa chạy về phía tôi vừa la lớn: "Anh Tim! Anh Tim!"
Thì ra đó là anh Dane, bạn cũ từng chung sống với tôi ở thị xã Mineral, tiểu bang Washington. Thấy tôi lễ lạy, anh tỏ vẻ ngạc nhiên trong phút chốc, nhưng lấy lại bình thường ngay, và còn mời chúng tôi khi nào đi ngang nhớ ghé lại nhà anh ăn bánh chiên (pancake).
Ngày 23 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Có nhiều chuyện xảy ra khi tiến vào thành phố Crescent. Chúng tôi được ba người là bà Extine, bà Crites và bà Ross đến tặng quà. Nên sau đó chúng tôi quyết định mở trương mục ở ngân hàng và dùng số tiền được cúng để sung vào quỹ xây dựng tu viện mới.
Khi còn ở vùng Arcata, chúng tôi mua được một máy radio với giá hai mươi lăm xu ở tiệm đồ cũ, và chỉ cần một cục pin mới là xài được ngay. Từ đó, sau mỗi buổi tọa thiền tối, chúng tôi thường lắng nghe tin tức và thời tiết. Sáng nay khi gần đến thành phố Crescent, Thầy Hằng Do vặn máy nghe ông Bill Stamps, phát ngôn viên đài KPOD, đang báo cáo rất tỉ mỉ từng bước một về tiến trình của chúng tôi. Ông Bill tánh tình vốn lanh lẹ hoạt bát, thường tự đắc trong việc cung cấp cho hàng thính giả những "tin nóng bỏng." Với giọng điệu diễn tả như sau:
"A! Lần chót tôi đã gặp hai ông Sư lễ bái dọc theo phía trước bờ biển, và sắp sửa lên đường quẹo vào thành phố. Nếu có quý vị nào thấy được họ đang ở đâu thì xin gọi cho tôi biết với. Dạ đúng vậy! Thưa quý vị thính giả, đây là một câu chuyện thật lý thú, các bạn nên nhìn cho được ông Hằng Cụ, tướng người to lớn, đang di chuyển. Ông ta cao khoảng sáu feet rưỡi (một thước chín), và mỗi lần ông bước một bước thì chiếm cả đoạn đường khoảng bảy feet (hai thước mốt). Ðây mới thật là việc làm quá sức đảm đang. Và bạn ông ta là Hằng Cho hay Hằng Ho gì đó? Nhưng không sao, tên gì cũng được, ông nầy thì thấp hơn, lúc nào cũng ở bên cạnh ông Hằng Cụ, cùng với chiếc xe kéo. Thật là một người quá ư là tốt. Xin thưa cho quý bạn biết là tôi chưa bao giờ mục kích được những chuyện như vầy cả. Chúng ta hãy cùng nhau chứng tỏ cho hai chú bé nầy biết rằng dân thành phố Crescent thật cảm kích về việc làm của họ!"
Trên đường ra khỏi thành phố, tôi đi gần bên Thầy Hằng Do, và cả hai chúng tôi đều lắng nghe tin tức từ máy radio được gắn dính trên xe kéo. Ông Bill săn tin thật là chính xác. Ngoài ra ông còn thích bàn luận về Phật giáo, nên biết rõ cả chuyến bái hương xuyên lục địa Trung Hoa của Hòa Thượng Hư Vân nữa! Khoảng xế trưa, ông Bill đích thân đem máy ghi âm đến phỏng vấn chúng tôi. Nhìn điệu bộ của ông, với đôi giầy mũi nhọn, mặc quần vải sọc, lại choàng áo khoác màu đỏ chói, thêm hàm râu quắn xồm xoàm và đôi mắt tinh ranh, trông giống như ông chằng tinh to lớn.
Ði đến cuối phố, gặp được ông Long, người thợ rèn duy nhất phố nầy và ông đã giúp chúng tôi sửa chữa xe kéo miễn phí. Sau đó chúng tôi được ông Howard Cronk, chủ nhân khách sạn Totem, ưu đãi dành riêng cho một phòng để nghỉ ngơi.
Ngày 29 Tháng 2 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Tôi luôn có ước vọng thực hiện một chuyến hành hương trên ngọn núi Thánh. Xem như khu rừng xa xôi hẻo lánh nầy thì có ngọn Shasta là linh thiêng nhất trong vùng. Núi nầy nằm về phía đông thành phố Crescent. Vì thế, bắt đầu từ ngày 24 là chúng tôi đã tạm ngừng lễ lạy vài ngày để leo núi Shasta. Chúng tôi gởi lại tất cả đồ đạc ở phòng ngủ của ông Cronk, chỉ mang theo túi ngủ (sleeping bag) và một ít lương thực, rồi quá giang xe đến núi Shasta dưới cơn mưa phùn lất phất.
Ngay từ đầu đã là một "lỗi lầm" khi quyết định chuyến đi nầy. Như văn hào T.S. Eliot đã viết: "Lầm lẫn từ sai lầm bởi sai lầm" (Distracted from distraction by distraction). Vì thời tiết quá xấu nên ngọn núi bị đám mây che phủ, chẳng thấy được gì. Mới lên được nửa chừng mà nhiệt độ đã xuống 18 độ dưới 0 độ F, bởi vậy lạnh muốn thấu xương. Tôi cảm thấy thật hối hận vì đã bỏ lễ lạy ở xa lộ. Chắc khi có tin loan báo, thế nào cũng có nhiều người đang nghe ngóng về chúng tôi. Dù là một quyết định sai lầm, nhưng đó lại là việc tôi hằng mong muốn thực hiện từ lâu. Có lẽ trong tương lai, nếu đủ duyên tôi sẽ trở lại trèo núi Shasta nầy.
Còn bây giờ, tốt hơn là trở về với xa lộ 101.
Ngày 1 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Ðến xế trưa, chúng tôi đã về tới thành phố Crescent. Ðang lúc lo thâu dọn hành lý, ông Howard Cronk cố mời chúng tôi nghỉ lại đêm nay. Nghĩ rằng bây giờ chỉ còn vài giờ và nếu ra lễ lạy dưới cơn mưa chắc không khá đâu, nên chúng tôi nhận lời. Ðược nghỉ ngơi một đêm để sáng mai khởi hành sẽ phấn chấn thêm lên.
Tất cả chúng ta đều là những kẻ lữ hành trên cùng một tuyến đường, nhưng: Có người chậm chạp, hờ hững, trong khi có kẻ nhanh nhẹn, liều lĩnh. Có người thối chí muốn thục lùi, nhưng cũng có kẻ mỗi ngày đều đặn tiến bước. Có người bị chìm đắm trong bùn lầy, có vị tuy nhận biết mình đang trầm trệ hoặc đi lầm đường, nhưng vì thiếu nghị lực nên không cải đổi. Cũng có người dành ra thời gian để tìm phương dẫn dắt kẻ khác. Thật là tuyệt, một lần nữa, chúng tôi được trở về với con đường chánh đáng.
Ngày 2 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Ông Howard chở chúng tôi trở ra địa điểm cũ. Mấy ngày qua tuy số dặm đường không được là bao, nhưng ít ra chúng tôi cũng không có tâm thối chuyển.
Khi tâm trí khai triển đến ngôi vị Bồ Tát đạo, thì được gọi là A Bệ Bạt Trí (Avaivartika), tiếng Phạn có nghĩa là Bất Thối Chuyển. Ở giai đoạn nầy, những ý tưởng, ngôi vị, sự dụng công đều không còn bị thối lui trở về với mê lầm. Mấy năm trước ở Tu viện, lúc tôi đang làm đầu bếp, vì mới tập tễnh ăn một bữa mà phải làm việc khi chung quanh toàn là thức ăn do chính mình nấu nướng, nên thật là khó cho tôi. Thật ra tôi thi hành đúng theo quy tắc chỉ được vài ngày thôi. Nhưng rồi vào một buổi sáng vì không thể nào nhịn được nữa, nên tôi có ý định là sẽ ăn sáng chút đỉnh. Nhớ rõ là tôi đã đi thẳng đến tủ lạnh, định thò tay mở cửa, đồng thời mắt tôi đảo nhìn về phía hành lang, bỗng thấy Sư Phụ đi ngang qua, miệng chúm chím cười. Nhưng thình lình Sư Phụ dừng hẳn, rồi bắt đầu đi ngược thụt lùi trở lại phía hành lang cho đến khi khuất dạng ở góc nhà, mà không hề nói năng một lời nào. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận ra được lời nhắn gởi.
Hôm nay kiến trúc sư Gene Hicks, từ vùng Seattle đi cùng với ông Joe Collins, ở thành phố Crescent, đến thảo luận với chúng tôi về vấn đề tôn giáo Á Ðông.
Ngày 3 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Sáng hôm nay sương mù phủ đầy mặt đất. Cô Ruth Brewer, thông tín viên tờ báo Porland Oregonian, đã đăng một bài về chúng tôi. Cô nàng có vẻ quan tâm về chuyện lá sồi độc, cho nên đem đến tặng nguyên một lố giấy vệ sinh. Ông Dale Parson, phó cảnh sát quận Del Norte lái xe đi tuần rồi ngừng lại bên tôi. Bụng thầm nghĩ chắc lại bị xét hỏi phiền phức gì nữa đây, nhưng đã không vậy, mà ông còn tỏ vẻ rất hứng thú về chuyến bái hương. Ông bảo rằng vì vốn là dân được sinh trưởng và lớn lên ở Marblemount, Washington, tức địa điểm tu viện mới trong tương lai, cho nên ông có ý muốn "thử buông súng xuống để tháp tùng theo chúng tôi."
Sau khi lạy được bảy dặm, ông Howard Cronk lại đến để chở chúng tôi về phòng ngủ Totem nghỉ ngơi.
Ngày 4 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Chiều nay ông bà LaRue, dù đã khoảng tám mươi tuổi nhưng hiện là ký giả báo địa phương tờ Brookings, đến phỏng vấn sư Do. Ông Harold Howard là bạn cũ của cô Marge Raums, đến chở chúng tôi trở về nhà ở thành phố Crescent. Vợ chồng ông là đại biểu vùng Del Norte cho hội Eckankar, một tổ chức tin tưởng về sự xuất hồn. "Đạo Sư Sống" của họ đang cư ngụ tại thành phố Las Vegas, với chủ trương rằng: Con đường tốt nhất là giải thoát linh hồn khỏi thân xác để nương theo Đạo Sư Sống mà trở về với Chúa Trời. Ông bà họ Howards tiếp đãi chúng tôi rất nhiệt tình. Chúng tôi cũng thật là ngạc nhiên khi thấy họ cào bỏ hết lớp cỏ xanh ở sân trước và sân sau nhà để tạo thành mảnh vườn chuyên trồng rau cải.
Sau buổi sáng thực tập pháp xuất hồn, hai ông bà lại chở chúng tôi trở ra chỗ lạy cũ.
Ngày 5 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Hôm nay trời lại tiếp tục đổ mưa. Ðến cuối ngày, sau khi đã hoàn tất được năm dặm đường, chúng tôi được bà Nuggett Marcus, là chuyên viên mua bán địa ốc rất tử tế và lịch thiệp, chở chúng tôi về nhà nghỉ qua đêm. Giờ đây chúng tôi đang hong khô quần áo trước lò sưởi.
Hôm nay lúc gần đến ranh giới tiểu bang, có tấm bảng to, với hàng chữ: "Chào mừng đã đến Oregon," như đang mỉm cười nghinh đón chúng tôi dưới cơn mưa. Ông bà Cronks chạy xe ngang qua ra dấu chào từ biệt. Chương đầu của chuyến du hành đã chấm dứt để bắt đầu cho chương mới. Oregon đây rồi! Trời cũng mưa ẩm ướt và con đường cũng dài hun hút thế thôi: Có cái gì gọi là khác biệt sau khi bước qua lằn ranh giới đó hở?
Báo chí cho đăng rất nhiều chuyện về chuyến bái hương của chúng tôi, vì thế lại thêm nhiều người đến thăm hỏi và chúc lành. Số người đến chụp hình chúng tôi nhiều đến nỗi không ngờ được. Những lúc như vậy thì Thầy Hằng Cụ hầu như chỉ biết lo lễ lạy thôi, còn tôi thì phần lớn bao phần đối đáp với mọi người.
Có bà cụ trao tặng ổ bánh bí rợ (pumpkin pie), đã được bao gói cẩn thận và nói: "Sáng nay tôi đã tán tụng các ông với Ðức Mẹ rồi đó!"
Ngày 6 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Qua đến vùng Brooking Oregon, nhờ có kinh nghiệm nên giờ chúng tôi nỗ lực lễ lạy với khoảng đường thật dài vào khu phố mà không ngưng nghỉ. Nhưng khi đến trung tâm thành phố, bị đám người bao quanh hỏi han, nên chúng tôi phải trả lời những thắc mắc cũng mất cả hai mươi phút.
Sau đó họ ngỏ ý mời chúng tôi về nhà một vị Trưởng Lão của thành phố để nghỉ ngơi. Ông Leo Lucas đang cư ngụ trong tòa nhà mà trước đây khoảng sáu mươi năm, ông vốn là học trò ở trường tiểu học nầy.
Ông nói đùa: "Tôi như không bao giờ học hết cấp tiểu học!"
Trong số những người bạn được ông mời đến gặp chúng tôi, có vị Mục Sư trong vùng và ông Gerry Ross, chuyên viên buôn bán bảo hiểm, đi cùng với gia đình. Ông Leo tỏ vẻ rất kính trọng chúng tôi và đã giải thích sơ lược về chúng tôi cho các bạn ông. Ông đặc biệt rất thích thú về việc ngủ ngồi của chúng tôi. Tuổi tác đã không ảnh hưởng gì đến sức tráng kiện, và tâm hồn cởi mở phóng khoáng của ông.
Ngày 7 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Hôm nay khi chúng tôi đang lạy dọc bên bờ vách núi, bỗng có chiếc xe trường học chạy rà tới, thắng ken két ngừng lại. Thì ra là bà Worlton và bà Patterson đang hướng dẫn gồm cả một đoàn bốn mươi học sinh lớp ba ra tận ngoài đây. Sau một lúc cùng nhau trò chuyện, thấy khí trời trở lạnh nên tất cả chúng tôi đều kéo lên xe. Ðáp lời yêu cầu của hai cô giáo, nên Thầy Hằng Do dạy các em học hành chăm chỉ. Còn tôi thì khuyên chúng nên hiếu thuận chăm sóc mẹ cha. Sau đó là phần các em tự do phát biểu thắc mắc và một loạt câu hỏi đã đề ra như: Tại sao các ông phải mang theo đồ đạc? Mấy ông ăn cái gì? Ðêm đầu tiên ngủ ngoài trời các ông có sợ không?
Buổi chiều ông Leo Lucas lái xe đến kể rằng, tối hôm qua bạn ông lúc đầu cứ tưởng chúng tôi thuộc loại điên, nhưng sau một lúc trò chuyện mới cảm thấy bắt đầu thích thú về đạo Phật. Ông Leo ra về, nhưng không đầy một tiếng sau lại có chiếc Cadillac lớn, màu đen ngừng phía sau chúng tôi.
Sư Hằng Do thấy vậy nên nói thầm: "Ố ồ! mật thám FBI!"
Nhưng không phải, mà đó là Ông Gerry Rose cùng với ba người bạn làm ăn chung hãng.
Ông nói: "Xin các ông làm ơn lập lại những lời đã nói hôm qua về quan niệm của người Phật tử đối với thiền định và giải thoát, cho các bạn tôi nghe với!"
Và rồi sau một lúc giảng giải trên bờ dốc đá đầy gió táp, chúng tôi lại tiếp tục lên đường.
Tối đến chúng tôi nghỉ đêm tại gia đình nhà anh Jim Stalcup ở Brookings. Anh Jim vốn theo dòng tu Rosicrucia, hiện đang sống trong căn nhà do chính tay anh xây cất trên sườn núi. Buổi tối chúng tôi lo chế ráp bánh xe đạp vào chiếc xe kéo. Vừa trở về phòng thấy có mấy chú sóc mõm nhọn thân thiện đang chạy quanh quẩn. Chúng hiền từ, nhè nhẹ ăn mấy miếng thức ăn của chó ngay trên tay chúng tôi.
Ngày 8 tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Sau ngày lễ lạy, chúng tôi nghỉ tại nhà cặp vợ chồng trẻ Daryll và Jan Whirry ở Brookings. Hai anh chị nầy có mời vài người bạn đến để đàm luận Phật Pháp với chúng tôi. Sau đó họ còn kể lại những tin tức đang đồn vang đây đó. Có chuyện đồn rằng chúng tôi là những người tiên phong, khởi xướng phong trào tu sĩ, khoảng bốn trăm vị đang lễ lạy ở vùng ven biển. Lại có tin khác bảo rằng chúng tôi đang bị nhiều người ném liệng rác rưới, lon hũ vào mình, và đặt gọi chúng tôi qua nhiều danh hiệu như là Thiên Thần, là anh em quyến thuộc của yêu ma, là người đến từ Hỏa Tinh, hoặc là các đức Lạt Ma từ Tây Tạng đến. Một ông tên Norman, chế nhạo kể rằng- ông chủ của ông đã vẻ kiểu một cái cân máy cho sư Hằng Cụ, ý như khi Sư lạy xuống, và đứng lên thì không cần phải cố ráng sức chi cho mệt.
Có Bà nói: "Nhờ các ông đi ngang qua đây nên dân chúng vùng Brookings đã học được một bài học kinh nghiệm thật tế."
Thật vậy, với kinh nghiệm nầy đều tốt cho cả đôi bên.
Ngày 9 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Bà góa phụ Witherspoon, chủ nhiệm tờ báo East Coast đã về hưu, mời chúng tôi tạm nghỉ qua đêm ở nhà bà. Bà ép mời chúng tôi uống sữa nóng, và cả buổi tối hôm đó chúng tôi cùng bàn luận về Phật Pháp. Nhưng đến khoảng 11 giờ đêm, khi chuẩn bị đi ngủ, bà bảo rằng sẽ mời chúng tôi sáng mai cùng Bà đi lễ nhà thờ. Ngủ được một giấc năm tiếng, chúng tôi nhè nhẹ rời khỏi nhà để tiến thẳng ra mặt lộ trước khi mặt trời ló dạng. Ðối với đạo Phật thì tất cả thế giới đâu đâu cũng là nhà thờ của chúng ta, và mỗi ý niệm là một lời cầu nguyện.
Ngày 10 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Hôm nay có chiếc xe chạy qua ném cho chúng tôi tờ báo Coos Bay World, đã được cuốn tròn lại. Thấy có bài đăng ngay trên trang đầu, do bà Marge Barret viết về chúng tôi. Tuy nhiên nội dung bài nầy chỉ có một lỗi thôi!
Nguyên trước đây Thầy Hằng Cụ có kể cho bà nghe về chuyện bị chọi lon bia bay phớt qua lúc ở California, và nói rằng chuyện xảy ra vào buổi lạy (bow) kết thúc trong ngày. Nhưng báo lại đăng: "Có người ném một lon bia đầy vào họ - đó cũng là trận nổ (blow) kết thúc trong ngày." Cũng gần đúng đấy!
Chúng tôi dựng lều trong một lùm cây nhỏ. Mưa đổ xuống ào ạt. Có mấy em trai nhỏ tò mò đến nhìn chúng tôi đang tập võ Thái Cực Quyền. Tối hôm đó, có em tên Chip trở lại. Cậu bé tỏ ý muốn thành thầy tu (monk), nên sư huynh nói đùa "Muốn thành chipmonk hả?" (phim hoạt họa Chipmunk). Trời lại đổ mưa, em Chip đứng bên ngoài cố nép mình sát vào lều, thành tâm thăm hỏi về pháp tu theo đạo Phật. Thế rồi chúng tôi mời em vào lều và cậu bé bắt đầu kể những kinh nghiệm lúc em một mình vào rừng để săn nai: "Lúc đó em ngừng một chút để nghỉ, và...và... mà thôi! Em cũng không nên nói láo. Em ngừng là để hút thuốc, nhưng khi nhìn lên thấy có con nai đực to lớn đứng nhìn em trân trối, cách khoảng hai mươi bước. Em liền ôm cây súng nhắm thẳng vào nó Ố nhưng lại không nở bóp cò." Một lúc sau, cậu bé nầy lại nhắc đến chuyện muốn trở thành thầy tu. Tôi bảo, đây là quyết định mà mỗi người phải tự mình định lấy, nên chúng tôi không thể bảo em nên làm gì. Cậu bé có vẻ già dặn hơn nhiều so với lứa tuổi mười bốn của nó.
Ngày 11 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Suốt cả tuần nay, ông bà Simon, cặp vợ chồng về hưu ở vùng Wisconsin, mỗi ngày đều đến cung cấp nước và thức ăn cho chúng tôi. Họ sống trong chiếc xe với đầy đủ tiện nghi của căn trailer (nhà di chuyển được), và hiện trụ lại vài tháng ở vùng ven biển. Hầu như ngày nào họ cũng chạy rong rong quanh vùng để ngắm cảnh. Mỗi sáng khoảng mười giờ là thấy họ chạy ngang qua. Ông Simon cho biết rằng chúng tôi chỉ còn khoảng bốn mươi dặm nữa là ở ngay khoảng giữa vùng San Francisco và Seattle.
Thầy Hằng Do báo cáo tình hình bánh xe đạp mới lắp ráp vào xe kéo, tốt hẳn hơn mấy bánh xe nhỏ tám phân trước đây. Chúng tôi cũng có mấy dụng cụ vặn ốc nho nhỏ, dùng để siết lại mấy cây căm. Tôi phải siết chặt chúng cho đến khi nghe tiếng quay đều đặn. Theo cách nầy mới biết chúng đang chia sẻ công việc đồng đều với nhau.
Ngày 12 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Ði vừa gần đến sông Pistol (Súng lục), có cậu thanh niên từ trong xe bước ra, rồi quỳ xuống cầm tay tôi trịnh trọng cầu nguyện. Anh nầy đang trên đường đưa đám táng thân phụ, nên có ý nguyện muốn cha mình sẽ được lên thiên đàng, không bị đọa địa ngục. Tôi bảo chuyện nầy thì tùy vào nghiệp lực của ông cha khi còn sống. Nghe vậy anh mới có vẻ khuây khỏa rồi lên xe chạy đi.
Cô Nina Stansell và Trudy Reid có ghé lại, giúp chúng tôi đi gởi thơ, và còn tặng cho trà nóng nữa. Nina vốn là thông tín viên cho ty cảnh sát quận Curry, bảo rằng cả tuần nay cô vẫn thường nghe máy radio và điện thoại truyền rao lốp đốp về chúng tôi. Cô còn nói rằng chuyến bái hương nầy đã có ảnh hưởng khiến người ta biết dừng chân suy ngẫm lại cuộc đời mình và những mục đích theo đuổi các tôn giáo. Nina nhường nhà cho chúng tôi nghỉ đêm, còn cô thì đến nhà Trudy ngủ.
Ngày 13 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Một lần nữa chúng tôi được cô Nina Stansell và Trudy Reid rước đi rồi đưa trở lại vùng sông Pistol. Hai cô ấy tụ họp được một số bạn bè gồm mười mấy người tới nhà để cùng chúng tôi thảo luận về triết lý đạo Phật, kéo dài mấy tiếng đồng hồ. Một cô tên Mercedes nói rằng khi cô lái xe ngang qua xa lộ, lần đầu tiên thấy chúng tôi mà cô cứ ngỡ đó là những vị siêu nhân (super man).
Ngày 14 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Phải có định lực lắm mới kiểm soát được tâm tưởng vẩn vơ. Và cũng rất dễ buông mình vào những thói quen trong khi tâm tư đang lơ đễnh ở phương nào. Hiện tại, việc chế phục bản thân quỳ lạy có vẻ rất khả quan. Thân thể chúng tôi cường tráng khỏe mạnh thêm, lại kinh nghiệm được cách ứng phó với nhiều người qua nhiều trình độ, căn cơ khác nhau. Nhưng bây giờ chúng tôi phải dụng công, thật sự tập trung vào những lời niệm Phật, những câu trì chú cho được chí tâm hơn.
Thầy Hằng Do chuyên trì chú Lăng Nghiêm. Chữ "Chú," Mantra là tiếng Phạn. "Mantra" phát xuất từ chữ "Manas," nghĩa là Tâm. Chú còn có nghĩa là "Ðà La Ni," Dharani, cũng là tiếng Phạn, dịch là "Tổng Trì." Cho nên có thể nói một bài Chú hay Ðà La Ni sẽ trì giữ cái tâm lại. Chú Lăng Nghiêm dài nhất và lại có thần lực nhất so với tất cả các bài chú. Mỗi lần tụng chú nầy khoảng hai mươi phút, có tác dụng phá tan những tai ương hoạn nạn, xua đuổi bọn tà ma, và an định tâm loạn động. Quan trọng nhất là chú Lăng Nghiêm lại ẩn ngầm một diệu dụng khai sáng tâm trí cho những ai thật lòng khao khát trí huệ của chư Phật.
Riêng tôi chuyên trì danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm bằng tiếng Trung Hoa: "Nam Mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát." Ðối với tôi cách trì niệm nầy rất có hiệu lực. Nhưng cho dù trì chú, hay niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát, cốt yếu là phải loại bỏ những vọng tưởng để đi đến nhất tâm.
Ngày 15 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Mỗi ngày chúng tôi đều đặn tiến bước, nên số dặm đường cũng được gia tăng. Hôm nay khi đến Bờ Biển Vàng (Gold Beach), tiểu bang Oregon, thì được nhiều nhóm học sinh trung học niềm nở đón mừng. Xe cộ nối đuôi nhau như đang xếp hàng chạy vào rạp chiếu phim ngoài trời để xem cảnh tuồng chầm chậm, lạ đời nầy. Lúc vào trong phố, chúng tôi lại gặp cô Nina Stansell và được cô hướng dẫn đi tham quan nhà giam của quận. Tối đến, em Charles Wykoff, học sinh trung học mười bảy tuổi, mời chúng tôi về nhà nghỉ qua đêm. Trước khi ngưng nghỉ, chúng tôi lạy thẳng hết nửa khoảng đường ra khỏi khu phố.
Ngày 16 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Bà chủ tịch hội Phụ Nữ Tương Trợ Gold Beach cùng đoàn tùy tùng đến chụp hình với chúng tôi, và chúng tôi cũng đã đóng góp cho hội nầy mười đồng. Khi đi ngang qua khu phố, thấy tiệm bán dụng cụ thể thao, phía trên treo bảng hiệu lớn, gắn điện với hàng chữ: "Chào mừng Hằng Cụ và Hằng Do, chúc bạn chuyến đi tốt đẹp." Quả Pháp và Quả Hồi mang cơm đến từ San Francisco cho chúng tôi. Tối xuống chúng tôi nhận lời mời về nhà ông bà Starr ở Gold Beach ngủ nghỉ.
Theo sự tính toán mới đây, thì chúng tôi đã đi được 475 dặm đường rồi.
Ngày 17 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Cha Welch, thuộc thánh đường Episcopal, đến chúc lành chuyến đi cho chúng tôi. Trong mấy ngày qua vì có rất nhiều người đến thăm hỏi, nên danh tánh tên tuổi của họ, chúng tôi thật không tài nào nhớ hết được. Ðôi lúc gần đây tôi có cảm giác như mình đang trụ yên một chỗ, trong khi cảnh vật thế gian đang diễn biến quanh tôi.
Ông John Andall cư ngụ vùng Gold Beach, giúp chúng tôi một nơi để an nghỉ qua đêm. Ông kể chuyện lúc xưa thường đi săn và câu cá, nhưng từ khi chứng kiến cảnh đau khổ chết bất ngờ trên bàn mổ của người vợ trước, từ đó ông nhất định sẽ không bao giờ làm những chuyện có tính cách sát hại nữa. Nghe vậy chúng tôi rất tán thành vì ông làm như thế là phù hợp với giới đầu tiên "Không Sát Sanh" của người Phật tử.
Lúc chiều tối, chúng tôi đem đồ đạc trong xe kéo ra để cạo sạch những chỗ rỉ sét trước khi sơn mới lại.
Ngày 18 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Nếu tính cả những lúc ngừng nghỉ, trung bình mỗi ngày chúng tôi lễ lạy được bốn miles (gần sáu km rưỡi) và theo như dự định hiện tại, chúng tôi có thể sẽ đến vùng Marblemount vào khoảng tháng Chín. Hôm nay có một tín đồ dòng Pentecostal Thiên Chúa Giáo tìm đến khuyên chúng tôi vào đạo. Bà nói luôn miệng không dứt cả nửa giờ để thuyết phục, trong khi chúng tôi cũng cố ráng mà dùng cơm trưa. Bà vẫn hăng say thao thao bất tuyệt, với chủ tâm muốn chuyển hóa chúng tôi ngay tại chỗ. Nghe bà ngỏ ý muốn tặng một cuốn Thánh Kinh, chúng tôi liền bảo là đã có ba cuốn rồi, nhưng bà nhất quyết buộc chúng tôi nhận lấy rồi mới ra về.
Ông Dale Erickson, chuyên viên sửa máy truyền hình, là Phật tử duy nhất ở vùng nầy đã đến trò chuyện với chúng tôi. Ông tuy có nghiên cứu giáo lý Nam Tông, nhưng không chấp nhận lý thuyết luân hồi. Tối đến chúng tôi ngủ lại nhà của gia đình anh Dick Turnow. Tuy anh bị mất một cánh tay trong tai nạn khai khẩn cây rừng, nhưng không vì vậy mà làm chướng ngại công việc của anh, cũng như lái xe và trách nhiệm làm một người cha tốt. Anh cho chúng tôi xem cuốn phim về ngành kỹ nghệ gỗ trong vùng do chính tay anh quay lấy. Gia đình họ Turnow nầy là những tín đồ Thiên Chúa giáo rất tín tâm và biết áp dụng theo những giáo điều căn bản.
Ngày 19 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Chúng tôi đang lạy dọc theo bờ biển tuyệt đẹp vùng Oregon, thì hai cô Nina và Trudy từ vùng sông Pistol đến tặng mấy đôi vớ mới. Cô Nina nói là muốn giữ lại đôi giầy ống (boot) cũ của chúng tôi để làm vật kỷ niệm. Sư huynh nói đùa rằng mấy chiếc giầy đó có thể làm bình cắm hoa cũng tốt lắm.
Trời về chiều, ông bà Braun vốn đã về hưu, trước đây sinh sống ở miền Ðông, nay dọn về vùng Port Orford, đến hỏi thăm chúng tôi. Ðược biết ông Braun có thói quen tiêu khiển bằng cách nói chuyện với bạn bè trên thế giới qua những cuồn băng cassettle. Ông yêu cầu chúng tôi giảng giải giáo lý căn bản của đạo Phật vào cuồn băng, để ông gởi cho người bạn mù hiện ở nước Anh. Cuộc gặp gỡ nầy cũng khá thú vị.
Chúng tôi dựng lều trên bờ biển, với ánh lửa trại phía trước và buổi tọa thiền cũng vừa chấm dứt. Tất cả những khúc cây trôi tấp vào bờ biển nầy, đều dính lốm đốm những vết dầu cặn, như lời Sư Phụ thường nói: "Bởi tâm chúng sanh ô uế nên cả thế giới cũng trở thành ô nhiễm theo."
Ngày 20 Tháng 3 năm 1974. Hằng Do viết:
Lạy qua vùng núi Humbug, rồi dọc theo lên dãy đồi, bên cạnh là những triền dốc đá biển. Tuy trời chẳng mưa, nhưng bị luồng gió biển thổi mạnh vào làm chúng tôi cũng muốn ngất ngư. Ðến vùng Oregon nầy cũng đã được vài tuần lễ, thay vì là những cây cổ thụ hồng mộc, thì giờ đây, một rừng toàn cây sim (myrtlewood), là loại cây quan trọng nhất của vùng. Buổi trưa trời trở nên thật nóng bức, ánh nắng gay gắt như muốn nướng cháy da thịt chúng tôi. Cần cổ Thầy Hằng Cụ bị ửng đỏ trông giống như con tôm luộc vậy! Nhưng cũng may, có người tốt bụng khi đến trò chuyện, thấy vậy liền tặng chai thuốc thoa chống nắng. Chúng tôi đang cắm lều trên bãi đất trống nhỏ gần bên con lộ.
Ngày 21 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Hôm nay sau khi lạy được năm dặm, lúc vào đến Port Orford thì trời sụp tối, nhưng chúng tôi cảm thấy vẫn còn sung sức nên hăng hái lạy tiếp. Ðến ranh giới thành phố, có đám đông khoảng ba mươi người bao quanh chúng tôi để phỏng vấn cũng gần cả hai mươi phút.
Ðến giữa khu phố, có quán rượu nằm bên xa lộ, phía bờ biển. Khi tiến tới gần, tôi thấy có vài người đang tới lui trước quán và nghe họ chuyện trò với nhau. Một ông nói: "Lẹ lên! Lại đây mà xem, họ đang đi đến kìa!"
Tôi định băng qua bên kia đường, nhưng thấy cũng trể rồi, đành phải lạy thẳng ngang qua quán rượu. Càng đến gần hơn, tôi thấy họ ùa nhau chạy lòng vòng như phát cuồng trước cửa tiệm. Lúc đó tôi cảm thấy mọi cơ quan trong cơ thể như căng thẳng để chuẩn bị đối phó. Ðồng thời trong đầu tôi vang lên mạnh mẽ những âm thanh thời xưa cũ: "Thủy binh dàn trận ngư lôi! Thủy binh dàn trận ngư lôi!"
Nhưng sau đó tôi bắt đầu định tâm niệm danh hiệu Bồ Tát, và tiến thẳng về phía mấy ông trước quán rượu. Có khoảng bảy, tám dân nhậu trong quán kéo ra. Một ông say thô lỗ nhất trong đám, tỏ vẻ bực tức và bắt đầu chạy theo tôi. Khi đến gần chỉ cách khoảng vài phân thì hắn la lớn: "Nầy! Chúa Jesus đầu trọc! Mầy nghĩ là mầy đang làm cái giống gì vậy hả?" Hắn hăm he như muốn đá tôi và luôn mồm la hét những lời chưởi rủa, mà đây tôi không muốn lập lại làm gì. Trong khi đám người còn lại chỉ đứng nhìn theo.
Tôi cũng ngạc nhiên về phản ứng của mình trong suốt tình cảnh vừa qua. Ðời tôi đã có sáu năm từng ra vào các quán nhậu, nên tôi cũng hiểu được phần nào về hành động của ông say nầy, thật ra cũng chẳng có ý gì. Vì đặt niềm tin vào quyền lực gia hộ mạnh mẽ, nên trong suốt cuộc đụng độ nầy tôi chẳng có chút gì sợ hãi cả. Tôi tiếp tục lạy thẳng qua đám đông một cách đều đặn, không nhanh cũng không chậm, xem như chỗ không người. Cuối cùng bọn họ cũng phải giạt tránh ra và anh chàng hung hăng đó vẫn tiếp tục quạu quọ, nói như mê sảng với những lời rỗng tuếch. Nhưng rồi cũng không có chuyện gì nghiêm trọng xảy ra.
Ông bà Tubb là tín đồ đạo Thiên Chúa rất ngoan đạo, từ vùng Port Orford đến chở chúng tôi về nhà nghỉ qua đêm.
Ngày 22 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Hôm nay có cậu thanh niên trẻ thay mặt mẹ là bà Kilpat Rick, cầu xin chúng tôi ban phước lành đến nhà họ. Thế là chúng tôi tạm ngừng lễ lạy để đến nơi xem xét tình hình. Lúc đó mẹ em đang ở sở làm, nên chúng tôi dâng hương và trì vài biến chú Ðại Bi. Tôi có giải thích rằng một ngôi nhà thanh tịnh chính là ở nơi tâm thanh tịnh, nếu mọi người cố lòng giữ tâm đừng để vướng bận bởi những tham lam, sân giận, cũng như không hút sách, rượu chè thì dần dần, dù họ ở bất cứ nơi đâu cũng sẽ trở thành thanh tịnh.
Sau đó chúng tôi trở ra và tiếp tục lễ lạy. Có một bà đến thăm hỏi, nhưng lại bắt đầu khóc thút thít. Hỏi ra mới biết là vì bà quá lo lắng đến tình trạng sức khỏe và sự an toàn của chúng tôi.
Nhiều tài xế xe hàng chở gỗ rất thân thiện đã ngừng lại. Có anh lái chiếc xe to tướng chở gỗ đã ba ngày đường, đến tặng chúng tôi gói bánh mì lát (sandwiches) mà cô vợ đã chuẩn bị sẵn cho anh.
Ông bà Braun mà chúng tôi đã gặp qua trước đây, hôm nay lúc xế chiều, ông bà lại đến chở chúng tôi về nhà ở Port Orford. Chúng tôi vì không thể nào từ chối lời mời mọc của nhà bếp, nên rồi cũng đã sản xuất được một mâm bánh mì bagel và chia phân nửa cho hai ông bà. Tối đến ông Braun yêu cầu chúng tôi dạy phương pháp tu thiền để ông thâu vào băng. Nhờ có kinh nghiệm với những lúc tiếp xúc với nhiều người gặp bên đường, nên nay tôi mới có thể giảng giải vài căn bản về môn thiền rõ ràng hơn so với mấy tháng trước, khi mới bắt đầu cuộc du hành.
Ngày 23 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Có chiếc xe kéo theo căn nhà loại di động, mobile home, chạy ngang qua với tốc độ khoảng sáu mươi dặm một giờ, phát ra giọng nói thật to vang trùm cả một vùng: "Chúc quí vị được một ngày vui vẻ!" Có lẽ xe nầy có gắn máy phóng thanh, cho nên mới nghe lớn dữ vậy.
Khi chúng tôi lạy ngang qua bảo tàng viện của người da đỏ, thì được mấy vị hướng dẫn mời vào tham quan. Trong số đồ vật được trưng bày, thấy có một cây côn nghi lễ dân da đỏ, được dùng để đánh những ai hát sai nhịp điệu. Theo tục truyền, khi trừng phạt, họ có thể đánh người đến chết.
Ðánh người cho đến chết là chuyện quá đáng. Thật ra bây giờ và cả về sau, Phật giáo không phản đối việc trừng trị bằng biện pháp mạnh Ố nói theo tâm lý học Ố nếu là để giúp kẻ lầm mê quày về nẻo chánh. Tôi nhớ có câu chuyện đã làm rúng động cả thiền đường Phật giáo cũ kỹ ở phố Tàu. Chuyện xảy ra vào năm 1970, trước khi tôi xuất gia. Lúc đó hầu hết chúng tôi đều nghĩ rằng sống ở chùa, tuân theo giới luật là đã khó rồi, nhưng khi ra khỏi phạm vi nhà chùa thì việc giữ giới lại càng khó khăn hơn, nhất là đối với những người có tập khí nặng nề như chúng tôi. Có nhiều vị đến chùa tu tập được một thời gian, lần hồi vun bồi được một ít chí khí, nhưng khi trở về với thế gian trần tục, thường thì những chí khí đó đều bị thổi bay mất hết. Thế nên có chú thanh niên trẻ tuổi, sống ở chùa cũng được vài tháng, cũng đã thọ qua Ngũ Giới, mà trong giới thứ năm là cấm uống rượu, kể cả hút thuốc lá. Nhưng vào một đêm, anh chàng nầy vì không thể nào nhịn được nữa, bèn lén ra phố bằng cách leo xuống cầu thang treo, rồi biến mất dạng đến ba, bốn tiếng đồng hồ. Khi trở về, thấy mọi người vẫn còn chìm trong giấc ngủ nên anh ta tin chắc rằng không ai hay biết gì. Nhưng sáng hôm sau, trong khi tất cả chúng tôi đang tọa thiền, Sư Phụ bèn lại gần bên chú ấy, rồi cuộc đối thoại diễn ra như sau:
"Hồi tối nầy ngươi đi đâu vậy?"
"Ơ! ơ! dạ! Thưa chuyện gì ạ?"
"Hồi tối nầy ngươi đi đâu?"
""Dạ, dạ, con, con, con chỉ ra ngoài đi dạo một chút thôi!"
"Hả? Vậy chớ ai đã cho ngươi thuốc hút?"
"Ơ! a! Con mua ở cây xăng. Con chỉ muốn đi dạo vòng vòng và hút thuốc thôi!"
"Chỉ có đi bộ và hút thuốc thôi hả? Vậy chớ sao ngươi phải lên xe buýt?"
Sợ quá nên phát run lập cập:
"Con, con, con muốn đi tới công viên Golden Gate, nhưng đi bộ không nổi vì xa quá."
Với giọng như chọc thủng lổ tai:
"Còn người đàn bà trên xe buýt thì sao? Tại sao ngươi phải mời nó hút thuốc hả?"
Ðến lúc nầy thì khóc sướt mướt và rên rỉ như chó tru:
"Con đã không có làm gì hết, sau đó con xuống xe. Mà ai đã nói cho Sư Phụ biết vậy?"
"Không ai hết!"
"Vậy sao Sư Phụ biết được?"
"'Vậy ngươi có biết không?"
"Dạ biết!"
"Vậy thì chính ngươi nói cho ta biết đó!"
Ðến đây, Sư Phụ mỉm cười và cú giỡn trên đầu chú ba cái, xong mới trở về phòng. Ai nấy chứng kiến cảnh nầy cũng đều toát mồ hôi.
Ngày 24 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Ðang lễ lạy dọc bên con lộ chật hẹp, bỗng có anh tài xế cố ý lái trợt vào lề với tốc độ thật nhanh, gần sát chúng tôi. Bị cảnh như thế cũng mấy lần, chắc họ thấy chúng tôi di chuyển sao mà chậm lục quá, nhưng cũng chưa có tai nạn gì xảy ra. Hy vọng đến ngày viên mãn chúng tôi sẽ không bị trục trặc gì.
Chiều đến ông bà Dahl cùng con trai là Tom, tới chở chúng tôi về nhà ngủ qua đêm. Ông Dahl hiện đã về hưu, căn nhà của họ tọa lạc giữa những cánh đồng bao la toàn cây Cranberry (nham lê). Tôi tưởng chỉ có vùng Cape Code ở tiểu bang Massachusetts, nơi tôi nhiều lần đến nghỉ hè, mới là chỗ duy nhất sản xuất lượng lớn cranberry. Nhưng không ngờ hôm nay mình lại đến đúng vùng sản xuất trái cranberry lớn nhất thế giới. Gia đình họ Dahl tặng chúng tôi thực phẩm và vật dụng. Thầy Hằng Cụđánh dấu lần đầu tiên được nghỉ lại nhà họ Dahl.
Ngày 25 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Ông bà Mục Sư Augsburger mời chúng tôi dùng cơm trưa ở viện dưỡng lão của họ, gần vùng Bandon. Sau đó Mục Sư cởi xe gắn máy BMW đến thăm mọi người, trong khi bà Augsburger dắt chúng tôi đi tham quan khu nhà dưỡng lão. Bà tiết lộ bí mật là đang có một "âm mưu" của những tín đồ Cơ Ðốc Giáo dòng Pentecostal ở quanh vùng, muốn chuyển hóa hai chúng tôi vào đạo và các nhân vật đại diện từ mỗi giáo phận trong tỉnh đã được gọi điện mời đến để thuyết phục chúng tôi. Chúng tôi cũng quên mất là mình đã có bao nhiêu cuốn Thánh Kinh rồi, vì đã tặng lại cho các thư viện ở dọc đường. Mặc dầu bà Augburger là tín đồ của Episcopal (Tân Giáo) rất ngoan đạo, nhưng bà cũng đã bảo rằng việc chúng tôi đang làm rất có giá trị, nên nghĩ rằng chúng tôi chẳng cần phải chuyển đạo làm gì.
Ngày 26 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Hôm nay gồm đủ mọi thành phần như học sinh, nội trợ, thợ mộc, nông phu chuyên trồng cranberry, đã lần lượt đến thăm hỏi khi chúng tôi đi ngang qua khu Bandon, một trong những trung tâm chuyên trồng cranberry. Chiều tối chúng tôi nhận lời mời của gia đình Erdman về nhà ngủ nghỉ. Ông Mike và bà Marylyn Erdman là tín đồ Thiên Chúa Giáo, nhưng tình cờ lại trưng bày tượng Bồ Tát Di Lặc ngay tại phòng khách của họ. Nghe bà Marylyn hỏi rằng tôi có biết gì về tượng nầy, thế nên tôi kể chuyện về ngài Di Lặc, tức ông Sư mang túi vải.
Ngày xưa có ông Sư già, dáng dấp to béo, thường đi lang thang cùng khắp nước Trung Hoa với túi vải làm hành trang luôn vác trên lưng. Ông lúc nào cũng cười tươi vui vẻ, bất luận dù gặp ai, thì ông sẽ hỏi xin nầy nọ, hoặc sẽ tặng cho một món đồ. Trong đạo Phật, làm như vậy là để tạo duyên với mọi người (người Tàu thường có câu là "Kết Duyên".) Mọi người ai cũng tin rằng ông Sư to mập đó chính là hóa thân của Bồ Tát Di Lặc.
Rồi một hôm, có viên quan chức nghe tin đồn về Lão Sư nầy, và tình cờ trên đường đi lại gặp được Sư nên rất đổi vui mừng. Không bỏ qua cơ hội tham vấn vài câu giáo lý Phật Pháp, ông liền nói: "Xin Ngài giảng rõ thế nào là đại ý Phật Pháp?"
Lão Sư mập không nói một lời mà chỉ mỉm cười vui vẻ, rồi để cái túi vải xuống đất. Vị quan ngơ ngẩn đứng nhìn một lúc lại nói: "Ủa! Vậy thôi sao! Phải còn cái gì hơn thế nữa chứ? Tôi muốn biết về giáo lý tối thượng thừa!"
Ðến đây, vị Sư từ từ cúi lượm cái bị lên, hoàn toàn chẳng nói một lời nào mà lại bỏ đi một nước. Ðó là giáo lý tối thượng thừa của Phật Giáo.
Ngày 27 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Khi đến vùng Bandon về hướng bắc, có hai ông bà nông dân vốn chuyên trồng cranberry, nay đã về hưu, đến chở chúng tôi tới tiệm để mua sắm giầy vớ và nha sĩ Soper đài thọ chi phí. Chúng tôi đi ngang qua sông Coquille dưới cơn mưa bão nặng nề. Bây giờ lộ trình lại dẫn vào phía trong nội địa. Còn khoảng hai mươi dặm nữa là chúng tôi sẽ đến khu bến tàu và thành phố Coos Bay.
Ông Don Hultin cũng là nông dân chuyên trồng cranberry, chạy xe cam nhông đến để chở hai ông Tỳ Kheo đã bị ướt sũng về nhà. Sau khi được hong khô ráo và tọa thiền, vài người hàng xóm của ông Don đến trò chuyện với chúng tôi về chuyến bái hương. Có vài lý do gì đó nên Thầy Hằng Cụ hát một bài về Vu Lan bằng tiếng Trung Hoa. Tuy không hiểu tí gì, nhưng sau đó họ rất chăm chú lắng nghe những gì sư huynh tôi nói. Thì ra qua bài hát, Thầy đã gây được sự chú ý của mọi người.
Lúc tôi giới thiệu với họ vài cuốn sách do Chùa Kim Sơn xuất bản, thì có một thiếu phụ đăm đăm nhìn hình đức Phật ngồi trong tư thế kiết già. Trong phút chốc, khi chợt bắt gặp thái độ của bà đối với bức ảnh, lòng tôi dạt dào một cảm giác tuyệt vời. Tôi như thấy được rằng thiếu phụ nầy đang gieo chủng tử lành vào tâm thức cho quả giác ngộ tương lai. Tôi không biết là một người phải trải qua bao nhiêu ức kiếp trước khi những chủng tử mới bắt đầu nẩy nở. Nhưng đối với tôi, xem đó như trong chốc lát, vì quá khứ, hiện tại, và vị lai sẽ trở thành hợp nhất, và nghiệp duyên của thiếu phụ nầy cho tôi thấy là một ngày nào đó bà cũng sẽ thành Phật.

Ngày 28 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Mấy ngày nay thời gian thắm thoát trôi qua thật nhanh, cũng như những bước tiến vững vàng. Chúng tôi có tiến triển thành công rồi.
Buổi chiều, sau một ngày lễ bái, ông Jimmy Olson, vốn là bạn của ông Don Hiltin, đến rước chúng tôi. Thật không ngờ ông nầy có tới năm mươi mẫu đất, mà hầu như chỉ trồng toàn Cranberry. Sau giờ tọa thiền, chúng tôi có cuộc đàm luận về giáo lý rất sống động. Vì thế chúng tôi mới thấy rõ hơn là ông Jimmy đã từng nghiên cứu nhiều về triết lý Tây Phương và thích tranh cãi với những Mục Sư trong vùng.
Ngày 29 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Cụ viết:
Sáng nay là một trong những lúc tôi cảm thấy bầu không khí ngột ngạt với bao nhiêu là phiền não và đắng cay. Hầu như không có cách gì để xua đuổi chúng cho khuây khoả. Bởi vì tôi đang giận Sư đệ với những lý do dại khờ hay sao đó. Tuy biết rằng không nên như vậy, nhưng tôi vẫn không thể nào gạt bỏ được những phiền não trong lòng. Tôi bắt đầu chí tâm niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, hy vọng với lòng từ bi và quyền năng diệu dụng của Ngài sẽ giúp tôi. Vừa nghĩ đến đó, tôi chợt nhìn lên thấy có chiếc xe truck cũ kỹ ngừng lại bên đường, có hai người đàn ông bước ra dìu theo một thiếu nữ mù. Cả ba cùng tiến về phía tôi và Thầy Hằng Do cũng đến gần. Thiếu nữ độ ba mươi tuổi, đến hỏi tôi có phải là ông Thầy lễ lạy hành hương mà cô đã nhiều lần nghe đồn không?
Tôi đáp: "Thưa phải."
Rồi cô nắm giữ lấy tay tôi một lúc và tất cả đứng trong im lặng. Khi đó tôi cảm thấy bao nhiêu phiền não trong lòng chợt tan mất, bù vào là một sự ấm áp nhẹ nhàng của ánh nắng mặt trời.
Một lúc sau, cô lên tiếng: "Ông quả thật là người an lạc, tôi có thể nhận được điều đó."
Cô còn bảo là rất hoan hỷ về việc làm của chúng tôi, cũng như có rất nhiều người luôn theo dõi từng bước tiến của chúng tôi. Họ ra về và đồng thời những phiền não của tôi cũng hoàn toàn không còn nữa.
Tối đến, ông Jimmy Olson đưa chúng tôi về trang trại của ông.
Ngày 30 tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Chúng tôi lễ lạy trong cơn mưa suốt buổi sáng nầy. Bà Dahl đem đến một ổ bánh mứt chanh (lemon pie) vừa mới nướng cho chúng tôi ăn trưa. Ðây là một trong những vùng thân thiện nhất mà chúng tôi đã đi qua. Nhớ lại lúc chúng tôi vừa khởi sự chuyến đi được hai tuần, có một đoàn ký giả săn tin cho đài truyền hình ở San Francisco đến phỏng vấn. Lúc đó tôi thật không tự nhiên, mập mờ trả lời những câu hỏi như: "Các ông đang làm gì và tại sao?" Nhưng bây giờ sau những ngày tiếp chuyện với hàng bao nhiêu người, tôi cảm thấy dễ dàng hơn khi giải thích về lý do cũng như việc mình làm. Nhờ vậy khiến sự đối đãi của mọi người với chúng tôi cũng khác đi. Và nếu họ không thể nào "hiểu nổi" những gì về chúng tôi, thì đối với họ chúng tôi vẫn như là một cặp điên khùng trong số những người khùng điên. Tuy nhiên, nếu chúng tôi có kinh nghiệm trong việc đối đáp, giải bày lý do rành rẽ về chuyến đi, dù họ có hiểu được chút ít đi nữa, thì sự chào đón sẽ thân mật và có ý nghĩa hơn.
Một lần nữa ông Hultin lái xe truck đến rước chúng tôi. Biết ông đang nghiên cứu về Phật giáo, nên chúng tôi cũng cố đem hết những hiểu biết của mình để giải thích hàng lô câu hỏi thắc mắc của ông. Ðồng thời ông cũng đã bày vẽ cho chúng tôi về nghệ thuật trồng cây cranberry (nham lê).
Ngày 31 Tháng 3 Năm 1974. Hằng Do viết:
Chúng tôi lạy vào khu hải cảng của Coos Bay trong một ngày ướt át, ngang qua một công ty khai thác gỗ hỗn tạp Weyerhauser, tọa lạc dọc bên vịnh. Hải cảng gỗ này có thể nói là lớn nhất trên thế giới, tàu bè từ khắp nơi đổ về để chuyên chở. Vì hôm nay là chủ nhật nên ở đây có vẻ yên tĩnh hơn. Có vài người dừng lại hỏi chuyện, trong khi rất nhiều người chỉ đứng nhìn thôi. Như khi Thầy Hằng Cụ lạy ngang qua một tiệm ăn, đã có hàng trăm con mắt mở to hướng nhìn từng nhịp bước của Sư. Hôm nay chúng tôi lạy tổng cộng được bảy dặm để ra khỏi vùng Coos Bay và North Bend.
Người đàn ông mà cách nay vài tuần đã dừng lại xin cầu nguyện cho ông bố mình, có để lại số điện thoại và nói khi chúng tôi tới vùng Coos Bay thì xin gọi cho anh biết. Nhưng khi tôi gọi điện thoại thì anh ta lại hỏi: "Ai vậy?"
Tôi đáp: "Tôi là Hằng Do."
Anh nầy có vẻ hơi say rượu, quên mất tôi là ai, nên trả lời rằng: "A , phải rồi ! Còn ta là Ngốc văn Nghếch đây!"
Hôm nay vừa đến mức nửa đoạn đường, nên nhân dịp nầy chúng tôi đón xe buýt trở về tu viện Kim Sơn để tham dự khóa thiền mùa xuân. Chúng tôi sẽ tạm rời con lộ trọn một tháng.
Hình: Hằng Cụ đứng bên tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhản Ðại Từ Ðại Bi Quán Thế Âm, cao hơn 5 mét (18 feet) bằng gỗ long não. Tượng nầy nay được ngự tại chánh điện chùa Vạn Phật Thánh Thành ở Talmage, California.
---o0o---



tải về 2.46 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương