PHẬt học vấN ĐÁp lão Hòa thượng Tịnh Không Nhóm Hoa Tạng Giảng Ký cung kính ghi chép Nguồn



tải về 450.47 Kb.
trang1/8
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích450.47 Kb.
#26070
  1   2   3   4   5   6   7   8
PHẬT HỌC VẤN ĐÁP


Lão Hòa thượng Tịnh Không 
Nhóm Hoa Tạng Giảng Ký cung kính ghi chép

Nguồn

http://niemphat.net

Chuyển sang ebook 19-6-2009

Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com

Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục

1.NIỆM PHẬT

2.TU TRÌ


3.TỬ SANH

4. NHÂN QUẢ

5.SANH HOẠT

6.GIÁO DỤC

7.HOẰNG PHÁP

8.HOẰNG HỘ (Hộ trì công tác hoằng pháp)

9.BIỂU PHÁP (tượng trưng cho pháp)

10. ÐẠO TRÀNG

11.HỘI TẬP

12.PHẬT HỌC

13. CÚNG DƯỜNG

14.TÔN GIÁO

15.CHÁNH TRỊ

16.SIÊU ÐỘ

17.PHÓNG SANH

18.XUẤT GIA

19.TẠI GIA

20.HIẾU ÐẠO

21.NGHI QUY (NGHI THỨC)

---o0o---



Lời Tựa

Ðức Thế tôn thị hiện tại thế gian này giảng kinh thuyết pháp, giúp cho chúng sanh đoạn dứt nghi hoặc và sanh trưởng lòng tin, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, giải thoát rốt ráo.  Chúng ta có thể thấy phần đông kinh điển đều do các đệ tử của Phật đề ra câu hỏi xin đức Phật Thích Ca giải đáp.  Do đó có thể thấy được khi học sinh có thắc mắc xin thầy giáo giải đáp để xóa hết nghi hoặc, tiến thêm một bước để giải quyết những vấn đề trong sanh hoạt hằng ngày, đây là một quá trình quan trọng trong sự học Phật.  Nay có nhóm Hoa Tạng Giảng Ký (nhóm ghi chép bài giảng) chép lại từ băng ghi âm những giải đáp của lão hòa thượng Tịnh Không trả lời các vấn đề Phật học cho mọi người và chỉnh lý. Chỉnh lý xong, ấn tống để cúng dường đại chúng.  Họ nhờ kẻ mạt học này  viết lời tựa, đành chỉ viết sơ lược vài hàng cho xong trách nhiệm.

Thích Ngộ Ðạo viết lời tựa tại Ðài Bắc  1-7-2003


---o0o---

Bài ghi chép những câu trả lời của Lão Hòa Thượng Tịnh Không giải đáp vấn đề học Phật cho các bạn đồng tu.  Bài này chưa được lão hòa thượng giám định, chỉ là do Nhóm Ghi Chép Bài Giảng Hoa Tạng nghe băng ghi âm rồi chép ra, biên soạn sơ khởi thành cuốn sách nhỏ này để cúng dường độc giả.

---o0o---


1.NIỆM PHẬT


Hỏi:   Nếu mỗi ngày ngủ sớm dậy sớm, cả ngày nỗ lực quy y chiêm ngưỡng, tu hành đúng như lời dạy, diễn giảng cho người khác biết, nhưng từ trước đến giờ chưa dự Phật thất hay tinh tấn niệm Phật suốt đêm, xin hỏi như vậy có thể vãng sanh Tây phương không?

Ðáp:   Dĩ nhiên là có thể.  Tại vì trong ‘ngũ kinh nhất luận’1 không có nói phải tham dự Phật thất mới có thể vãng sanh, và cũng không nói nhất định phải niệm Phật suốt đêm mới có thể vãng sanh.  Chúng ta phải y theo pháp chớ không y theo người.    21-90-09

         



Hỏi:   Má con đã niệm [câu] ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh’ bằng tiếng Nhật hết hai mươi năm, xin hỏi nên khuyên má con niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ như thế nào?

Ðáp:   Ðiều này rất quan trọng, bạn nên lấy việc lợi ích của sự niệm Phật nói cho bà biết.  Niệm [câu] ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh’ bằng tiếng Nhật thuộc phái Nhật Liên Tông.  Quan trọng nhất vẫn là niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, nếu không niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ thì uổng phí mất đời này.    21-90-13

 Hỏi:   Nghiệp chướng cứ hiện ra hoài, xin hỏi đây có phải là vì niệm Phật có công phu không?



Ðáp:   Không nhất định [như vậy], phần nhiều khi nghiệp chướng hiện ra đều làm chướng ngại cho sự dụng công.  Khi công phu đắc lực rồi, nghiệp chướng có thể hiện ra để khảo nghiệm bạn.  Ai đến khảo nghiệm?  Những oan gia chủ nợ đời quá khứ; công phu của bạn đắc lực gần đến Cực Lạc thế giới, họ lo sợ nên đến phá rối, mong cản trở được bạn.  Phần nhiều khi công phu tu hành đắc lực thì thường phát sanh hiện tượng này.  Khi gặp những chuyện này, chúng ta phải thương lượng với oan gia chủ nợ, hy vọng họ đừng gây chướng ngại, khi chúng ta tu hành có kết quả vãng sanh Cực Lạc thế giới sẽ trở lại độ họ, thường thường họ đều đồng ý tiếp nhận.  Bạn vãng sanh về Cực Lạc thế giới sẽ có năng lực để phổ độ chúng sanh.      21-90-41

---o0o---


2.TU TRÌ


Hỏi:   Khi nghe kinh Vô Lượng Thọ [con] cảm thấy rất quen thuộc, có thể khế nhập, nhưng khi nghe kinh Hoa Nghiêm thì cảm thấy rất xa lạ.  Xin hỏi có phải tại cảnh giới chưa tới?

Ðáp:   Ai cũng có đời quá khứ và hiện tại, các bạn đồng tu học Phật chắc chắn không phải đời này mới bắt đầu học Phật, thiện căn của mỗi người đều rất sâu dày.  Các pháp môn mà bạn tu trong đời quá khứ, đời này gặp lại sẽ cảm thấy rất quen thuộc, rất ưa thích; ngược lại nếu chưa học qua, đời này gặp được sẽ cảm thấy rất xa lạ.  Việc bạn hỏi đại khái là đời quá khứ đã tu học [pháp môn] Tịnh Ðộ, đã niệm kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều lần rồi, cho nên khi vừa gặp liền sanh tâm hoan hỷ.  Có lẽ lúc trước chưa học qua kinh Hoa Nghiêm, cho nên khi bắt đầu đọc thì cảm thấy rất xa lạ, nguyên nhân là ở chỗ này.   21-90-03

Hỏi:   Thâm Chấn (gần Hương Cảng) là một thành phố có nền kinh tế khá phát triển, có rất nhiều ‘Phật sống, Pháp Vương Mật Tông’ đến hóa duyên.  Rất nhiều bạn học Tịnh Tông đi quán đảnh, xin hỏi làm như vậy đúng không?

Ðáp:   Ðây là nhân duyên của mỗi người không giống nhau, không thể bàn luận; nhưng phải hiểu rõ ý nghĩa chân chánh của sự quán đảnh không phải ở hình thức.  Trên hình thức, nếu tưới một chút nước lên đầu liền được khai ngộ, như thế chúng ta học kinh giáo làm chi cho cực nhọc quá vậy!  Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đâu cần phải thuyết kinh giảng pháp hết 49 năm, mỗi ngày tưới một chút nước lên đầu thì được rồi.  [Vì vậy chúng ta] phải hiểu rõ đạo lý.

          Bạn đi nhận sự quán đảnh, họ đem một chút nước tưới lên đầu bạn, bạn có thiệt khai ngộ không?  Nếu khai ngộ được thì rất có công hiệu đấy!   Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là Thượng Sư Mật Tông đã giải thích rất rõ trong quyển Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ: ‘quán’ là từ bi gia trì, ‘đảnh’ là pháp môn hạng nhất, thù thắng nhất trong Phật pháp.   Quán đảnh là đem tinh hoa của Phật pháp truyền giao cho bạn, chứ không phải là tưới nước lên đầu.

          Hiểu được điều này, mỗi ngày chúng ta đem kinh Vô Lượng Thọ hoặc kinh A Di Ðà từ đầu tới đuôi niệm một lần tức là đức Phật A Di Ðà đã ‘quán đảnh’ một lần cho chúng ta, niệm hai lần là ngài quán đảnh hai lần cho chúng ta.  Ðó không phải là ‘Mật Tông Nhân Ba Thiết’ (Rinpoche)2 hay ‘Phật Sống’ quán đảnh cho bạn mà là đức Phật A Di Ðà quán đảnh cho bạn, thập phương chư Phật Như Lai quán đảnh cho bạn.  Cho nên nhất định phải hiểu đạo lý của Phật pháp, phải biết cách tu học như thế nào mới đúng.

          Bạn hiểu được thì tốt, khi gặp bạn bè họ hàng cũng nên đem những đạo lý này giải thích rõ ràng cho họ nghe.  Còn vấn đề họ đi hay không thì mỗi người có nhân duyên riêng, không nên cản trở, như vậy thì mới được.      21-90-07 



Hỏi:   Thâm Chấn thường có pháp sư đến để kết duyên và giảng pháp, phần lớn các bạn đồng tu Tịnh Tông cũng có đi nghe.  Xin hỏi như vậy có phải là không chuyên nhất hay không?

Ðáp:   Ðiều quan trọng nhất trong sự tu học Phật pháp là ‘Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu’ (Ði sâu vào một môn, huân tu suốt thời gian dài), tốt nhất là theo học một vị thầy.  Khi nào mới có thể tách rời khỏi thầy giáo?  Tiêu chuẩn của người xưa là phải khai ngộ, tức là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, lúc đó bạn đã tốt nghiệp rồi.  Hồi xưa gọi là ‘xuất sư’, nghĩa là có thể lìa khỏi thầy giáo.  Nếu bạn chưa minh tâm kiến tánh thì không thể tách rời khỏi thầy; nếu tách rời thì bạn nhất định sẽ đi sai đường.

          Ðiều kiện khi tu học trong Tịnh Ðộ Tông không cao như vậy, chỉ cần đạt đến mức công phu thành phiến (thành khối), tự mình nắm chắc sẽ vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, ai giảng kinh bạn cũng có thể nghe được, chỗ nào bạn cũng có thể đi được, vì không có phương hại.  Nếu tự mình không thể nắm chắc việc vãng sanh Cực Lạc thế giới nên chuyên tu tốt hơn, cũng có nghĩa là đừng rời khỏi thầy giáo.  Ai là thầy của mình?  A Di Ðà Phật.  A Di Ðà Phật ở đâu?  Tức là kinh Vô Lượng Thọ, do đó mỗi ngày đều phải đọc tụng, ngày ngày phải suy nghĩ, phải hiểu đạo lý và phương pháp dạy trong kinh, y theo đó mà tu hành.  Những gì Phật dạy, chúng ta nhất định phải nghiêm cẩn nỗ lực làm theo; những gì Phật dạy đừng làm, chúng ta nhất quyết không làm, chỉ cần thời gian hai ba năm thì bạn sẽ có thể nắm chắc việc vãng sanh.

          Pháp môn Tịnh Ðộ thành công nhanh, chúng ta xem ‘Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục’ và ‘Vãng sanh truyện’, có rất nhiều người niệm Phật từ 3 đến 5 năm liền vãng sanh.  Ðã có bạn đồng tu hỏi tôi: ‘Có phải là họ tu Tịnh Ðộ Tông thọ mạng chỉ có 3 năm hoặc 5 năm thì vừa đúng lúc vãng sanh?’  Tôi trả lời không hẳn là vậy, đâu có chuyện tình cờ ngẫu nhiên như vậy!  Tại sao họ niệm Phật mới 3 năm, 5 năm thì đều vãng sanh?  Vì họ làm đủ những điều kiện để vãng sanh, tất cả vọng tưởng đều dứt hết, hoàn toàn không lưu luyến tất cả những người và sự việc ở trên thế gian này, cho nên mạng sống không thèm nữa, vãng sanh sớm hơn.  Vì chỉ cần so sánh hai thế giới, một bên vô cùng vui sướng, một bên vô cùng khổ não, có thể đi đến Cực lạc thế giới vô cùng vui sướng, tại sao phải ở lại thế giới vô cùng khổ não để chịu khổ?  Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ, có thể đi mà không đi; đó là vì rất nhiều người ở thế giới này có duyên [với họ] đang cần giúp đỡ nên họ ở lại để giúp những người này và vãng sanh trễ đi.  Nếu ở thế gian này không có duyên thì sẽ đi sớm hơn.   Hiểu rõ đạo lý này, tu hành không thể không chuyên nhất, không chuyên nhất rất khó thành công.  21-90-07

 Hỏi:   Ở chùa Triều Dương có một vị cư sĩ tu hành cấm ngữ (không nói chuyện) được hơn hai năm rồi.  Sau này con thấy tâm địa của người này không thanh tịnh, trong lời nói vẫn còn phiền não.  Con nghĩ cách tu này cắt đứt pháp duyên với chúng sanh, cách khổ hạnh này rất đáng thương hại.  Xin hỏi phương pháp tu hành này đúng không?



Ðáp:   Cách suy nghĩ của bạn rất đúng.  Mục đích của sự cấm ngữ là để chuyên tâm và xa lìa sự khuấy nhiễu của ngoại cảnh.  Tuy miệng không nói chuyện nhưng còn dùng bút để trao đổi ý kiến với người khác, như vậy quá phiền phức, không bằng nói chuyện tiện hơn!  Cách cấm ngữ của ông ta chỉ là hình thức, còn trong tâm thì không chấm dứt [nói chuyện].  Tổ sư đại đức dạy chúng ta tu hành phải tu từ căn bản, căn bản là tâm địa, mục đích yêu cầu là trong tâm phải được thanh tịnh, tâm địa không ô nhiễm, tâm địa xa lìa duyên bên ngoài.  Trên hình thức khi gặp chúng sanh có duyên thì phải giúp đỡ, cấm ngữ cũng vẫn có thể giúp đỡ.  Giúp những người nào?  Những người nói chuyện tào lao nhiều quá.  Thấy người khác không nói chuyện, nói chuyện nhiều không bằng nói ít, nói ít không bằng không nói.  Nhưng phải khế cơ.  Nếu bạn làm không khế cơ thì sự biểu diễn này vô ích, không ai hiểu được, không ai có thể được cảm hoá. 

          Nói tóm lại, những gì tâm mình nghĩ, những hành động mình làm nhất định phải tạo lợi ích cho chúng sanh; nếu không có lợi ích cho chúng sanh thì mình không làm.  Thời gian và sức lực của chúng ta có hạn, nên làm những việc có lợi ích đối với xã hội đại chúng, cảm hóa xã hội đại chúng.  21-90-08

 Hỏi:   Sau khi làm theo phương pháp quán tâm, tạp niệm vọng tưởng ít đi, có thể duy trì trạng thái không niệm và vô niệm.  Người xưa có nói: ‘Khởi tâm động niệm là Thiên ma, không khởi tâm động niệm là Ấm ma, đến lúc khởi không được nữa là Phiền não ma’.  Có niệm và không niệm hình như đối nghịch nhau, xin hỏi rốt cục thì như thế nào mới đúng?  Và Thiên ma, Ấm ma, và Phiền não ma là gì?

Ðáp:   Trong kinh Lăng Nghiêm giải thích ý nghĩa của danh từ ‘ma’ rất rõ ràng.  Kinh Lăng Nghiêm nói bất luận cảnh giới gì hiện ra, nhất quyết đừng nên chấp trước, như vậy mới đúng.  Hơn nữa kinh Kim Cang có nói: ‘Phàm cái gì có tướng đều là hư vọng’.

          Lìa khỏi vọng tưởng, chấp trước thật không dễ, Tịnh Ðộ Tông dạy chúng ta chấp trì danh hiệu, chuyên trì danh hiệu của đức Phật A Di Ðà, tất cả những thứ khác ngoài việc này ra đều đừng nên chấp trước, đây là một phương pháp rất hay.  Dùng một câu ‘A Di Ðà Phật’ đem đổi tất cả những chấp trước khác, cách này dễ làm, nên pháp môn Niệm Phật được gọi là ‘Dị hành đạo’ (pháp môn dễ thực hành).  Phật dạy chúng ta giữ vững câu Phật hiệu này mãi cho đến lúc mạng sống gần chấm dứt cũng vẫn còn niệm câu A Di Ðà Phật, đợi đức Phật lại tiếp dẫn, sau khi đến Cực Lạc thế giới rồi mới buông bỏ hết tất cả chấp trước.  Chúng ta có thể dùng phương pháp này để đạt được Tây phương Tịnh độ, phương pháp này mới chắc chắn, đáng tin mà lại rất nhanh chóng; quả vị của sự thành công vãng sanh đến cõi Cực Lạc không thể tưởng tượng nổi, vượt hơn sự thành tựu của tất cả pháp môn khác.  Chánh nhân là như vậy nên mười phương thế giới chư Phật Như Lai đều tán thán đức Phật A Di Ðà. 21-90-15

 Hỏi:   Giữa Tứ Niệm Xứ của Tiểu thừa, Thiền của Ðại thừa, Ðại Thủ Ấn của Mật giáo, và Pháp môn Quán Tâm có chỗ nào khác nhau?  Có thể lấy chỗ dư bù đắp chỗ thiếu, bổ túc lẫn nhau hay không?

Ðáp:   Danh từ, thuật ngữ, và phương pháp của mỗi tông phái không giống nhau nhưng đều có chung một mục tiêu, tinh thần, và nghĩa thú (ý nghĩa và đường hướng).  Tứ niệm xứ thuộc về Thiền.  Thiền là gì?  Trong [Pháp Bảo] Ðàn Kinh, Lục Tổ có nói: ‘Bên ngoài không trước tướng là thiền, bên trong không động tâm là định’.   Kinh Kim Cang nói: ‘Bất thủ ư tướng, như như bất động’.  ‘Bất thủ ư tướng’ (không chấp tướng) là ‘thiền’, ‘như như bất động’ là ‘định’.  Không bị ngoại cảnh mê hoặc, không kể là cảnh thuận hoặc cảnh nghịch khi lục căn tiếp xúc cảnh giới của lục trần đều không bị ảnh hưởng, lay động, và quấy nhiễu là ‘thiền’; vĩnh viễn giữ được tâm thanh tịnh, không sanh vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước là ‘định’.

          Những pháp môn này có thể bổ túc và thành tựu cho nhau, nhưng tu hành thì nhất định phải ‘Ði sâu vào một môn’ (Nhất môn thâm nhập).  Thiệt ra một môn có đầy đủ tất cả các môn khác, nhất quyết không được tu hai ba pháp môn cùng một lượt.  Cho nên tu học nhất định phải lựa chọn pháp môn thích hợp với mình, thích hợp với công việc và trình độ trước mắt [sẵn có] của mình.  Như vậy thì dễ thành tựu hơn. 21-90-15 



Hỏi:   [Con] coi rất nhiều sách Phật, xin hỏi như vậy có gây chướng ngại cho sự tu học của mình hay không?

Ðáp:   Chuyện này hoàn toàn tùy thuộc từng cá nhân.  Nếu bạn coi nhiều quá, bao gồm rất nhiều phương diện nhưng tâm địa vẫn thanh tịnh, không có phân biệt, chấp trước thì không chướng ngại.  Nếu tâm địa không thanh tịnh thì tốt nhất phải nên xả bỏ [việc coi sách]  21-90-23

Hỏi:   Nhà Phật nói: ‘Tướng chuyển theo tâm’, pháp sư nói chúng ta có thể dùng tướng mạo của mình để xem xét và đối chiếu với công phu tu hành.  Xin hỏi có phải những người tu hành có tướng mạo xấu thì công phu tu hành cũng không tốt lắm?

Ðáp:   Không hẳn vậy, tại vì tướng mạo của mỗi người có liên quan đến phước báo tu đời trước.  Trước 40 tuổi, tướng mạo tốt xấu là do định sẵn từ đời trước, đây là phước báo của đời  trước; sau 40 tuổi tướng mạo tốt xấu là do mình.  Ðạo lý của câu này là ở chỗ nào?   Từ khi sanh ra trong vòng 40 năm này, tâm hạnh thiện ác nhất định ảnh hưởng đến tướng mạo của bạn.  Cho nên lúc trẻ tướng mạo rất đẹp, lúc lớn tuổi tướng mạo chưa chắc đã đẹp.  Tướng mạo có thể biến đổi, biến tốt hoặc biến xấu cùng tâm hạnh (sự khởi tâm động niệm, hành vi sanh hoạt) của mình có liên hệ nhân quả rất  mật thiết.

          Phật nói Bồ Tát tu hành thành Phật đặc biệt dùng thời gian một trăm kiếp để chuyên tu 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.  32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp là quả thiện có được từ nhân thiện.  Tại sao Phật phải dùng thời gian lâu như vậy để tu tướng đẹp?  Ðây là một sự thị hiện, là biểu diễn cho chúng ta xem.  Chúng sanh ai cũng đều hy vọng dung mạo của mình tốt đẹp, thân thể khỏe mạnh, đức Phật bèn thị hiện ra những thứ này để dạy cho chúng sanh biết tu nhân gì thì có thể được quả báo tướng mạo tốt đẹp; nếu bạn tu nhân này nhất định sẽ có được quả báo tốt như vậy.       21-90-40

 Hỏi:   Những người tu hành có tướng mạo hơi xấu, xin hỏi phải làm thế nào để khắc phục tâm lý tự ti của mình?

Ðáp:   Nếu muốn tiêu trừ phiền não tự ti này chỉ có cách nhất tâm niệm Phật, đừng suy nghĩ đến tướng mạo tốt xấu.  Chúng ta niệm Phật tu nhân chứng quả, quả báo này là cứu cánh viên mãn.  Hiện nay tướng mạo xấu xí một chút cũng không sao, khi đến Cực Lạc thì sẽ có tướng mạo vô cùng xinh đẹp.  Mỗi tượng của Thập Bát (18) La Hán và Ngũ bá (500) La Hán có một hình tướng khác nhau, rất nhiều vị có hình tướng vô cùng kỳ dị quái gở, nhưng họ có từ bi trí huệ nên cũng không khó coi cho lắm.  Hiểu được đạo lý này thì đừng sanh tâm phân biệt chấp trước trên tướng tốt và xấu, chỉ cần nhất tâm niệm Phật, dần dần rồi thân thể và dung mạo của mình sẽ thay đổi, ngay cả mình cũng không biết nữa.

          Kinh Vô Lượng Thọ nói khi sanh đến Cực Lạc thế giới thì dung mạo đều giống nhau.  Tại sao dung mạo lại giống nhau?  Tại vì người ở tha phương thế giới có dung mạo tốt đẹp thì thường sanh tâm ngạo mạn, dung mạo không đẹp thì sanh tâm tự ti xấu hổ.  Ðức Phật A Di Ðà đại từ đại bi, dẹp bỏ việc này ở Cực Lạc thế giới.  Cho nên khi sanh đến Cực Lạc thế giới, dung mạo của mỗi người đều giống đức Phật A Di Ðà, một chút xíu cũng không khác.  Nếu dung mạo của ai cũng giống nhau có thể nào lẫn lộn không?  Khi đến Cực Lạc thế giới mọi người đều có đầy đủ trí huệ và sáu thứ thần thông nên tuyệt đối sẽ không lẫn lộn. 21-90-40

---o0o---



tải về 450.47 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương