Nghiên cứu sinh



tải về 3.1 Mb.
trang3/13
Chuyển đổi dữ liệu26.12.2017
Kích3.1 Mb.
#35121
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

Chương 1: Cơ sở lý luận trong đánh giá ĐKTN, TNTN và môi trường phục vụ lập bản đồ phân vùng chức năng môi trường

Chương 2: Đánh giá điều kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội và môi trường phục vụ lập quy hoạch bảo vệ môi trường tỉnh Nghệ An

Chương 3: Phân vùng chức năng môi trường tỉnh Nghệ An

Chương 4: Định hướng sử dụng các đơn vị chức năng môi trường cho mục đích lập quy hoạch bảo vệ môi trường

Luận án được trình bày ở dạng văn bản với 150 trang đánh máy khổ A4, 25 bảng số liệu, 03 sơ đồ, 13 bản đồ và 99 danh mục các tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài.

Chương 1


CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG PHỤC VỤ LẬP BẢN ĐỒ PHÂN VÙNG CHỨC NĂNG MÔI TRƯỜNG

1.1. ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG LÃNH THỔ



Theo Minx [96] thì Tài nguyên thiên nhiên là toàn bộ giá trị vật chất sẵn có trong tự nhiên, nguyên liệu, vật chất do tự nhiên tạo ra mà con người có thể khai thác và sử dụng trong sản xuất và đời sống, và là những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội loài người.

Điều kiện tự nhiên là một khái niệm chỉ những vật thể và những yếu tố thiên nhiên mà trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất chúng có ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động của xã hội loài người, nhưng không tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất vật chất của con người.

Đánh giá là việc nhận định về khả năng, tiềm năng, tính khả thi của các phương án hoạt động phát triển, sử dụng của một chủ thể nào đó cho một đối tượng (khách thể) nào đó. Trong trường hợp này, chủ thể là các ĐKTN, TNTN tỉnh Nghệ An, khách thể là “Lập quy hoạch môi trường cho tỉnh Nghệ An”. Các đặc tính của khách thể ở đây không phải là các hoạt động phát triển đơn tính như các hoạt động trong phân vùng quy hoạch kinh tế trước đây được coi là công đoạn cuối cùng của việc thể chế hóa các kế hoạch phát triển vùng vào những năm 70 thế kỷ trước [6], [7], [8]. Ngày nay, các hoạt động này trong QHMT là kế hoạch cuối cùng mang tính tổng hợp, thỏa mãn nhiều yêu cầu. Trước đây các QHPT KT-XH thường chỉ chú trọng đến một vài hoạt động cơ bản như tiềm năng đất đai, nguyên liệu đầu vào, nguồn nhân lực mà không tính đến khả năng chịu tải, chất thải và tác động đến môi trường của các hoạt động đó. Các đặc tính của khách thể ở đây phải thỏa mãn 3 yêu cầu của phát triển bền vững, đó là: phát triển kinh tế, công bằng xã hội và BVMT.

Tổ hợp của các yêu cầu đó đặt ra cho tất cả các hoạt động thông qua các công đoạn như điều tra, đánh giá các nguồn tài nguyên, kể cả KT-XH, đánh giá tác động đến môi trường, phân vùng CNMT, sau đó tiến hành quy hoạch BVMT.

Như vậy, đánh giá ĐKTN là sự ước lượng vai trò hay giá trị của các thành phần tự nhiên, hoặc đánh giá xác định mức độ thuận lợi của môi trường tự nhiên đối với một yêu cầu KT-XH nhất định.

Đánh giá tài nguyên được hiểu là việc xác định số lượng, chất lượng, giá trị, khả năng sử dụng và mức độ ảnh hưởng của chúng đến phát triển KT-XH, cũng như mức độ ảnh hưởng của các hoạt động KT-XH đến các dạng tài nguyên. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên không chỉ đơn thuần đối với từng loại tài nguyên riêng biệt mà còn có thể khai thác sử dụng kết hợp nhiều loại tài nguyên khác nhau trong một vùng lãnh thổ. Như vậy, đánh giá ĐKTN và TNTN là quá trình nhận thức các quy luật của cơ chế tác động tương hỗ giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống KT-XH. Từ kết quả đánh giá có thể xác định được: 1) hướng phát triển các lĩnh vực khai thác lãnh thổ; 2) xác định mức độ huy động tối đa tài nguyên cho mục đích sử dụng; 3) xác định hướng PTBV của các lĩnh vực khai thác tài nguyên – lãnh thổ.

Việc làm này là hết sức cần thiết, ngày nay, để đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH con người đã khai thác TNTN với nhiều mục đích khác nhau, song việc khai thác đang ở tình trạng quá mức, nhiều khi vượt quá khả năng tự điều chỉnh và phục hồi của các dạng tài nguyên, gây hậu quả nghiêm trọng, làm tài nguyên suy kiệt, ĐKTN và môi trường ngày càng suy thoái…

1.2. CÁCH TIẾP CẬN TỔNG HỢP



Nghiên cứu, phân tích CNMT của các đơn vị tổng hợp thể tự nhiên thực chất là giải bài toán về mối quan hệ đa chiều giữa các yếu tố ĐKTN, MT và con người trên một không gian xác định, trong đó giữa các yếu tố luôn luôn có sự tác động tương hỗ và phụ thuộc lẫn nhau. Muốn giải quyết được các vấn đề trên, đòi hỏi nội dung nghiên cứu phải dựa trên quan điểm tổng hợp và có tính hệ thống hóa rất cao. Hay nói cách khác, quan điểm tổng hợp đòi hỏi nghiên cứu không phải một thành phần riêng lẻ mà là toàn bộ các hợp phần của hệ thống tự nhiên, MT trong mối quan hệ tương hỗ [28].

Việc nghiên cứu sử dụng lãnh thổ trên quan điểm tổng hợp đã trải qua một thời gian khá dài gắn liền với tên tuổi nhiều nhà khoa học Địa lý trong nước và trên thế giới như Vũ Tự Lập [35], [36], Lê Bá Thảo [55], Phạm Hoàng Hải [24], A.G. Ixatrenko [30], Minkov [99]. Những công trình nghiên cứu của các nhà địa lý Liên Xô cũ về SDHL TNTN, BVMT mà tiêu biểu là các công trình của Docutraev vào cuối thế kỷ thứ 19 [21], ông là người đầu tiên thực hiện nguyên tắc tổng hợp trong nghiên cứu các ĐKTN các vùng lãnh thổ cụ thể. Ông nhận định: “Tôn trọng và nghiên cứu toàn bộ thiên nhiên một cách thống nhất, toàn vẹn và không chia cắt, chứ không phải tách rời chúng ra thành từng phần”. Với quan điểm này, ông cho rằng sự tìm hiểu tự nhiên là nghiên cứu các mối quan hệ phát sinh, những tác động tương hỗ có tính quy luật giữa các sự vật và hiện tượng trong thiên nhiên.

Sau Docutraev, quan điểm nghiên cứu tổng hợp được các nhà khoa học địa lý Nga như S.V. Kalexnik, N.A. Xontxev, A.G. Ixatrenko tiếp tục hoàn thiện về lý luận và thực tiễn trong các nghiên cứu đánh giá ĐKTN, TNTN phục vụ cho mục đích phát triển KT-XH.

Ở nước ta, các nhà địa lý Việt Nam đã kế thừa và áp dụng cách tiếp cận tổng hợp của các nhà địa lý Nga và Liên Xô cũ để thực hiện nhiều công trình nghiên cứu theo hướng đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN và môi trường các vùng lãnh thổ nhằm khai thác và sử dụng hợp lý TNTN phục vụ cho các mục đích phát triển KT-XH cụ thể. Qua nhiều thế hệ, kể từ năm 1954 khi miền Bắc được giải phóng cho đến nay, nhiều nhà địa lý tiêu biểu của nước ta đã từng bước áp dụng và nâng cao giá trị khoa học và thực tiễn của cách tiếp cận địa lý tổng hợp trong các công trình nghiên cứu đánh giá tổng hợp các đơn vị lãnh thổ tự nhiên [6], [7], [14], mà rõ rệt và hiệu quả nhất là việc áp dụng phương pháp đánh giá CQ phục vụ quy hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên, BVMT theo quan điểm phát triển bền vững.

Lê Bá Thảo vào cuối những năm 1980 [55] đã đề cập việc nghiên cứu một lãnh thổ không chỉ giới hạn ở chỗ điều tra các điều kiện và TNTN mà còn cả các điều kiện KT-XH, bao gồm cả đời sống văn hóa và môi trường”. Ông cũng cho rằng: “Thể tổng hợp lãnh thổ là một hệ thống có các mối liên hệ bên trong rất chặt chẽ và chỉ có thể được nghiên cứu bằng phương pháp phân tích hệ thống (phân tích cảnh quan). Theo ông, sản phẩm của nghiên cứu tổng hợp phải là các sơ đồ tổ chức lãnh thổ hoặc quy hoạch lãnh thổ, thể hiện các kết quả nghiên cứu đạt được của nhiều vấn đề, trong đó có 2 vấn đề chính sau đây:

- Đề xuất các biện pháp cụ thể để sử dụng, bảo vệ và cải tạo tự nhiên và môi trường nói chung, làm cho chất lượng của lãnh thổ không phải suy giảm mà ngày một tốt hơn.



- Thiết kế một sự phân phối tối ưu sức sản xuất về mặt không gian, thời gian, đồng thời phối hợp được hoạt động của các ngành sản xuất khác nhau trong từng vùng.

Nguyễn Văn Chiển [15] cho rằng trong khai thác lãnh thổ để phát triển KT-XH “nếu chỉ chú ý khai thác một hợp phần mà không chú ý tới cả hệ thống thì có thể gây tác hại khôn lường đối với các yếu tố khác hoặc toàn bộ hệ thống. Chính vì vậy, khi tiến hành quy hoạch sử dụng một đơn vị lãnh thổ, phải xem xét nó toàn diện như một tổng hợp thể”.

Như vậy, vấn đề nghiên cứu tổng hợp lãnh thổ có những bước phát triển chung, gắn liền với việc sử dụng hợp lý không gian sinh tồn. Mỗi một lãnh thổ đều có tiềm năng và ưu thế riêng để phát triển, đó là lợi thế so sánh, nguồn lực phát triển. Với quan điểm tổng hợp, đề tài đã xem xét tỉnh Nghệ An trong một hệ thống tương đối toàn diện của các yếu tố tự nhiên (địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, lớp phủ thực vật) và các yếu tố KT-XH để đánh giá được tiềm năng phát triển KT-XH theo hướng PTBV.

1.3. ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN

1.3.1. Khái niệm về cảnh quan và cảnh quan sinh thái

1.3.1.1. Cảnh quan



“Cảnh quan” là thuật ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ Đức - “Landschaft”, với nghĩa là nước, miền, địa phương, khu vực, đã bắt đầu được sử dụng trong các sách vở địa lý từ năm 1805. Tuy nhiên, đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX thì nền móng của cảnh quan học mới được xây dựng trong các công trình nghiên cứu về bề mặt Trái Đất của các nhà địa lý kinh điển Nga, Đức, Anh, Mỹ, Pháp, khái niệm cảnh quan mang ý nghĩa khoa học là một thực thể lãnh thổ có mối liên quan tác động của các thành phần nhưng cũng có nghĩa là phong cảnh.

Trong quá trình phát triển của cảnh quan học, đã có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm, học thuyết khác nhau về cảnh quan, thể hiện qua hàng loạt các định nghĩa về cảnh quan với nội dung và cách diễn đạt không giống nhau. Có thể gộp các định nghĩa ấy vào ba nhóm quan niệm cơ bản như sau :



- Cảnh quan là một khái niệm chung, đồng nghĩa với tổng thể địa lý thuộc các cấp phân vị khác nhau. Ủng hộ quan điểm này gồm các nhà địa lý như: D.L. Armand [1], Y.K. Eftromov, V.I. Prokaev, E.N. Lukasov,…

- Cảnh quan là một loại hình của những tổng thể địa lý tự nhiên (B.B. Polưnop. N.A. Gvozdetxki);



- Cảnh quan là một đơn vị lãnh thổ trong hệ phân vị tổng thể tự nhiên (N.A. Xontxev, A.G. Ixatrenco, S.V. Kalesnik, Vũ Tự Lập…).

Tất cả các quan niệm trên đều coi CQ là một tổng thể tự nhiên. Sự khác biệt giữa các quan niệm là ở chỗ coi CQ là đơn vị thuộc cấp phân vị nào, hoặc CQ được xác định và thể hiện trên bản đồ theo cách thức nào, theo quy nạp hay diễn giải [39], [99].

Về bản chất, CQ là một tổng thể tự nhiên phức tạp, vừa có tính đồng nhất, vừa có tính bất đồng nhất [91]. Tính đồng nhất trong một đơn vị lãnh thổ, các thành phần và tính chất của mối quan hệ giữa các thành phần coi như không đổi; tính bất đồng nhất biểu thị ở hai mặt: 1) cảnh quan bao gồm nhiều thành phần khác nhau về bản chất (địa hình, khí hậu, thủy văn, đất, thực vật) tạo nên; 2) mỗi thành phần trong cảnh quan tồn tại ở nhiều dạng khác nhau.

Như vậy, có rất nhiều quan niệm về CQ, chúng tôi thống nhất với quan niệm của Phạm Quang Anh [3] cho rằng: ”Cảnh quan là một đơn vị lãnh thổ tập hợp các điều kiện tự nhiên tương tác với nhau trong quá trình vận hành để tạo ra một cấu trúc, một ngoại hình và một thuộc tính sinh thái. Từ đó có một thuộc tính về giá trị riêng (giá trị kinh tế, giá trị môi trường sinh thái và tính bền vững)”.

Từ quan niệm này, khi đánh giá cảnh quan, các nhà cảnh quan sinh thái phải xuất phát từ quan điểm hệ thống và quan điểm tổng hợp.



Tính bền vững của cảnh quan: tính bền vững của cảnh quan được đặc trưng bằng khả năng của chúng hoạt động bình thường trong một khoảng xác định của các giá trị điều kiện tự nhiên và tác động nhân sinh (Sisenko, 1988).

Tính bền vững của cảnh quan phụ thuộc vào cường độ của các quá trình tự nhiên, thường là các quá trình động lực, xói mòn, khô hạn và phụ thuộc vào tính chất các quá trình tự nhiên và các quá trình nhân sinh phá hủy cấu trúc của nó (Nguyễn Cao Huần, 2005). Trong thực tế, khi nghiên cứu địa lý và trên quan điểm tổng hợp, các đơn vị cảnh quan như những địa tổng thể thường được sử dụng để đánh giá cho mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ thiên nhiên.

1.3.1.2. Cảnh quan sinh thái



a. Sinh thái học

Năm 1866 Ernest Hackel đề xuất thuật ngữ “sinh thái học” (ecology) ngụ ý hướng sự chú ý trong nghiên cứu về quan hệ giữa giới sinh vật với môi trường xung quanh. Trong địa lý thường lấy con người làm trung tâm, tất cả cho con người, vì con người, nhưng con người lại đang khai thác quá mức tài nguyên, tàn phá môi trường tự nhiên, nghĩa là vẫn tồn tại sự đối lập giữa tự nhiên và xã hội. Theo Nguyễn Thế Thôn [59] phải tìm được cái đối tượng cơ bản chung nhất của chúng, cái mục tiêu chung nhất của chúng, đó là sinh thái. Sinh thái có trong tự nhiên (sinh thái tự nhiên), trong KT-XH (sinh thái nông nghiệp, lâm nghiệp…) và mục tiêu chung nhất của chúng là cân bằng sinh thái và PTBV lãnh thổ, tức là “phát triển KT-XH và BVMT bền vững trong sự cân bằng sinh thái, hài hòa giữa tự nhiên và xã hội, trong đó bao gồm cả con người và xã hội của nó trên lãnh thổ”. Trái đất đang mất cân bằng sinh thái ngày càng trầm trọng, môi trường sống càng bị hủy hoại. Loài người cấp thiết phải lựa chọn cân bằng sinh thái cho Trái đất. Vì vậy, mục tiêu cân bằng sinh thái và PTBV là mục tiêu cao nhất cho sự phát triển và tồn tại của xã hội loài người.

Sinh thái học được hình thành và phát triển từ đầu thế kỷ XX. Sinh thái học nghiên cứu tất cả các mối quan hệ tác động qua lại giữa sinh vật và môi trường. Đối tượng nghiên cứu của sinh thái học là các hệ sinh thái trên trái đất.



b. Cảnh quan sinh thái

Thuật ngữ “sinh thái cảnh quan” (Landscape Ecology) được đưa ra vào năm 1939 bởi nhà địa thực vật người Đức là Carl Troll.

Thuật ngữ “sinh thái cảnh quan” theo Phạm Quang Anh [3] tương đồng với các thuật ngữ: địa sinh thái (trường phái Tây Âu và Bắc Mỹ), sinh địa quần lạc học (Biogeocenology). Ở Việt Nam nhìn chung chưa thống nhất về thuật ngữ này. Một số nhà cảnh quan dùng thuật ngữ “sinh thái cảnh quan” (Phạm Quang Anh, Nguyễn An Thịnh, Nguyễn Văn Vinh [3], [83]), “cảnh quan sinh thái” (Nguyễn Thế Thôn) và “địa hệ sinh thái” (Vũ Tự Lập). Đề tài luận án đã sử dụng thuật ngữ “cảnh quan sinh thái” theo quan điểm của một số nhà cảnh quan Viện Địa lý.

Lý thuyết sinh thái cảnh quan là lý thuyết về lãnh thổ môi trường sống của con người và mọi thể sinh vật. Những vấn đề của lý thuyết sinh thái cảnh quan cũng chính là sự thống nhất từ khái niệm CQ và khái niệm HST. Con người sống trên các CQ, trên các lãnh thổ tự nhiên khác nhau đồng thời cũng là sống trong các HST khác nhau. Các lãnh thổ tự nhiên và các HST đều là môi trường sống của con người. CQST là lãnh thổ môi trường sinh thái – lãnh thổ môi trường sống của con người và mọi thể sinh vật, là đối tượng nghiên cứu về lãnh thổ của khoa học môi trường và là đối tượng của quy hoạch và quản lý môi trường.

Mỗi một lãnh thổ có các chức năng sinh thái khác nhau, đóng vai trò là lãnh thổ môi trường sống của con người và mọi thể sinh vật. Lãnh thổ có chức năng sinh thái được gọi là lãnh thổ sinh thái.



Trong nhiều thập kỷ gần đây, nảy sinh chiều hướng nghiên cứu các chức năng sinh thái của các cảnh quan nhằm giải quyết các vấn đề sinh thái của lãnh thổ môi trường sống trên các cảnh quan khác nhau [91], [99], [96].

Tiếp cận sinh thái trong nghiên cứu cảnh quan hay nghiên cứu sinh thái học cảnh quan là một hướng phát triển kết hợp giữa sinh thái học và cảnh quan học. Sinh thái cảnh quan được quan niệm là môn khoa học liên kết các khoa học tự nhiên và các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn có liên quan. Theo quan điểm này Phạm Quang Anh đã nêu ra định nghĩa như sau: “Sinh thái cảnh quan là một ngành tổng hợp của địa lý lấy các nhân tố vô sinh của cảnh quan làm nhân tố phát sinh để phát triển và nghiên cứu sự hình thành, phân bố và quá trình phát triển của nhóm sinh vật và cộng đồng con người”.

Nguyễn Thế Thôn (1994, 2000) khi kế thừa các khái niệm về cảnh quan của địa lý học và HST của sinh thái học đã đưa ra định nghĩa CQST như sau: “Cảnh quan sinh thái là tổng thể lãnh thổ hiện tại, có cấu trúc cảnh quan địa lý và có chức năng sinh thái của các hệ sinh thái đang tồn tại và phát triển ở trên đó. Các cảnh quan sinh thái được phân biệt với nhau theo cấu trúc cảnh quan và theo chức năng sinh thái khác nhau trên các phần lãnh thổ khác nhau”.

Sự tồn tại thống nhất các HST và các thành phần tự nhiên của CQ trong sinh cảnh của HST được mang tên gọi là cảnh quan sinh thái. Như vậy, cảnh quan sinh thái là sinh cảnh hay là nơi sống của HST và nó tồn tại như một lãnh thổ địa lý.

CQST có tính đa chức năng, bao gồm chức năng tự nhiên của cảnh quan, chức năng sinh thái của các HST và cùng với chức năng KT-XH - là cơ sở của mọi hoạt động KT - XH của con người.

1.3.2. Đánh giá cảnh quan



1.3.2.1. Vài nét tổng quan về nghiên cứu đánh giá cảnh quan

Cảnh quan là hệ thống hoàn chỉnh các hợp phần tự nhiên của lãnh thổ, các thành phần trong CQ có chức năng của các thành phần tự nhiên và có tác động qua lại với nhau. Như vậy, CQ là một tổng thể tự nhiên và đánh giá CQ thực chất là đánh giá các tổng hợp thể tự nhiên cho mục đích cụ thể, đặc biệt là các mục đích phát triển KT-XH, trong đó có cả mục đích lập QHMT lãnh thổ.

Đánh giá CQ có vai trò quan trọng đối với các hoạt động phát triển kinh tế, giúp cho các nhà quản lý, quy hoạch đưa ra những quyết định phù hợp với từng đơn vị lãnh thổ cụ thể. Theo Nguyễn Cao Huần [27], đánh giá cảnh quan là bước trung gian giữa nghiên cứu cơ bản và quy hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên và BVMT.

Trong lĩnh vực nghiên cứu CQ và đánh giá CQ phục vụ mục đích phát triển KT-XH thì đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã thực hiện với nhiều trường phái khác nhau. Ở nước ngoài, phải kể đến những công trình tiêu biểu của Docutsaev về địa tổng thể và các đới tự nhiên, L.S. Berg (1931) đã công bố công trình “Các đới cảnh quan địa lý Liên Xô” - một công trình nổi tiếng và là cơ sở hoàn thiện lý luận về CQ. Vào năm 1961, A.G. Ixatsenko đã công bố công trình “Bản đồ cảnh quan Liên Xô tỷ lệ ¼.000.000 và vấn đề phương pháp nghiên cứu”; năm 1965 ông cho ra đời công trình “Cơ sở cảnh quan học và phân vùng địa lý tự nhiên” [30] trong đó ông đã trình bày cơ sở lý thuyết và các nguyên tắc cơ bản trong phân vùng địa lý tự nhiên; vào năm 1976, ông tiếp tục xuất bản cuốn “Cảnh quan học ứng dụng” với những lý luận thực tiễn nhạy bén khi đề xuất quan điểm ứng dụng trong nghiên cứu CQ. Ở một số nước khác ngoài Liên Xô cũ, nhiều nhà địa lý cũng đưa ra các công trình nghiên cứu CQ ứng dụng phục vụ các mục đích cụ thể về sử dụng hợp lý TNTN. Có thể kể đến một vài công trình như: Haase và Rchmid (1973) – hai nhà cảnh quan học của Đức đã ứng dụng nghiên cứu CQ để thành lập bản đồ nông nghiệp ở CHDC Đức; ở Pháp, nhà cảnh quan học G. Bertran (1968) đã công bố công trình “Phong cảnh địa lý tự nhiên toàn cầu”, trong đó ông đưa ra quan điểm địa lý tiến triển theo hướng sinh quần học, còn phong cảnh là một bộ phận sinh thái có thể nhận thấy được của CQ.

Ở Việt Nam, nghiên cứu CQ mới thực hiện trong khoảng gần 50 năm trở lại đây, song những thành tựu đạt được cũng khá lớn. Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập (1963) đã công bố công trình “Địa lý tự nhiên Việt Nam” [16], trong đó trình bày về các nguyên tắc cơ bản của phân vùng CQ được áp dụng cho lãnh thổ Việt Nam. Vào năm 1976, Vũ Tự Lập đã xuất bản công trình “Cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam” [35] là một công trình tổng hợp có giá trị học thuật rất lớn trong khoa học địa lý Việt Nam hiện đại.

Một loạt các công trình nghiên cứu đánh giá CQ thông qua việc thành lập các bản đồ phân loại, phân vùng CQ các vùng lãnh thổ khác nhau theo hướng lý thuyết và hướng ứng dụng đã được các nhà địa lý tự nhiên của Viện Địa lý, các trường Đại học thực hiện thành công trong nhiều năm qua. Các công trình này đã góp phần to lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn trong việc sử dụng cách tiếp cận tổng hợp đánh giá ĐKTN, và phương pháp đánh giá CQ ứng dụng nhằm đạt được các mục tiêu phát triển khác nhau trong sử dụng hợp lý về bền vững các nguồn TNTN các vùng lãnh thổ khác nhau của nước ta. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu của các nhà địa lý tự nhiên Việt Nam theo hướng nghiên cứu CQ và CQ ứng dụng như sau: Tổ phân vùng địa lý tự nhiên thuộc UBKHKT nhà nước đã công bố công trình "Phân vùng địa lý tự nhiên lãnh thổ Việt Nam" (1970); Nguyễn Thành Long đã viết bài "Tiếp cận sinh thái trong nghiên cứu cảnh quan" (1992); các tác giả Nguyễn Thành Long (1987), Phạm Hoàng Hải (1990), Nguyễn Văn Vinh (1992) đã nghiên cứu thành lập các bản đồ CQST bằng tư liệu viễn thám cho các vùng địa lý khác nhau (Tây Nguyên, Thanh Hoá, đồng bằng Nam bộ). Đặc biệt vào năm 1997, Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh đã xuất bản cuốn chuyên khảo "Cơ sở cảnh quan học trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường lãnh thổ" [24]. Trong cuốn sách này các tác giả đã đề cập những vấn đề lý luận, phương pháp nghiên cứu và đánh giá CQ học theo hướng ứng dụng, phân tích khá đầy đủ về những biến đổi của tự nhiên dưới tác động của con người và đưa ra các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên và BVMT. Năm 1993 tập thể tác giả phòng Địa lý tự nhiên, nay là phòng Sinh thái cảnh quan thuộc Viện Địa lý đã xuất bản cuốn “Nghiên cứu, xây dựng bản đồ cảnh quan các tỷ lệ trên lãnh thổ Việt Nam”[39], hệ thống phân loại này được nhiều công trình nghiên cứu sử dụng và xây dựng bản đồ CQST phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau.

Một công trình khác của Nguyễn Cao Huần [27] theo hướng nghiên cứu đánh giá cảnh quan ứng dụng với các tiếp cận kinh tế - sinh thái đã đưa ra những luận điểm và phương pháp đánh giá CQ lãnh thổ phục vụ cho việc hoạch định hoạt động phát triển và đưa ra các quyết sách phù hợp cho các đơn vị lãnh thổ cụ thể.
1.3.2.2. Lý luận chung về đánh giá cảnh quan

Đánh giá cảnh quan thực chất là đánh giá tổng hợp các tổng thể tự nhiên cho một mục đích cụ thể nào đó. Đánh giá cảnh quan cần làm rõ một số đặc trưng về đối tượng đánh giá, mục đích đánh giá, nguyên tắc và phương pháp đánh giá.



- Đối tượng đánh giá là các tổng thể tự nhiên, đặc điểm cấu trúc chức năng, động lực cảnh quan. Đối tượng đánh giá không phải là các đơn vị cá thể hay các thành phần, yếu tố riêng biệt của tự nhiên mà là tổng hoà các mối quan hệ, các tác động giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống KT-XH [24].

- Mục đích đánh giá là sử dụng môi trường tự nhiên hợp lý nhất, hiệu quả nhất, tối ưu nhằm đạt được sự PTBV.



- Nguyên tắc của đánh giá là thông qua các đặc điểm, tính chất hình thành của các tổng thể tự nhiên và các đặc tính thành phần phát sinh để xác định mức độ thích nghi của các thể tổng hợp tự nhiên cho các ngành sản xuất, kinh tế riêng biệt. Theo Phạm Hoàng Hải [24], nội dung đánh giá tổng hợp được khái quát theo mô hình sau:




Hình 1.2: Sơ đồ chung về đánh giá tổng hợp

Phương pháp đánh giá cảnh quan được sử dụng trong quá trình phân tích đa dạng CQ tỉnh Nghệ An. Trên cơ sở phân tích các yếu tố thành tạo CQ, phân tích cấu trúc, chức năng CQ, đề tài tiến hành đánh giá các CNMT của CQ cho mục đích PTBV, từ đó đề xuất định hướng và giải pháp cho việc sử dụng hợp lý nguồn TNTN và BVMT tỉnh Nghệ An.

a. Phân loại cảnh quan

Phân loại CQ là một nội dung quan trọng trong nghiên cứu, đánh giá CQ nhằm mục đích phân chia các tổng thể tự nhiên thành những đơn vị tự nhiên có cấp bậc từ lớn đến nhỏ (hoặc từ cao xuống thấp), thông qua việc phân tích cấu trúc (đứng và ngang) của các đơn vị tự nhiên đó với mục đích làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa các quy luật phân hoá không gian của địa lý quyển. Kết quả phân loại CQ sẽ là những căn cứ quan trọng để thành lập bản đồ CQ cho một vùng lãnh thổ được xác định. Cho đến nay vẫn chưa có một hệ thống phân loại CQ được nhiều người chấp nhận là đủ cơ sở khoa học và các chỉ tiêu cụ thể cho từng cấp.

Sau đây giới thiệu khái quát một số hệ thống phân loại cảnh quan được thừa nhận khá rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam:

- Hệ thống phân loại của A.G Ixatsenko (1961), gồm 8 bậc: Nhóm kiểu Kiểu Phụ kiểu Lớp Phụ lớp Loại Phụ loại Biến chủng (Thể loại).

Bảng 1.1: Hệ thống phân loại cảnh quan của A.G.Ixatsenko (1961)



STT

Đơn vị

Những dấu hiệu

1

Nhóm kiểu

Có những nét tương tự địa đới của các CQ trong phạm vi địa ô và lục địa khác nhau.

2

Kiểu

Có cùng điều kiện nhiệt - ẩm, cấu trúc; đồng nhất về quá trình di động của các nguyên tố hóa học, các quá trình ngoại sinh, sự hình thành thổ nhưỡng, thành phần và cấu trúc các quần thể sinh vật.

3

Phụ kiểu

Có những khác nhau theo tính địa đới bậc thứ và những dấu hiệu chuyển tiếp trong cấu trúc.

4

Lớp

Mức độ tác động biến hình cao các nhân tố kiến tạo sơn văn tới cấu trúc đới của các CQ.

5

Phụ lớp

miền núi - sự phát triển triển đầy đủ của dãy vòng đai - theo chiều cao điển hình.

6

Loại

Cùng chung nguồn gốc, kiểu địa hình, đá mẹ và cấu trúc hình thái ưu thế.

7

Phụ loại

Có một vài đặc điểm về bối cảnh.

8

Biến chủng

Những đặc điểm theo khí hậu của địa phương

- Hệ thống phân loại của Nhikolaev (1966), gồm 12 bậc, áp dụng cho nghiên cứu cảnh quan đồng bằng: Thống Hệ Phụ hệ Lớp Phụ lớp Nhóm Kiểu Phụ kiểu Hạng Phụ hạng Loại Phụ loại.

Bảng 1.2: Hệ thống phân loại cảnh quan của Nhikolaev (1966)



STT

Đơn vị

Dấu hiệu

1

Thống

Kiểu tiếp xúc của các quyển địa lí trong cấu trúc lớp vỏ CQ.

2

Hệ

Cân bằng nhiệt ẩm và biểu hiện của cơ sở năng lượng phân bố trong không gian thông qua tính địa đới của các CQ.

3

Phụ hệ

Tính địa ô của các đới làm phân bố lại nền tảng nhiệt ẩm của các đới.

4

Lớp

Cấu trúc hình thái của các đơn vị cấp lớn (đại địa hình) đã xác định kiểu địa đới của lãnh thổ (địa đới theo vĩ độ và đai cao theo chiều cao). Có hai lớp chủ yếu là đồng bằng và núi.

5

Phụ lớp

Sự phân hóa tầng trong cấu trúc CQ ở núi và đồng bằng làm phân hóa cường độ các quá trình địa lý tự nhiên.

6

Nhóm

Những đặc điểm chế độ địa hóa theo mức độ thoát nước.

7

Kiểu

Những chỉ số sinh khí hậu.

8

Phụ kiểu

Mang dấu hiệu của kiểu nhưng ở cấp phụ kiểu thổ nhưỡng và phụ lớp quần thể thực vật mang tính chất là các quần thể chuyển tiếp.

9

Hạng

Các kiểu địa hình phát sinh.

10

Phụ hạng

Các kiểu địa hình phát sinh và nham thạch bề mặt.

11

Loại

Sự giống nhau của các dạng ưu thế.

12

Phụ loại

Ưu thế về diện tích của các dạng phụ thuộc.

Hai hệ thống phân loại này của các tác giả đều dựa trên một nguyên tắc chung là sử dụng dấu hiệu địa đới và phi địa đới để phân chia các đơn vị. Theo nhiều nhà nghiên cứu địa lý thì sự xen kẽ các dấu hiệu địa đới và phi địa đới chỉ là một phương pháp quy ước, chưa phản ảnh được tương quan tự nhiên giữa các thể tổng hợp địa lý.

- Hệ thống phân loại cảnh quan của Vũ Tự Lập (1983): đưa ra 4 cấp cho bản đồ các kiểu cảnh quan Việt Nam tỷ lệ 1/2.000.000, bao gồm: Lớp cảnh quan → Phụ lớp cảnh quan → Hệ cảnh quan → Kiểu cảnh quan.



- Hệ thống phân loại cảnh quan do Phòng Địa lý tự nhiên, nay là phòng Sinh thái cảnh quan, Viện Địa lý đưa ra năm 1993 cho việc nghiên cứu cảnh quan ở quy mô toàn quốc cũng như ở các khu vực cụ thể trên lãnh thổ Việt Nam [39].

Bảng 1.3: Hệ thống phân loại cảnh quan Việt Nam [39]



TT

Đơn vị

Dấu hiệu đặc trưng

1

Hệ cảnh quan

Nền bức xạ chủ đạo quyết định tính đới. Chế độ nhiệt ẩm quyết định cường độ lớn của chu trình vật chất và năng lượng.

2

Phụ hệ cảnh quan

Chế độ hoàn lưu gió mùa quyết định phân bố lại nhiệt - ẩm gây ảnh hưởng lớn tới chu trình vật chất.

3

Lớp cảnh quan

Đặc điểm các khối địa hình lớn quy định tính đồng nhất của hai quá trình lớn trong chu trình vật chất bóc mòn và tích tụ.

4

Phụ lớp cảnh quan

Sự phân tầng bên trong của lớp.

5

Kiểu cảnh quan

Đặc điểm sinh khí hậu (kiểu thảm thực vật phát sinh - kiểu đất).

6

Phụ kiểu cảnh quan

Các đặc trưng cực đoan của khí hậu ảnh hưởng lớn tới các điều kiện sinh thái.

7

Hạng cảnh quan

Các kiểu địa hình phát sinh

8

Loại cảnh quan

Sự giống nhau tương đối của các dạng địa lý của thể cấu thành cảnh quan (sự kết hợp của các quần xã thực vật phát sinh và hiện đại với loại đất).

- Hệ thống phân loại cảnh quan của Phạm Hoàng Hải (1997) cho nghiên cứu cảnh quan nhiệt đới và gió mùa Việt Nam [24].

Bảng 1.4: Hệ thống phân loại áp dụng cho xây dựng bản đồ cảnh quan Việt Nam tỉ lệ 1/1.000.000 [24]



STT

Cấp phân vị

Các chỉ tiêu phân chia

Một số ví dụ

1

Hệ thống cảnh quan

Đặc trưng trong quy mô đới tự nhiên, được quy định bởi vị trí lãnh thổ so với vị trí Mặt trời và các hoạt động tự quay của Trái đất.

- Hệ thống CQ nhiệt đới ẩm gió mùa.

2

Phụ hệ cảnh quan

Được quy định bởi hoạt động của hoàn lưu khí quyển trong mối tương tác giữa điều kiện nhiệt - ẩm ở quy mô á đới, quyết định sự tồn tại và phát triển của quần thể thực vật liên quan đến vùng sinh thái hệ thực vật.

- Phụ hệ thống CQ chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh, ẩm với hệ thực vật Himalaya – cây cọ dầu.


3

Lớp cảnh quan


Đặc trưng hình thái phát sinh của đại địa hình lãnh thổ, quyết định quá trình thành tạo, thành phần vật chất mang tính phi địa đới, biểu hiện bằng các đặc trưng định lượng, của cân bằng vật chất, quá trình di chuyển vật chất, lượng sinh khối, cường độ tuần hoàn sinh vật của quần thể phù hợp với điều kiện sinh thái được quy định bởi sự kết hợp giữa yếu tố địa hình và khí hậu.

- Lớp CQ núi đặc trưng bởi quá trình di chuyển khe rãnh, rừng rậm thường xanh mưa mùa.

- Lớp CQ đồi. Di chuyển bề mặt - khe rãnh.

- Lớp CQ đồng bằng tích tụ vật chất.

- Lớp CQ đảo ven bờ - quá trình tích tụ và di chuyển hỗn hợp.



4

Phụ lớp cảnh quan

Đặc trưng trắc lượng hình thái trong khuôn khổ lớp, thể hiện cân bằng vật chất giữa các đặc trưng trắc lượng hình thái địa hình, các đặc điểm khí hậu và đặc trưng của quần thể thực vật: sinh khối, mức độ tăng trưởng, tuần hoàn sinh vật theo các ngưỡng độ cao.

- Phụ lớp CQ trên núi cao.

- Phụ lớp CQ trên núi trung bình.



- Phụ lớp CQ trên núi thấp.

- Phụ lớp CQ trên cao nguyên cao.

- Phụ lớp CQ đồng bằng ven biển.


5

Kiểu cảnh quan

Những đặc điểm sinh khí hậu chung quyết định sự thành tạo các kiểu thảm thực vật, tính chất thích ứng của đặc điểm phát sinh quần thể thực vật theo đặc trưng biến động của cân bằng nhiệt ẩm.

- Kiểu CQ rừng rậm nhiệt đới, mưa mùa trên núi thấp,..

- Kiểu CQ rừng nửa rụng lá nhiệt đới, mưa mùa trên núi thấp.



6

Phụ kiểu cảnh quan

Những đặc trưng định lượng sinh khí hậu cực đoan quyết định thành phần loài của kiểu thảm thực vật, quy định ngưỡng tới hạn phát triển của các loài thực vật cấu thành các kiểu thảm theo nguồn gốc phát sinh.

- Phụ kiểu CQ rừng nửa rụng lá nhiệt đới, mưa mùa với một mùa khô kéo dài, không có mùa đông lạnh.

7

Loại (nhóm loại) cảnh quan

Đặc trưng bởi mối quan hệ tương hỗ giữa các nhóm quần xã thực vật và các loại đất trong chu trình sinh học nhỏ, quyết định mối cân bằng vật chất của CQ qua các điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và sự tác động của các hoạt động nhân tác.

- Loại CQ cây bụi trảng cỏ nghèo kiệt trên đất xói mòn trơ sỏi đá vùng đồi.

Đối với các hệ thống phân loại này đều có chung một nguyên tắc là dựa trên những nét tương đồng của các thể địa lý mà chia ra các cấp khác nhau. Số lượng của các cấp phân vị phụ thuộc vào diện tích khu vực nghiên cứu, vị trí địa lý, tính chất phức tạp mang tính địa phương của khu vực và chúng còn phụ thuộc vào mục tiêu của việc phân loại để phân chia các cấp tương ứng.

b. Bản đồ cảnh quan

Bản đồ cảnh quan thể hiện các đối tượng và kết quả nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa các hợp phần tự nhiên. Bản đồ cảnh quan phản ánh đầy đủ, khách quan đặc điểm, quy luật hình thành, phân bố của các thành phần, yếu tố tự nhiên và mối quan hệ giữa các đơn vị cảnh quan trên lãnh thổ.

Bản đồ cảnh quan phản ánh sự phân bố, cấu trúc và nguồn gốc của các thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên, lấy cảnh quan làm đơn vị cơ sở. Tuỳ thuộc vào tỷ lệ bản đồ, bản đồ cảnh quan thể hiện các cấp khác nhau của hệ thống phân vị địa lý tự nhiên hoặc các bậc khác nhau của hệ thống phân loại cảnh quan. Bản chú giải bản đồ cảnh quan được xây dựng theo các nguyên tắc sau đây:

- Nguyên tắc phát sinh hình thái

- Nguyên tắc tổng hợp

- Nguyên tắc đồng nhất tương đối

Các nguyên tắc trên liên quan chặt chẽ và bổ sung cho nhau với mục tiêu cuối cùng là xây dựng được một bản đồ CQ tổng hợp mà trên đó, không chỉ thể hiện một cấu trúc đồng nhất của CQ mà còn phân biệt rõ được chức năng tự nhiên của chúng.

Tóm lại, nghiên cứu, đánh giá, phân tích cảnh quan để phân vùng CNMT là một cách tiếp cận phù hợp dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn đúng đắn.

1.4. SỰ GẮN KẾT GIỮA QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN VÀ QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG - MỘT NGUYÊN TẮC CHỦ ĐẠO CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

1.4.1. Khái niệm về quy hoạch phát triển và quy hoạch môi trường

1.4.1.1. Quy hoạch phát triển



Là một hành động lựa chọn, hoạch định, bố trí, sắp xếp các đối tượng được quy hoạch theo không gian, theo cơ cấu hợp lý, nhằm thực hiện những định hướng, mục tiêu chiến lược của kế hoạch theo những thời gian nhất định [8].

Quy hoạch mang tính không gian hoặc cơ cấu của sự triển khai, thực hiện kế hoạch. Kế hoạch mang tính thời gian cùng với các định hướng, mục tiêu cho quy hoạch. Bởi vậy, quy hoạch có tính không gian nhưng gắn với mục tiêu và thời gian của kế hoạch, và kế hoạch có tính thời gian gắn với không gian của quy hoạch.

Quy hoạch và kế hoạch cùng được thực hiện với nhau trong một thể thống nhất, được gọi là kế hoạch hóa.

Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội rõ ràng là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình kế hoạch hoá của nền kinh tế quốc dân. Quy hoạch này phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển KT-XH chung của đất nước và làm căn cứ cho xây dựng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.

Trong quá trình nghiên cứu xây dựng QHPT, nguồn tiềm năng phát triển cần được điều tra, đánh giá một cách đầy đủ các yếu tố tác động đến quá trình phát triển được thiết lập và định hình, hệ thống các quan điểm phát triển, xây dựng các phương án phát triển và như vậy hệ thống mục tiêu kinh tế vĩ mô đã được xác lập trong từng phương án quy hoạch.



Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ [13] đã nêu rõ quá trình thực hiện QHPT phải xuất phát từ công tác kế hoạch hoá, cụ thể là từ chiến lược đến quy hoạch và cuối cùng là cụ thể hoá bằng các kế hoạch 5 năm và hàng năm. QHPT của các ngành, các địa phương phải coi trọng yếu tố thị trường, tác động của khu vực và quốc tế phát huy mạnh mẽ nguồn nội lực và khai thác có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. Trong lĩnh vực đầu tư phát triển, những dự án đầu tư lớn và các dự án hợp tác đầu tư với nước ngoài chỉ được xem xét khi chúng phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt.

Tuy nhiên, trong quy hoạch này vấn đề đánh giá HTMT và ĐTM của các mục tiêu phát triển chưa được đề cập tới. Như vậy, công tác lập QHPT chưa được gắn kết với công tác BVMT và quá trình phát triển khó có thể đạt được sự bền vững.

1.4.1.2. Quy hoạch môi trường

Thuật ngữ QHMT xuất hiện vào những năm 80’ của thế kỷ XX và được coi là một ngành khoa học KT-XH môi trường mới mẻ. Vì vậy, còn tồn tại nhiều quan điểm và phương pháp nghiên cứu khác nhau về vấn đề này.

Theo định nghĩa của Alan Gilpin (1996) thì QHMT là “Sự xác định về các mục tiêu mong muốn về kinh tế - xã hội đối với môi trường tự nhiên và tạo ra các chương trình quản lý để đạt được mục tiêu đó”.

Quan điểm của Ortolano (1984) về quy hoạch môi trường cũng tương tự như của Gilpin và theo Ông nội dung của quy hoạch môi trường bao gồm quy hoạch sử dụng đất, quản lý chất tồn dư và kỹ thuật đánh giá tác động môi trường.

Lê Thạc Cán (1994) sử dụng thuật ngữ “lập kế hoạch hóa môi trường” (Environmental planning) là việc lập kế hoạch, trong đó các mục tiêu phát triển KT-XH được xem xét một cách tổng hợp với các mục tiêu về môi trường nhằm đảm bảo khả năng thực tế cho việc thực hiện phát triển bền vững.

ADB (1991) trong quy hoạch nhằm phát triển vùng cần phải cân nhắc tới nhu cầu phát triển bền vững bằng cách nhất thể hóa quản lý tài nguyên và môi trường.



Một số tác giả khác như Anne Bee (1990); Richard L.Meier (1990) có quan điểm cần phải phân tích sâu giữa quy hoạch môi trường với các yếu tố sinh thái [8].

Trong tài liệu hướng dẫn về “Phương pháp luận quy hoạch môi trường” do Cục Môi trường thuộc Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ban hành (tháng 12/1998) đã đưa ra khái niệm về QHMT như sau: “Quy hoạch môi trường là quá trình sử dụng có hệ thống các kiến thức khoa học để xây dựng các chính sách và biện pháp trong khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên và BVMT nhằm định hướng các hoạt động phát triển trong khu vực, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững”.

Thực chất của công tác QHMT là tổ chức không gian lãnh thổ và sử dụng các thành phần môi trường phù hợp với các CNMT và ĐKTN trong vùng quy hoạch. Mặt khác, công tác QHMT còn có thể là thực hiện việc điều chỉnh không gian lãnh thổ và các thành phần MT làm sao để việc khai thác sử dụng chúng phù hợp với chức năng môi trường. Như vậy, mục đích của QHMT vùng lãnh thổ là điều hòa sự phát triển của ba hệ thống: tự nhiên - môi trường - kinh tế xã hội đang tồn tại và hoạt động trong vùng, đảm bảo sao cho sự phát triển của hệ thống KT-XH phù hợp trong khả năng chịu tải của hệ thống tự nhiên, bảo vệ được MT sống và làm cho chất lượng cuộc sống ngày càng tốt hơn (Đặng Trung Thuận [48]).

Tóm lại, tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của QHMT là những quan điểm về PTBV bao gồm sử dụng hợp lý TNTN, nâng cao chất lượng môi trường sống, phát triển KT-XH trong khả năng chịu tải giới hạn của các HST [48].

1.4.1.3. Gắn kết quy hoạch môi trường vào quy hoạch phát triển



Trong tài liệu hướng dẫn: “Phương pháp luận quy hoạch môi trường” do Cục Môi trường ban hành đã xác định mối quan hệ giữa QHMT với các quy hoạch khác, đặc biệt là quy hoạch phát triển KTXH như sau [8]:

Các hoạt động phát triển bao giờ cũng gây những ảnh hưởng tốt, xấu với mức độ khác nhau đến tài nguyên và môi trường ở một phạm vi không gian và thời gian nhất định. Do đó QHMT gắn chặt với quy hoạch kinh tế và quy hoạch phát triển ngành trên một lãnh thổ xác định. Sự gắn bó này phải được thể hiện ngay từ giai đoạn đầu của QHMT. QHMT phải luôn luôn bám sát QHPT KTXH ở tất cả các giai đoạn quy hoạch để có sự thống nhất thay đổi, điều chỉnh kịp thời. Sự thống nhất hay thay đổi, điều chỉnh các hợp phần trong cả hai loại quy hoạch trên được thực hiện tại các cuộc họp xác định phạm vi, dàn xếp giữa những người làm công tác phát triển với những nhà môi trường.



Những khó khăn sẽ xảy ra khi gắn QHMT vào QHPT: Những khó khăn thường gặp phải là quyền lợi được hưởng về môi trường của các cộng đồng khác nhau của những người gây ô nhiễm và người phải gánh chịu ô nhiễm...

...QHMT không phải là một quy hoạch độc lập với quy hoạch phát triển kinh tế hay quy hoạch phát triển ngành bởi vì QHMT động chạm đến nhiều lĩnh vực khác nhau: tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính sách, thể chế và tất nhiên cũng không lệ thuộc vào hai loại quy hoạch trên. Nếu QHMT rơi vào một trong hai vị trí độc lập hay lệ thuộc thì mục tiêu PTBV sẽ không đạt được hoặc là phát triển cứ phát triển còn môi trường bị xem nhẹ hay là độc tôn”.

Phân tích những nhận định trên ta có thể thấy rõ mối quan hệ mật thiết giữa QHMT với QHPT. Lĩnh vực môi trường vừa là tác nhân thúc đẩy, vừa là mục đích của sự phát triển, đảm bảo không những cho sự PTBV mà còn đảm bảo cho sự tái tạo tiềm năng, tái tạo nguồn lực theo các chu trình phát triển cao hơn. Mối quan hệ giữa môi trường và sự phát triển KTXH là mối quan hệ thuận - nghịch khăng khít với nhau. Trên thực tế người ta có thể đánh giá được trình độ phát triển, trình độ tiên tiến của một nền kinh tế hoặc của một vùng lãnh thổ thông qua việc đánh giá cách ứng xử với những vấn đề môi trường.



Dựa vào quy QHPT KT-XH của một quốc gia, của từng ngành và từng vùng lãnh thổ, thực hiện việc xem xét đầy đủ mọi mặt về môi trường sinh thái, từ đó xây dựng QHMT. Trong bản quy hoạch cần thiết phải đưa ra những khuyến nghị nhằm hợp lý hoá, tối ưu hoá QHPT KTXH.

Để đảm bảo được sự thống nhất và phù hợp với mối quan hệ giữa QHMT và QHPT KTXH, trong quá trình xây dựng QHMT phải thực hiện các nguyên tắc và nội dung như hướng dẫn: “Phương pháp luận QHMT” của Cục Môi trường.

- Các nguyên tắc:



+ Sự phù hợp của cấu trúc bố trí cơ cấu phát triển KT-XH với Luật BVMT và các Luật về sử dụng hợp lý từng dạng TNTN về chất lượng MT nhằm PTBV.

+ Phối hợp lồng ghép với QHPT KT-XH, quy hoạch quản lý TNTN, sử dụng đất.

+ Kết hợp giữa các nhà khoa học và thực tiễn sẵn có phục vụ cho công tác quản lý môi trường. Hoạt động QHMT được tiến hành trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ liên ngành ở trình độ tiên tiến.

+ Thực hiện kiểm soát toàn bộ chất gây ô nhiễm ở mức độ phân chia chức năng khác nhau, trong đó tổng lượng ô nhiễm thải ra không vượt quá giới hạn quy định.

- Các nội dung:

+ Nghiên cứu QHPT KT-XH: thu thập các thông tin, cơ sở dữ liệu về điều kiện tự nhiên, hiện trạng và QHPT KT-XH tại địa phương hay vùng quy hoạch. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu về môi trường.

+ Phân vùng CNMT lãnh thổ phục vụ QHMT: căn cứ vào ĐKTN và QHPT KT-XH tiến hành phân vùng chức năng lãnh thổ nghiên cứu phục vụ QHMT.

+ Dự báo và ĐTM từ các mục tiêu phát triển của phương án QHPT KT-XH: tính toán, dự báo tải lượng các chất ô nhiễm và đánh giá những tác động đến môi trường từ các chỉ tiêu phát triển của từng ngành kinh tế theo phương án QHPT KT-XH của vùng lãnh thổ nghiên cứu.

+ Lập QHMT: đề xuất các giải pháp quy hoạch, xác định các dự án ưu tiên, vùng ưu tiên và các giải pháp thực hiện quy hoạch.

+ Điều chỉnh QHPT KT-XH: đề xuất, kiến nghị nhằm điều chỉnh QHPT KT-XH phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.

+ Lập bản đồ quy hoạch BVMT: thể hiện các ý đồ quy hoạch BVMT (dạng vùng, dạng điểm) trên bản đồ quy hoạch. Bản đồ thực hiện trong GIS ở các tỷ lệ thích hợp.

1.4.2. Vài nét tổng quan về nghiên cứu xây dựng quy hoạch môi trường

QHMT được hiểu là sự quản lý tập trung của toàn xã hội đối với các nguồn tài nguyên trên trái đất.

Từ những năm 1960, loài người bắt đầu ý thức mạnh mẽ về các hiểm hoạ tự nhiên (lũ lụt, động đất, hạn hán...). Sự gia tăng các hiểm hoạ này có một phần nguyên nhân là sự phát triển thiếu tính toán của con người. Trong thời kỳ này khái niệm môi trường mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các hệ thống có thể tái sinh và không thể tái sinh cùng với việc nghiên cứu một phần về đô thị. Sau đó, các vấn đề môi trường được mở rộng hơn, bao gồm cả vấn đề chất lượng cuộc sống.



Năm 1972, mối quan tâm về môi trường toàn cầu, về sự bền vững của các xu hướng phát triển công nghiệp và đô thị được nêu ra trong hội nghị Stokholm. Năm 1974, vấn đề biến đổi khí hậu nói chung do bị ảnh hưởng của sự bùng nổ dân số, của ô nhiễm môi trường và do sử dụng không hợp lý các nguồn tài nguyên đã được đề cập. Năm 1980, khái niệm “phát triển bền vững” liên quan đến việc bảo tồn các nguồn tài nguyên sống và tăng cường sự thịnh vượng của con người đã được nêu ra trước công chúng. Thực tế cho thấy: vấn đề phát triển mà bỏ qua khả năng cung cấp của trái đất dẫn đến những hậu quả đáng kể tới chính cuộc sống của con người. Các mối quan tâm cũng bắt đầu tập trung tới các nước thuộc Thế giới thứ ba. Cuối thập kỷ 80, việc phát triển kinh tế và BVMT trở thành hai mặt ngang bằng của vấn đề PTBV. Hội nghị thượng đỉnh ở Rio (Braxin) năm 1992 đã xem xét kỹ càng và hoàn thiện hơn mục đích và quy mô của PTBV.

Cùng với các chương trình môi trường toàn cầu, vấn đề môi trường cũng bắt đầu được đặc biệt quan tâm ở mức độ châu lục. Điều này thể hiện ở một loạt các kế hoạch hành động môi trường của châu Âu (EU - cộng đồng châu Âu). Mức độ so sánh hợp lý và sự phù hợp của các biện pháp đánh giá môi trường, các tiêu chuẩn ô nhiễm, mạng lưới bảo tồn thiên nhiên và việc giúp đỡ tài chính trong cộng đồng châu Âu được đưa ra và thực hiện.

Ở mức độ quốc gia, ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề môi trường bị ảnh hưởng do các hoạt động KT-XH. Từ những năm 80 đến những năm 90, các chương trình nghị sự về môi trường ở các quốc gia trở nên sôi động hơn. Chương trình nghị sự 21 và các văn bản chính sách về biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học và lâm nghiệp phản ánh các mối quan tâm của cả cộng đồng. Vấn đề cân bằng giữa phát triển kinh tế và BVMT được chú trọng. Và “phát triển bền vững” thực sự trở thành nguyên tắc hàng đầu trong mọi chính sách kinh tế - môi trường của nhiều quốc gia. Dù việc hiểu và thực hiện chiến lược này không phải lúc nào cũng đạt kết quả cao song nó cũng đã được thực hiện rộng rãi ở phạm vi quốc tế.

Hơn 20 năm qua, khái niệm sử dụng một cách bền vững các nguồn TNTN trên trái đất đã chi phối suy nghĩ của các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế cũng như các nhà nghiên cứu môi trường. Và thuật ngữ “phát triển bền vững” vượt lên tất cả các thuật ngữ khác nói về sự bền vững chính thức được đưa vào công tác lập quy hoạch. Các tranh cãi về thế nào là sự PTBV được nêu ra từ một thực tế khách quan là: BVMT và phát triển kinh tế diễn ra đồng thời. PTBV không chỉ còn là sử dụng nguyên, nhiên liệu để phát triển kinh tế, mà còn là thoả mãn các yêu cầu cơ bản về con người và sinh thái. TNTN phải được sử dụng, thừa kế và tái tạo bởi các thế hệ tương lai.

Trước đây, quy hoạch được thực hiện từ trên xuống dưới. Giờ đây, xu hướng theo chiều ngược lại từ dưới lên đang được áp dụng rộng rãi và tỏ ra thực sự hữu hiệu cả về lý thuyết lẫn thực hành. Trong cách làm này, chuyên môn của chuyên gia kết hợp với ý kiến, quan điểm của người dân tạo ra các phương án quy hoạch tốt. Trên thực tế, phương pháp này đã trở thành công cụ, là cầu nối giữa người lãnh đạo (chính quyền) và người dân. Các phương án quy hoạch mang tính khả thi hơn, góp phần giải quyết vấn đề “chất lượng cuộc sống” của người dân.

Trong quy hoạch, một chiến lược chủ đạo là “tạo sự cân bằng”. Có nghĩa là sự cân bằng giữa nguồn tài nguyên chúng ta khai thác và nguồn chất thải sau khi sử dụng số tài nguyên này. Nhu cầu phát triển phải cân bằng với khả năng cung ứng của môi trường tự nhiên.

Hiện nay, vấn đề QHMT đã được quan tâm và phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Một số tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)… đã ban hành nhiều tài liệu hướng dẫn và giới thiệu kinh nghiệm về QHMT ở nhiều nước trên thế giới. Trong thời gian qua ADB đã xuất bản 3 tập tài liệu liên quan tới quản lý và quy hoạch môi trường, tài nguyên thiên nhiên tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Tập 3 của ADB là “Hướng dẫn Quy hoạch thống nhất phát triển kinh tế kết hợp với môi trường vùng - Tổng quan về các nghiên cứu quy hoạch phát triển môi trường vùng tại châu Á” (“Guidelines for Intergrated Regional Economic - cum - Environmental Development Planning - A Review of Regional Environmental Development Planning Studies in Asia”). Trong tập tài liệu này ADB cũng đã phân tích kinh nghiệm QHMT vùng cho 8 dự án khác nhau bao gồm: Lưu vực hồ Laguna và vùng Palawan (Philipin); Lưu vực sông Hàn (Hàn Quốc), Lưu vực hồ Songkla; vùng Eastern Seabord, vùng công nghiệp Samutprakarn (Thái Lan), vùng Segara Anakan (Indonesia); thung lũng Klang (Malaysia). Trên cơ sở phân tích các kinh nghiệm nêu trên, ADB đã xây dựng Hướng dẫn Quy hoạch thống nhất phát triển kinh tế kết hợp với môi trường vùng.



Ở châu Á, vấn đề QHPT phát triển mạnh nhất tại Nhật Bản. Khởi đầu từ 1957, quy hoạch phát triển cho các vùng nông thôn nhằm đạt được hiệu quả cho sử dụng đất và các nguồn tài nguyên thông qua quy hoạch hoàn chỉnh, sự đầu tư của công chúng vào cơ sở hạ tầng, tạo môi trường sống trong lành và thông qua các biện pháp bảo tồn thiên nhiên.

Ở Việt Nam, ngày 25/6/1998 Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Một trong những nội dung quan trọng nhằm thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị là xây dựng tầm nhìn, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch BVMT. Cục Môi trường thuộc Bộ KHCN & MT (cũ) đã xây dựng tầm nhìn đến năm 2020 về BVMT, Chiến lược quốc gia về BVMT đến năm 2010 và Kế hoạch hành động BVMT đến năm 2005.

Trong Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 [12] (Điều 3, Chương I) đã quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, lập quy hoạch bảo vệ môi trường, xây dựng tiềm lực cho hoạt động bảo vệ môi trường ở trung ương và địa phương...”.

Thực tiễn cho thấy, ở nước ta công tác QHMT mới chỉ được quan tâm và xem xét trong thời gian 5 năm trở lại đây. Trong khi đó QHPT KT-XH của các vùng, các tỉnh, thậm chí các huyện đã được thực hiện từ hàng chục năm nay. Như vậy, công tác QHMT đã đi sau một bước khá xa so với QHPT KT-XH. Từ thực tế đó, công tác QHMT chỉ còn mang tính thẩm định về phương diện môi trường cho các phương án QHPT KT-XH, từ đó có thể đề xuất và kiến nghị về phương diện BVMT nhằm đảm bảo cho quá trình phát triển đạt được sự bền vững. Vì vậy, thực chất của công tác QHMT hiện nay là đề xuất một phương án quy hoạch BVMT trên cơ sở xem xét phương án QHPT KT-XH.

Đối với những vùng đã có QHPT kinh tế hoặc đã hoạt động, quy hoạch BVMT đóng vai trò thẩm định, xem xét những mặt hợp lý và không hợp lý của các hoạt động này để chỉnh sửa, bổ sung sao cho hợp lý hơn. Thí dụ việc chuyển các cơ sở sản xuất CN gây ô nhiễm sang vùng tập trung, xa khu dân cư hay việc bổ sung các hệ thống xử lý chất thải là việc chưa làm bao giờ, nay được tiến hành.

Quy hoạch BVMT là công đoạn cuối để tiến hành các hoạt động phát triển KT-XH.

Nghiên cứu, xây dựng quy hoạch BVMT là một vấn đề mới đối với nước ta. Các công trình nghiên cứu đầu tiên theo hướng này ở nước ta là của tổ chức Jica (Nhật Bản) giúp thành phố Hà Nội quy hoạch. Kế đến là quy hoạch môi trường thành phố Hạ Long, Đồng bằng sông Cửu Long do Đặng Trung Thuận, Lê Trình thực hiện. Các đề tài: “Quy hoạch môi trường vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (TP. Đà Nẵng, các tỉnh Thừa thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi)” (Mã số KC.08.03) và: “Nghiên cứu xây dựng quy hoạch môi trường phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2001-2010” (Mã số KC.08.02) thuộc Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước về bảo vệ môi trường và phòng tránh thiên tai, được thực hiện trong các năm từ 2001-2004. Trong các đề tài này, các kết quả nghiên cứu mang tính thử nghiệm về phương pháp luận và mang tính thí điểm về việc lập quy hoạch môi trường cho một vùng lãnh thổ. Các kết quả tuy chưa phải là “kết nối và lồng ghép” với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vì quy hoạch môi trường được thực hiện sau khi đã có quy hoạch tổng thể, nhưng bước đầu đã thể hiện được nhiệm vụ thẩm định về công tác bảo vệ môi trường cho các dự án phát triển trong quy hoạch.

Ở quy mô cấp tỉnh, đã có một số tỉnh thành đã và đang xây dựng quy hoạch BVMT như TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Vĩnh Long, Bình Thuận, Quảng Ngãi… Cục Môi trường đã đặt vấn đề nghiên cứu cơ sở khoa học QHMT và xây dựng bản hướng dẫn QHMT.

Ở Nghệ An, trong 2 năm 2003-2004, UBND thành phố Vinh và Sở Khoa học Công nghệ đã tổ chức thực hiện “Quy hoạch bảo vệ môi trường thành phố Vinh” và giao cho Viện Địa lý thực hiện [60]. Trong bản quy hoạch này đã thực hiện việc đề xuất những giải pháp kỹ thuật – môi trường cụ thể cho từng hạng mục quy hoạch như: Quy hoạch quản lý và sử dụng nguồn nước, Quy hoạch hệ thống thoát nước và xử lý nước thải, Quy hoạch bãi chôn lấp chất thải rắn, Quy hoạch hệ thống quan trắc môi trường… và đã đề xuất được những dự án môi trường cụ thể về BVMT thị xã, môi trường công nghiệp, môi trường du lịch, môi trường nông thôn ngoại thành… cần ưu tiên thực hiện trong suốt giai đoạn thực hiện quy hoạch phát triển. Bên cạnh các giải pháp QHMT đề tài cũng đã đề xuất các giải pháp thực hiện quy hoạch BVMT thành phố Vinh như: Những giải pháp về kinh tế, tổ chức và tăng cường năng lực quản lý môi trường, giáo dục, đào tạo, nâng cao nhận thức môi trường…

1.5. TIẾP CẬN SINH THÁI CẢNH QUAN TRONG NGHIÊN CỨU THÀNH LẬP BẢN ĐỒ PHÂN VÙNG CHỨC NĂNG MÔI TRƯỜNG

1.5.1. Khái niệm về chức năng môi trường

Các cuộc khủng hoảng sinh thái đã xảy ra ở nhiều vùng trên trái đất như là một sự cảnh tỉnh rằng con người phải nghĩ cách khai thác sử dụng thiên nhiên theo những khả năng thực thụ của nó và để có một cuộc sống ổn định, con người phải tự tìm cách bảo vệ môi trường sống của chính mình. Từ thực tế đó đã xuất hiện một khái niệm tổng hợp là: tự nhiên - con người - môi trường. Đây là một mối quan hệ hữu cơ vô cùng phức tạp, là một sự tác động qua lại hết sức gắn bó với nhau và con người trở thành một nhân tố quyết định cho sự tồn tại của mối quan hệ này theo chiều hướng tích cực.

Quan niệm từ lâu đã trở thành phổ biến là con người coi môi trường là nơi ở, sinh hoạt, là nguồn cung cấp mọi thứ nguyên, nhiên liệu, vật chất vô cơ và hữu cơ cho cuộc sống. Nó cũng là địa bàn cho mọi hoạt động kinh tế. Điều khác biệt là ở các nền kinh tế sơ khai người ta coi đó là những nguồn lợi vô tận và khi khủng hoảng do sự thiếu hụt về nguồn cung do thiên tai hay sự bùng nổ dân số, hoặc do việc sử dụng quá mức tài nguyên dẫn đến dịch bệnh, đói xảy ra thì xung đột xảy ra, thường là chiến tranh.

Ngày nay khi con người hiểu ra rằng giữa môi trường và các hoạt động của con người không phải chỉ là quan hệ thuận mà còn có các tác động ngược. Người ta cũng hiểu thêm rằng các yếu tố của môi trường tồn tại không độc lập mà có tương quan qua lại, tác động vào nhau tạo thành các hệ thống. Đây là các hệ thống động lực, có các thuộc tính cơ bản như đã kể trên. Ngoài ra, nhận thức quan trọng nhất của con người là môi trường có các ngưỡng chịu tải dưới các tác động tự nhiên cũng như nhân tác. Các tác động tự nhiên có thể vượt quá giới hạn chịu đựng và rất khó kiểm soát, nhưng những tác động nhân tác thì có thể kiểm soát được.

Người ta đã bắt đầu tập trung vào phân tích khái niệm môi trường, xem xét những chức năng của chúng mà con người phải tuân thủ để đảm bảo cho môi trường sống luôn luôn “khoẻ và lành mạnh”. Khái niệm môi trường cho đến nay được coi là các hệ thống lãnh thổ và hoạt động tự nhiên, KT-XH, như là các cảnh quan cùng với các quan hệ của các thành phần này với nhau, đó là một tập hợp các yếu tố vô cơ, hữu cơ và các hoạt động của con người. Đó là một hệ thống động lực có quá trình phát sinh, phát triển và tiến hoá không ngừng. Chúng có các thuộc tính như động lực phát triển, tính ổn định, tính chống chịu, khả năng tự làm sạch, tính tổ chức. Các thuộc tính này hoạt động theo các quy luật tự nhiên nhưng dưới sự tác động của con người, chúng đã và đang bị biến đổi.

Môi trường có nhiều chức năng khác nhau. Thông thường người ta xác định có 5 CNMT chính, đó là [93], [96]:

1. Là không gian sống của con người và các thể sinh vật.

2. Là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và các hoạt KT-XH của con người.

3. Là nơi chứa đựng và chuyển hóa các chất thải do con người tạo ra trong hoạt động đời sống và KT-XH của mình.



4. Là nơi điều hòa môi trường, giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên đối với con người và sinh vật.

5. Là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người về môi trường sống.



V.S. Preobrazenski cho rằng một đơn vị lãnh thổ tự nhiên chứa đựng các chức năng: sản xuất vật chất, tạo môi trường sống, bảo vệ tài nguyên, thông tin và thẩm mỹ.

Theo Nguyễn Thế Thôn [59] CNMT cũng chính là các chức năng sinh thái của các đơn vị tự nhiên, là chức năng của các CQST. Trong môi trường tự nhiên, các thành phần của môi trường sống không mang tính độc lập, riêng biệt với nhau mà thường liên quan mật thiết với các thành phần môi trường khác và chuyển hóa cho nhau trong thể thống nhất của lãnh thổ sinh thái. Như vậy, QHMT là quy hoạch các lãnh thổ CQST theo các CNMT của lãnh thổ đó. Trong công tác QHMT các CNMT luôn được xem xét một cách kỹ càng nhằm tạo ra sự phù hợp trong các nhiệm vụ quản lý môi trường theo các mục tiêu phát triển KT-XH.

Từ những phân tích trên, có thể thấy môi trường có những chức năng và quy luật hoạt động riêng của nó nhưng lại hoàn toàn phụ thuộc vào các chức năng tự nhiên và sự hoạt động của con người tại một khu vực, hoặc một vùng lãnh thổ nào đó. Để phân tích được các CNMT của một vùng lãnh thổ, về mặt phương pháp luận cần phải đánh giá được các chức năng tự nhiên mà trên thực tế đó là những khả năng đáp ứng các nhu cầu về tài nguyên cũng như khả năng tổ chức cuộc sống của con người. Con người khi khai thác các chức năng tự nhiên một cách hợp lý thì sẽ không tạo nên sự xung đột với các CNMT của lãnh thổ đó. Nói cách khác, không tạo nên sự cạn kiệt nguồn TNTN, sự suy thoái chất lượng các điều kiện sinh thái, sự quá tải của CNMT mà đơn vị lãnh thổ đó có khả năng chịu được.

Theo Phạm Bình Quyền, Trần Yêm và nnk. (Định hướng QHMT tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Báo cáo tại hội thảo khoa học đề tài KC.08.07 tại Đồng Hới, ngày 8-10/8/2002) thì "vùng chức năng môi trường là một bộ phận lãnh thổ, trên đó các hoạt động kinh tế - xã hội phù hợp với các điều kiện tự nhiên và tài nguyên môi trường. Mỗi vùng có một phạm vi xác định theo yếu tố tự nhiên (không theo ranh giới hành chính) có các đặc trưng riêng và giữ một vai trò nhất định trong nền kinh tế địa phương. Cơ sở xác định các vùng CNMT là chất lượng môi trường của vùng nghiên cứu, đánh giá về năng lực chịu tải môi trường, đánh giá về mức độ nhạy cảm của các HST trước các yếu tố tự nhiên và các hoạt động KT-XH..."

Theo quan điểm của các tác giả này thì vùng CNMT được quyết định bởi các hoạt động KT-XH với nguyên tắc đảm bảo sự phù hợp với ĐKTN và tài nguyên môi trường. Chúng tôi cho rằng, việc xác định CNMT theo quan điểm này là chưa thực sự phù hợp, bởi vì bản thân một đơn vị tự nhiên đã chứa đựng một CNMT riêng của nó. Hoạt động KT-XH được tổ chức trên đơn vị tự nhiên môi trường đó phải phù hợp với các chức năng của nó, nếu không sẽ làm biến đổi sự cân bằng tự nhiên của đơn vị lãnh thổ đó.

Lê Quý An [4] cho rằng: “Nghiên cứu phân vùng các đơn vị CNMT là khoanh gom các vùng lãnh thổ có đồng nhất các yếu tố môi trường và là sự phân tích, đánh giá các biến đổi theo thời gian, không gian của tình hình môi trường do quá trình phát triển KT-XH ở vùng lãnh thổ đó”. Để khoanh vùng các đơn vị CNMT có thể sử dụng một số đặc trưng có tính nguyên tắc sau đây: các đặc điểm về điều kiện tự nhiên; Các đặc điểm về phát triển KT-XH; Các đặc điểm về môi trường và các đặc điểm về quản lý hành chính.

Theo quan điểm này, việc sử dụng ranh giới các đơn vị hành chính (đồng bằng sông Hồng: cấp vùng, ranh giới các huyện: cấp phụ vùng, ranh giới tự nhiên của các HST: cấp tiểu vùng) theo chúng tôi là chưa hợp lý bởi vì thông thường ranh giới vùng CNMT mang tính tự nhiên hơn là tính hành chính.

1.5.2. Tiếp cận sinh thái cảnh quan trong nghiên cứu thành lập bản đồ phân vùng chức năng môi trường



Lý thuyết CQST được ứng dụng trong nghiên cứu môi trường bởi vì môi trường phân bố theo lãnh thổ mà CQST là lãnh thổ môi trường sống của con người và mọi thể sinh vật, cho nên nghiên cứu CQST là nghiên cứu lãnh thổ môi trường sinh thái. Đánh giá tác động và đánh giá chất lượng môi trường đều đánh giá trên các CQST. Quy hoạch môi trường và quản lý môi trường cũng là quy hoạch và quản lý các cảnh quan sinh thái [79], [91], [93], [96].

Như vậy, QHMT là quy hoạch các lãnh thổ CQST, trên cơ sở các chức năng môi trường của lãnh thổ đó, có nghĩa là định ra các chức năng đối với môi trường thành phần hay môi trường sinh thái tổng hợp của lãnh thổ.

Bản đồ CQST được phổ biến hiện nay ở nhiều nước trên thế giới trong các công tác đánh giá tác động môi trường, hiện trạng môi trường và phân vùng CNMT. Ở một số nước, chúng được gọi với tên khác là bản đồ các HST. Tuy phương pháp thành lập có khác nhau, ngay cả ở hệ thống phân vị, nhưng điểm chung nhất là loại bản đồ này thể hiện phân bổ không gian của các đơn vị lãnh thổ với sự thống nhất tương đối của các yếu tố địa chất, địa mạo, nước ngầm, nước mặt, thảm thực vật, các dạng đất đai, mức độ nhiễu loạn [46]. Trong bản đồ các HST ở Tây Samoa và Hà Lan hay như ở Mỹ, Canada, Mexico, cách tiếp cận dùng để xác định ranh giới và mô tả các đơn vị tùy thuộc vào sự phân tích các HST. Như vậy, một tập hợp các yếu tố như khí hậu, địa vật lý, thủy văn, thổ nhưỡng, thực, động vật và sự sử dụng của con người sẽ được dùng để tạo nên các vùng sinh thái hài hòa. Ảnh hưởng tương đối của mỗi đặc điểm trong quá trình phân vùng sinh thái sẽ thay đổi theo khu vực và độc lập với cấp độ trong hệ thống. Ở Canada giai đoạn 1970-1985 đã kiểm kê tài nguyên cho diện tích 600000 km2 trên cơ sở các HST [46].

Ở Tây Âu, công tác phân vùng và hoạch định sử dụng lãnh thổ rất được chú trọng vì diện tích hẹp, mức độ công nghiệp hóa cao, mức độ sử dụng lãnh thổ cao. Ở Ucraina, việc sử dụng và quy hoạch lãnh thổ đều dựa vào các bản đồ cảnh quan. Ở Liên Xô (cũ) các nhà quy hoạch phát triển vùng thường gắn với các vùng địa lý tự nhiên hay cảnh quan và các đơn vị nhỏ hơn của chúng [98]. Thí dụ: vùng kinh tế lớn (tỷ lệ 1/500.000 đến 1/300.000) thì dựa vào cấp địa tổng thể là vùng địa lý tự nhiên, cảnh quan; miền kinh tế (tỷ lệ 1/300.000 đến 1/100.000) thì dùng các cảnh quan hoặc tiểu vùng địa lý; các vùng chăn nuôi, nông nghiệp, công nghiệp, hành chính (tỷ lệ 1/100.000 đến 1/25.000) dùng các tiểu khu, dạng cảnh quan; vùng dân cư trung tâm điều dưỡng (tỷ lệ 1/5.000 đến 1/2.000) dùng các diện cảnh quan [46].

Ở Hà Lan, người ta chia ra 6 vùng sinh thái dựa vào các đặc điểm địa chất, địa mạo, nước ngầm và độ cao. Các vùng lại được chi ra 37 tiểu vùng và dựa vào đó để quy hoạch các vùng phát triển [46]. Tại hội nghị về CQST toàn thế giới tổ chức tại Canada năm 1991, các nhà khoa học Hà Lan đưa ra quan điểm “Quy hoạch bảo vệ như là cơ sở của sinh thái cảnh quan” (Conservation Planing as a Basic for Landscape Ecology) [95].

Francoise Burel và Jacques Baudry trong cuốn “Landscape Ecology” [91] có đề cập đến nghiên cứu các HST trong sinh thái cảnh quan đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và quản lý các kiểu thảm thực vật và động vật. Từ năm 1983, IALE đã đề cập đến dùng các nghiên cứu về sinh thái cảnh quan trong việc quản lý đất đai và giới sinh vật trong các khu vực khác nhau. Các nghiên cứu về sinh thái cảnh quan cũng đã phục vụ cho việc tính toán tính bền vững trong phát triển nông nghiệp (Baudry, 1993).

Trong cuốn “Lập báo cáo hiện trạng môi trường – Sách tra cứu về phương pháp tiếp cận” của Bộ Môi trường Canada, Viện Y tế về Môi trường quốc gia Hà Lan (RIVM), Chương trình Môi trường Liên Hiệp quốc (UNEP) do Cục Môi trường (Việt Nam) dịch và xuất bản năm 1996 [46] có đề cập đến ưu và nhược điểm của các khuôn khổ và tổ chức không gian trong việc lập báo cáo HTMT. Trong đó có nhấn mạnh tính ưu việt của phương pháp dùng bản đồ các HST làm gốc. Sự phân tích các đặc tính môi trường như không khí, nước và đất đã được trình bày trong các đơn vị không gian và chức năng là vùng cảnh quan. Cần có sự phân loại theo không gian của các HST thực sự nhận biết được tổ hợp và tầm quan trọng của mọi yếu tố giải thích cho việc tồn tại và phân vùng các HST (Omernik, 1995) [93].

Cảnh quan học giúp người QHMT nhận biết mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau giữa các đơn vị lãnh thổ thông qua trao đổi vật chất và năng lượng, để từ đó có các phương án bố trí việc sử dụng và chứa, phân hủy chất thải, nguyên, nhiên liệu có hiệu quả. Mô hình cổ điển nhất được các nhà địa lý quy hoạch lãnh thổ áp dụng nhiều là quan hệ giữa các hệ thống tự nhiên ở dạng chuỗi theo sườn dốc hoặc lưu vực. Khái niệm này đã được biết đến từ lâu và nghiên cứu kỹ (Milne - 1935; Vageler - 1955). Ở Việt Nam, Đặng Trung Thuận, Lê Trình và nhiều người khác đã áp dụng phương pháp phân tích bản đồ CQST để QHMT; Lê Trình áp dụng các kết quả của phân vùng cảnh quan vùng Đồng bằng sông Cửu Long (8 vùng) làm cơ sở để QHMT [84]. Ngoài ra còn phải nói thêm rằng, các tác giả này cũng như các tổ chức khác như Jica của Nhật Bản giúp Hà Nội làm phân vùng, hay như ở Cần Giờ (khu dự trữ sinh quyển) cũng phân ra các đơn vị QHMT nhưng quy mô các đơn vị kể trên rất khác nhau và chưa thống nhất chỉ tiêu phân chia. Điều đáng nói nhất là các tác giả thống nhất quan điểm lấy các đơn vị CQST, vùng hay các đơn vị lãnh thổ có phân cấp và tính thống nhất về quan hệ tương tác như hệ thống các đơn vị CQST như chúng tôi đã trình bày để làm cơ sở phân tích cho công tác phân vùng CNMT và QHMT có cơ sở hơn.

Quan điểm tiếp cận khác: quy hoạch cảnh quan (Landscape planing) đã được sử dụng khá phổ biến ở các nước Tây Âu, Mỹ [93] bởi vì cảnh quan về bản chất tự nhiên là một đơn vị lãnh thổ. Việc quy hoạch, tái tạo, khôi phục chúng để sử dụng hợp lý là một việc làm cần thiết.

Theo quan điểm này, quy hoạch, khôi phục CQ là sự phân chia lãnh thổ ra các đơn vị CQ theo mục đích sử dụng, có tính đồng nhất tương đối về các yếu tố và quan hệ tương tác của chúng, để ra các biện pháp khôi phục CQ theo hướng có lợi cho con người mà vẫn đảm bảo sự PTBV. Có thể lấy các ví dụ như công tác trồng rừng trên đất trống đồi trọc là công việc khôi phục CQ bởi vì phải xác định rõ nguồn gốc của các CQ ở đây là gì thì công cuộc tiến hành trồng rừng theo cấu trúc tương tự mới có hiệu quả. Nói một cách khác, quy hoạch sinh thái cũng là một dạng của QHMT. Tùy theo tỷ lệ lãnh thổ hay từng cấp phân vị, mục tiêu quy hoạch mà nó trở thành một bộ phận bổ trợ đắc lực cho QHMT. Như Đặng Trung Thuận nhận xét, ranh giới của các đơn vị trên bản đồ CQST không hoàn toàn trùng hợp với ranh giới trên bản đồ QHMT bởi vì trong QHMT các yếu tố (quy luật) tự nhiên và xã hội hòa quyện với nhau, có thể ở đơn vị lãnh thổ này các yếu tố tự nhiên được chọn làm yếu tố trội, nhưng ở đơn vị lãnh thổ khác thì có thể ngược lại [48].

Các nhà khoa học Mỹ Joan Nassauer, Jm Thome làm việc ở phòng cảnh quan kiến trúc đại học Minnesota và Pennsylvania [93] đề cập nhiều đến “khôi phục cảnh quan” (Landscape Restoration) là quá trình tái tạo môi trường sống dựa trên cơ sở cấu trúc của các CQ nhân sinh cổ truyền (có nghĩa là có cấu trúc gần giống với tự nhiên). Khái niệm quy hoạch, tái tạo và khôi phục các cảnh quan thực chất là cải tạo các cảnh quan đã bị thay đổi theo hướng có lợi cho con người thông qua việc lập lại các cấu trúc tự nhiên để cân bằng sinh thái và các quy luật tự nhiên dần dần được lập lại, công việc này phải dựa vào nghiên cứu lịch sử và hiện trạng cảnh quan.

Ở Việt Nam, việc sử dụng các nghiên cứu về địa lý tự nhiên và cảnh quan học để xây dựng QHMT mới được áp dụng gần đây. Một phần do các nghiên cứu theo hướng này chưa sâu, phần lớn chỉ dừng lại ở mức độ mô tả, dẫn đến tình trạng việc dẫn tài liệu phục vụ cho các mục đích kinh tế đôi lúc chỉ là cho có cơ sở. Hầu hết các công trình này trích các công trình của Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự lập, Tổ phân vùng thuộc UBKH & KT Nhà nước. Sau này, một số công trình như “Nghiên cứu xây dựng bản đồ cảnh quan các tỷ lệ khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam, 1993”; “Cơ sở cảnh quan học của việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường lãnh thổ Việt Nam” NXB Giáo dục, Hà Nội, 1977”; “Phân vùng địa lý tự nhiên Tây Nguyên” (Hà Nội – 1986) cũng được trích dẫn khá nhiều. Một số công trình về phân vùng CNMT cho các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, huyện Cư Jut có sử dụng bản đồ CQST hoặc các nghiên cứu theo hướng này để thành lập bản đồ phục vụ cho QHMT [84], [90].

Đặng Trung Thuận cho rằng trong 5 công đoạn để quản lý môi trường thì QHMT là công đoạn cuối cùng và ông đánh giá rất cao vai trò của các bản đồ CQST để phân tích và thành lập các bản đồ phân vùng CNMT và QHMT và đã thực hiện ở khu vực thành phố Hạ Long, Cẩm Phả [63].

Về mặt lý thuyết, các nhà quy hoạch đều công nhận phải dùng các tư liệu mang tính tổng hợp như là bản đồ CQST nhưng trong thực tế chỉ có một vài công trình đã dẫn ở trên là tuân thủ nguyên tắc này để QHMT (Đặng Trung Thuận, Lê Trình, Trịnh Thị Thanh, Lê Quý An [4], [8], [48]). Hơn nữa các tư liệu nguồn về các yếu tố, thành phần tự nhiên, KT-XH lãnh thổ lại không đồng bộ, hay số liệu thống kê không tuân thủ quy định của nhà nước, dẫn đến không ít khó khăn cho người làm công tác tổng hợp, thành lập các bản đồ cảnh quan cũng như các bản đồ quy hoạch, trong đó có bản đồ quy hoạch bảo vệ môi trường.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Nghiên cứu, đánh giá ĐKTN, TNTN phục vụ sử dụng hợp lý lãnh thổ theo quan điểm phát triển bền vững mang tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Hướng tiếp cận địa lý tự nhiên tổng hợp và tiếp cận cảnh quan học nhằm giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn sử dụng hợp lý tài nguyên, BVMT lãnh thổ là quan điểm chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình nhìn nhận và đánh giá ĐKTN, TNTN, KT-XH và môi trường lãnh thổ.

Từ ý nghĩa của việc sử dụng hợp lý lãnh thổ trên cơ sở nghiên cứu địa lý tự nhiên tổng hợp luận án đã tiến hành phân tích những vấn đề mang tính lý luận về mối quan hệ giữa các chức năng tự nhiên và chức năng môi trường của các đơn vị tổng hợp thể tự nhiên. Có thể thấy rằng: việc xác định các CNMT của các đơn vị CQST là cơ sở để phân vùng chức năng môi trường và là một trong những căn cứ khoa học phù hợp, đáng tin cậy để thực hiện việc xây dựng QHMT của một lãnh thổ, tạo nên sự hài hòa phát triển của 3 hệ thống: tự nhiên, KT-XH và môi trường nhằm đạt được sự phát triển bền vững.

Chương 2


ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG PHỤC VỤ LẬP QUY HOẠCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỈNH NGHỆ AN

2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN

2.1.1. Vị trí địa lý

Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ, trên trục giao lưu kinh tế - xã hội Bắc Nam, có toạ độ địa lý từ 180 33’ đến 200 01’ vĩ độ Bắc và từ 1030 52’ đến 1050 48’ kinh độ Đông: Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, Phía Nam giáp với tỉnh Hà Tĩnh, Phía Tây giáp với Lào, Phía Đông giáp với biển Đông.

Tỉnh Nghệ An có diện tích tự nhiên là 16.498 km2, là tỉnh có diện tích lớn nhất nước ta (chiếm 5,1% diện tích cả nước). Dân số tính đến ngày 01/04/2009 là 3.113.055 người. Về hành chính, tỉnh Nghệ An có 17 huyện (7 huyện đồng bằng ven biển và 10 huyện miền núi), 1 thành phố (TP. Vinh) và 2 thị xã (TX. Cửa Lò, TX.Thái Hoà) [20] (hình 1.1).

Nghệ An có 419 km đường biên giới với CHDCND Lào và có 82 km đường bờ biển. Chiều dài lớn nhất từ Bắc xuống Nam khoảng 132 km và chiều rộng lớn nhất từ Đông sang Tây khoảng 200 km [78].

2.1.2. Đặc điểm địa chất, địa mạo



2.1.2.1. Đặc điểm địa chất khoáng sản

Lãnh thổ Nghệ An nằm trên phông chung giữa hai miền kiến trúc lớn trong khu vực đó là miền kiến trúc Trường Sơn và miền kiến trúc Tây bắc, ở vị trí thuộc miền rìa phía Đông bắc của địa khối Indosini.

Miền kiến trúc tân kiến tạo Tây bắc được nâng mạnh dạng vòm khối tảng với biên độ > 1000m và dạng khối tảng bị khống chế: phía Tây bắc là đứt gãy cấp Sơn La (nằm ngoài phạm vi nghiên cứu), phía Đông nam là đứt gãy Sông Cả. Đây là miền kiến trúc phát triển kế thừa trên kiến trúc cổ (khối Phu Hoạt) bị hoạt hoá mạnh trong Mezozoi, hình thành nên móng kết tinh với nhóm thành hệ kiến tạo lục nguyên Jura - Kreta, và các phức hệ xâm nhập xuyên cắt lên các hệ tầng này. Đến Kainozoi, hoạt động phun trào bazan và nâng mạnh dạng khối tảng với biên độ đạt tới 1500m nhưng không đều, mạnh ở phía Tây bắc và yếu dần về phía Đông nam, tạo nên các khối kiến trúc: Quế Phong, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Tương Dương, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Diễn Châu.

Miền kiến trúc tân kiến tạo Trường Sơn thể hiện là miền kiến trúc nâng mạnh dạng tuyến với biên độ 1000-1500m, phát triển kế thừa từ khối kiến trúc uốn nếp cổ cùng tên. Trong giai đoạn Tân kiến tạo hoạt động khá mạnh mẽ và về phía Đông nam sự phân dị của khối này thể hiện rõ với phương cấu trúc chung là Tây bắc - Đông nam, gồm các khối Tân kiến tạo: Hương Sơn, Nam Đàn và khối Vinh.


tải về 3.1 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương