MỤc lục mở ĐẦU 1



tải về 1.44 Mb.
trang1/12
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích1.44 Mb.
#12687
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 3

4. Những luận điểm bảo vệ 4

5. Những điểm mới của đề tài 4

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 5

7. Cấu trúc luận án 5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU CẢNH QUAN PHỤC VỤ SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỈNH QUẢNG BÌNH 6

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. 6

1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu cảnh quan trên thế giới 6

1.1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Cảnh quan ở Việt nam. 19

1.1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến cảnh quan tỉnh Quảng Bình. 22



1.2. Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan. 25

1.2.1. Quan niệm Cảnh quan và Cảnh quan học 25

1.2.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cảnh quan 27

1.3. Vấn đề sử dụng hợp lý TNTN và bảo vệ môi trường 43

1.3.1. Một số vấn đề về sử dụng hợp lý TNTN và BVMT 43

1.3.2. Mối quan hệ giữa cảnh quan và sản xuất lãnh thổ 45

CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ THÀNH TẠO CẢNH QUAN TỈNH QUẢNG BÌNH 49

2.1. Đặc điểm các yếu tố tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên tỉnh Quảng Bình 49

2.1.1. Vị trí địa lý 49

2.1.2. Đặc điểm địa chất – kiến tạo 50

2.1.3. Đặc điểm địa hình 53

2.1.4. Nhân tố khí hậu 58

2.1.5. Nhân tố thuỷ văn 66

2.1.6. Nhân tố thổ nhưỡng 69

2.1.7. Nhân tố sinh vật 73



2.2. Đặc điểm các yếu tố kinh tế-xã hội tỉnh Quảng Bình 80

2.2. 1. Dân cư và lực lượng lao động 80

2.2.2. Các ngành kinh tế 81

2.2.3. Hiện trạng sử dụng tài nguyên và môi trường tỉnh Quảng Bình 84



2.3. Vai trò các nhân tố tự nhiên và kinh tế-xã hội trong thành tạo cảnh quan tỉnh Quảng Bình 89

2.3. 1. Các nhân tố tự nhiên trong thành tạo Cảnh quan tỉnh Quảng Bình 89

2.3.2. Các nhân tố kinh tế - xã hội trong thành tạo Cảnh quan Quảng Bình 96

CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH ĐA DẠNG CẢNH QUAN TỈNH QUẢNG BÌNH 101

3.1. Hệ thống phân loại cảnh quan Tỉnh Quảng Bình 101

3.1.1. Cơ sở, nguyên tắc và phương pháp xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Quảng Bình 102

3.1.2. Hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Quảng Bình cho bản đồ cảnh quan tỉnh Quảng Bình tỷ lệ 1:100.000 107

3.1.3. Bản đồ cảnh quan tỉnh Quảng Bình tỷ lệ 1:100.000 109



3.2. Đặc điểm đa dạng cảnh quan tỉnh Quảng Bình 110

3.2.1. Đa dạng cấu trúc cảnh quan tỉnh Quảng Bình 110

3.2.2. Đa dạng chức năng và động lực cảnh quan tỉnh Quảng Bình 123

CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN CHO MỤC ĐÍCH ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỈNH QUẢNG BÌNH 132

4.1. Đánh giá cảnh quan tỉnh Quảng Bình cho mục đích phát triển nông, lâm nghiệp và du lịch 132

4.1.1. Nguyên tắc, đối tượng, mục tiêu đánh giá cảnh quan Quảng Bình 133

4.1.2. Hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá 133

4.1.3. Kết quả đánh giá 146



4.2. Định hướng sử dụng hợp lý nguồn TNTN và BVMT tỉnh Quảng Bình. 156

4.2.1. Quan điểm và cơ sở của việc định hướng sử dụng TNTN và BVMT Tỉnh Quảng Bình 156

4.2.2. Định hướng và giải pháp phát triển các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp, du lịch tỉnh Quảng Bình 168

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 183

TÀI LIỆU THAM KHẢO iii


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Để phát triển kinh tế xã hội của một lãnh thổ lâu dài và bền vững thì vấn đề sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và khai thác các nguồn lực, sử dụng có hiệu quả là những vấn đề hết sức quan trọng.

Cảnh quan của một lãnh thổ luôn có những thay đổi và phân hoá phức tạp. Các thành phần cấu tạo cảnh quan có tính độc lập tương đối, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ tạo thành một hệ thống động lực. Hệ thống đó tồn tại trong trạng thái cân bằng động, một thành phần nào đó trong hệ thống thay đổi có thể sẽ dẫn đến sự thay đổi của các thành phần khác và phá vỡ hệ thống cũ tạo nên một hệ thống mới. Nếu khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên tức là tác động vào hệ thống tự nhiên một cách phù hợp với đặc điểm, quy luật phát sinh, phát triển của chúng thì sẽ bảo vệ, tái tạo được nguồn tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo được sự phát triển bền vững của lãnh thổ. Ngược lại, nếu con người khai thác, sử dụng tự nhiên không tuân theo những quy luật thì sẽ mang lại những hậu quả lâu dài và không lường trước được. Vì thế, việc nghiên cứu để tìm ra những đặc trưng, quy luật phát sinh, phát triển của một lãnh thổ tự nhiên là rất quan trọng, giúp cho việc sử dụng lãnh thổ một cách hợp lý, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội một cách bền vững.

Trong những năm gần đây, để giải quyết những vấn đề thực tế mang tính tổng hợp cao, hướng nghiên cứu cảnh quan (NCCQ), đánh giá cảnh quan (ĐGCQ) đã trở thành hướng nghiên cứu quan trọng, đáp ứng được nhiều vấn đề thực tế đặt ra và là cơ sở khoa học của việc lựa chọn các mục tiêu sử dụng thích hợp lãnh thổ. Dựa vào kết quả nghiên cứu, đánh giá đặc điểm các thành phần tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên; phân tích tính đa dạng của cảnh quan trên cơ sở làm rõ cấu trúc, chức năng và động lực phát triển cảnh quan có xem xét đến yếu tố nhân tác là những cơ sở khoa học đầy đủ và đáng tin cậy để hoạch định phát triển kinh tế của mỗi một vùng lãnh thổ.

Quảng Bình là cửa ngõ của miền Trung Trung Bộ, nơi hẹp nhất của lãnh thổ nước ta. Quảng Bình nằm trong vùng giao thoa của các điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội giữa miền Bắc và miền Nam, vì thế sự phân hoá của tự nhiên cũng như kinh tế xã hội là hết sức phức tạp. Đây cũng là một trong những tỉnh nghèo, kinh tế xã hội phát triển chậm so với các tỉnh khác trong khu vực và cả nước. Quảng Bình có rừng núi, có đồng bằng duyên hải và giáp với biển, vì thế với tiềm năng vốn có Quảng Bình có thể phát triển một nền kinh tế toàn diện gồm cả công, nông, lâm, ngư nghiệp và du lịch. Tuy nhiên tiềm năng để phát triển kinh tế của Tỉnh còn rất lớn nhưng vấn đề khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực mang tính bền vững lâu dài và đồng bộ trên toàn lãnh thổ thì vẫn đang là vấn đề cấp bách, cần được quan tâm. Nhiều hoạt động kinh tế xã hội như phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị, du lịch ở Quảng Bình trong những năm gần đây ít nhiều đã ảnh hưởng không tốt đến môi trường tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên tỉnh Quảng Bình.

Trên thực tế ở Quảng Bình các công trình đã được nghiên cứu, ứng dụng vào phát triển kinh tế xã hội chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ cho từng mục tiêu cụ thể, chưa có công trình nghiên cứu, đánh giá một cách tổng hợp về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trên toàn tỉnh. Để có một cách nhìn nhận tổng thể và hoàn thiện hơn về đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên tỉnh Quảng Bình, nhằm xây dựng những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển kinh tế xã hội bền vững lâu dài, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường trên toàn lãnh thổ thì có thể thấy rằng vấn đề nghiên cứu, đánh giá cảnh quan tỉnh Quảng Bình là vấn đề hết sức cần thiết.

Bên cạnh đó, tác giả hiện đang là giảng viên, giảng dạy Địa lý tại trường Đại học Quảng Bình, vì vậy vấn đề vận dụng phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu vào thực tiễn nghiên cứu địa lý địa phương là một hướng nghiên cứu vừa có ý nghĩa khoa học vừa mang ý nghĩa thực tiễn lớn.

Xuất phát từ những nhìn nhận trên tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu cảnh quan phục vụ sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình” để thực hiện nghiên cứu.



2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu:

Xác lập được những luận cứ khoa học trên cơ sở phân tích, đánh giá cảnh quan phục vụ cho việc phát triển bền vững kinh tế-xã hội nhằm sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.



2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:

1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận của cảnh quan học, cảnh quan ứng dụng, đánh giá cảnh quan và sử dụng hợp lý nguồn tài tài nguyên thiên nhiên, những cơ sở lý luận về phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường và việc vận dụng vào nghiên cứu cảnh quan tỉnh Quảng Bình.

2. Phân tích đặc điểm và vai trò của các yếu tố thành tạo cảnh quan trên lãnh thổ Quảng Bình để thấy được đặc điểm phân hóa, các quy luật tự nhiên và mối quan hệ của các thành phần tự nhiên trong tổng thể tự nhiên, cũng như mối quan hệ giữa tự nhiên và kinh tế xã hội.

3. Xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan và thành lập Bản đồ cảnh quan tỉnh Quảng Bình tỷ lệ 1:100.000. Phân tích tính đa dạng trong cấu trúc, chức năng và động lực cảnh quan tỉnh Quảng Bình.

4. Thực hiện đánh giá cảnh quan, xác định mức độ thích nghi của các đơn vị cảnh quan đối với mục đích phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp và du lịch tỉnh Quảng Bình.

5. Xây dựng các cơ sở, nguyên tắc, phương pháp ứng dụng kết quả nghiên cứu cảnh quan trong việc sử dụng hợp lý (SDHL) nguồn tài nguyên thiên nhiên (TNTN) và bảo vệ môi trường (BVMT). Nghiên cứu đề xuất một số định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế xã hội nhằm sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Không gian nghiên cứu:

Phạm vi lãnh thổ đất liền tỉnh Quảng Bình, kéo dài từ 17005’02” đến 18005’12” vĩ độ Bắc và từ 105036’55” đến 106059’37” kinh độ Đông.



3.2. Nội dung nghiên cứu:

- Nghiên cứu lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan, phân tích vai trò của các nhân tố thành tạo Cảnh quan tỉnh Quảng Bình. Đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn để tác giả xây dựng hệ thống phân loại và bản đồ cảnh quan của tỉnh Quảng Bình.

- Phân tích đa dạng cấu trúc, chức năng và động lực của cảnh quan, tìm ra những đặc trưng của từng đơn vị cảnh quan, quy luật phân hoá của cảnh quan trên toàn lãnh thổ nghiên cứu.

- Trên cơ sở hệ thống các đơn vị cảnh quan đã được phân chia, tiến hành đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên đối với các mục đích phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp và du lịch tỉnh Quảng Bình. Đồng thời căn cứ thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội và định hướng phát triển kinh tế tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế trên lãnh thổ nghiên cứu nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.



4. Những luận điểm bảo vệ

- Tiếp cận cảnh quan học, phân tích tính đa dạng và phức tạp trong cấu trúc, chức năng của cảnh quan - kết quả sự tác động tổng hợp của các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội có ý nghĩa khoa học, tính hiệu quả và sự phù hợp cao trong sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường lãnh thổ nghiên cứu.

- Quảng Bình có tiềm năng lớn về tự nhiên, tài nguyên và kinh tế-xã hội, có sự phân hóa đa dạng, phức tạp của các cảnh quan tự nhiên. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, xác định mức độ thích nghi của các đơn vị cảnh quan đối với các mục đích phát triển nông, lâm nghiệp và du lịch là cơ sở khoa học và thực tiễn tin cậy để đề xuất các định hướng, các giải pháp phát triển kinh tế-xã hội theo hướng phát triển bền vững lãnh thổ tỉnh Quảng Bình.

5. Những điểm mới của đề tài

- Đánh giá vai trò các nhân tố trong quá trình thành tạo cảnh quan tỉnh Quảng Bình, làm rõ tính thống nhất và quy luật phân hóa của các yếu tố thành tạo cảnh quan lãnh thổ.

- Xác lập được hệ thống phân loại cảnh quan và xây dựng bản đồ cảnh quan tỉnh Quảng Bình tỷ lệ 1:100.000.

- Phân tích đa dạng cấu trúc, chức năng cảnh quan tỉnh Quảng Bình, làm rõ những đặc trưng và quy luật phân hóa cảnh quan lãnh thổ nghiên cứu.

- Đánh giá và xác lập được mức độ thích nghi của các đơn vị cảnh quan đối với sự phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp và du lịch trên địa bàn lãnh thổ Quảng Bình.

- Nghiên cứu, đề xuất định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp và du lịch nhằm sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.



6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Ứng dụng lý luận, phương pháp luận về nghiên cứu cảnh quan vào việc đánh giá cảnh quan trên lãnh thổ cụ thể. Kết quả nghiên cứu chứng minh được sự phân hoá đa dạng, phức tạp của tự nhiên, tính đặc trưng và tính quy luật của cảnh quan.

- Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá Cảnh quan tỉnh Quảng Bình, đề tài đưa ra một số định hướng và giải pháp phát triển kinh tế nhằm sử dụng một cách hợp lý nguồn TNTN và BVMT tỉnh Quảng Bình. Đây là những luận cứ khoa học quan trọng giúp cho việc hoạch định để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình lâu dài bền vững.

7. Cấu trúc luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án trình bày trong 4 chương gồm 181 trang, có 15 bản đồ, 2 lát cắt, 10 sơ đồ, biểu đồ và 27 bảng số liệu. Ngoài ra còn có phần phụ lục minh hoạ.

Chương 1: Cơ sở lý luận về nghiên cứu cảnh quan phục vụ sử dụng hợp lý Tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình

Chương 2: Nghiên cứu các yếu tố thành tạo cảnh quan tỉnh Quảng Bình

Chương 3: Phân tích đa dạng cảnh quan tỉnh Quảng Bình

Chương 4: Đánh giá cảnh quan phục vụ cho mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên thiên, bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU CẢNH QUAN PHỤC VỤ SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỈNH QUẢNG BÌNH

Đây là chương đầu tiên của luận án, trình bày những vấn đề về cơ sở lý luận, phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan và hướng ứng dụng vào việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường gồm: Tổng quan các công trình đã nghiên cứu ở trên thế giới và ở Việt Nam, các công trình ở Quảng Bình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và lãnh thổ nghiên cứu; Quan điểm tiếp cận, phương pháp và quy trình nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ sử dụng hợp lý TNTN và BNMT tỉnh Quảng Bình .



1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.

Cảnh quan học là một bộ môn khoa học về địa lý tự nhiên tổng hợp. Cảnh quan học là sự kế tục của địa lý tự nhiên đại cương, giữa chúng không có ranh giới rõ rệt, những kiến thức cơ sở của địa lý tự nhiên đại cương là điều kiện để nghiên cứu cảnh quan học. Cảnh quan học có ý nghĩa thực tiễn lớn lao về nhiều mặt và có quan hệ trực tiếp tới vấn đề sử dụng tổng hợp và bảo vệ TNTN. Chính vì lẽ đó Cảnh quan học đã phát triển một cách nhanh chóng và trở thành một ngành quan trọng của địa lý tự nhiên hiện đại nghiên cứu về các thể tổng hợp địa lý tự nhiên.

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam Cảnh quan học ngày càng gắn bó với nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội, các xu hướng ứng dụng ngày càng rộng rãi, đồng thời ngày càng hoàn thiện về cả lý luận, phương pháp nghiên cứu và ứng dụng công nghệ hiện đại.

1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu cảnh quan trên thế giới



1.1.1.1. Các tiền đề phát triển của học thuyết cảnh quan

Sự xuất hiện của bất kỳ học thuyết mới nào đều được chuẩn bị từ những phát triển của nhiều ngành khoa học và nó ra đời khi có những tiền đề nhất định.

Trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hướng nghiên cứu các tổng hợp thể địa lý tự nhiên lãnh thổ đã ở vào giai đoạn phân tích các lượng thông tin địa lý, khái niệm về tổng hợp thể địa lý tự nhiên đã được hình thành nhờ sự tiến bộ trong phương pháp nghiên cứu từ phân tích đến tổng hợp của khoa học tự nhiên. Khi đó học thuyết Dacuyn xuất hiện trong sinh vật với sự ra đời của hai môn khoa học: sinh địa học và thổ nhưỡng học. Các nhà sinh vật học và thổ nhưỡng học là những người đầu tiên đề cập đến mối quan hệ tương hỗ, phức tạp giữa giới vô sinh và giới hữu sinh. Điều đó, làm cho các khoa học bộ phận tiến dần đến sự tổng hợp của địa lý. Đây là tiền đề thứ nhất cho sự phát triển của khoa học cảnh quan.

Tiền đề thứ hai là những đòi hỏi của hoạt động KT-XH. Vào thời kỳ này, thực tiễn sản xuất chỉ ra rằng: muốn giải quyết những vấn đề nóng bỏng trong quá trình khai thác tự nhiên cần phải hiểu biết rõ ràng, đầy đủ các mối quan hệ giữa các hợp phần tự nhiên và các tổng hợp thể địa lý tự nhiên lãnh thổ cụ thể.

Hai tiền đề cơ bản trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành khoa học cảnh quan. Tuy nhiên, nguồn gốc ra đời của học thuyết sâu xa hơn, gốc rễ của nó ăn sâu vào kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân và sự phát triển của nó liên quan đến những vấn đề về kinh tế - xã hội.

1.1.1.2. Những luận điểm cơ bản áp dụng để nghiên cứu cảnh quan

Cơ sở triết học của lý luận cảnh quan học coi tự nhiên là một hệ thống hoàn chỉnh, trong đó các đối tượng, hiện tượng đều phát sinh, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại vô cùng mật thiết. Tự nhiên mà rộng nhất là lớp vỏ địa lý bao gồm nhiều thành phần xâm nhập vào nhau (thạch quyển, thủy quyển, thổ nhưỡng quyển, sinh quyển, khí quyển) và được cấu tạo từ các khu vực lớn, nhỏ được phân hóa ra trong lịch sử phát triển hàng trăm triệu năm của Trái Đất.

Các khu vực lớn nhỏ này là các địa tổng thể hay các tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên, chúng là các khu vực địa lý khác nhau về hình dạng bên ngoài và tính chất bên trong. Đây là đối tượng nghiên cứu của cảnh quan học.

Cảnh quan học có nhiệm vụ nghiên cứu các địa tổng thể, tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần vật chất và năng lượng cấu tạo nên mỗi địa tổng thể và cả những mối quan hệ biện chứng giữa các địa tổng thể với nhau. Để hoàn thành nhiệm vụ này, cảnh quan học phải giải quyết hàng loạt các cặp phạm trù biện chứng, với nhiều mâu thuẫn phức tạp.

Những ý tưởng về cảnh quan học thực tế có từ trong sự phát triển của các khoa học tự nhiên bắt đầu vào thời kỳ giữa, cuối thế kỷ XIX. Trong thực tiễn khai thác tự nhiên phục vụ sản xuất, những từ ngữ như: đài nguyên, rừng lá nhọn, thảo nguyên, sa mạc…được dùng để chỉ những kiểu cảnh quan khác nhau đã xâm nhập vào trong khoa học. Đến một giai đoạn nhất định, việc xem xét một cách toàn diện và đầy đủ các ĐKTN, TNTN của một vùng trong tiến hành sản xuất đòi hỏi cần quan tâm đến công tác phân vùng lãnh thổ, vào cuối thế kỷ XIX công tác này càng được tăng cường. Có rất nhiều công trình phân vùng địa lý tự nhiên nước Nga đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của khoa học cảnh quan trong suốt cả thế kỷ, song các công trình này chủ yếu còn mang tính chất thực nghiệm, thiếu cơ sở lý luận và học thuyết cảnh quan chính là cơ sở lý luận đó [50, 59, 61].

Bất cứ một khoa học nào cũng phải được chuẩn bị bằng những bước phát triển của các khoa học trước đó và chỉ xuất hiện một cách có quy luật khi có những điều kiện chín muồi nhất định, khoa học Cảnh quan cũng không nằm ngoài quy luật này. Khi mà các ngành địa lý bộ phận (địa chất học, khí hậu học, địa mạo học…) đã được kiện toàn một cách sâu sắc, địa sinh vật và thổ nhưỡng học đã trở thành các lĩnh vực khoa học độc lập, vào cuối thế kỷ XIX địa lý tự nhiên hiện đại mới thực sự được bắt đầu mà khoa học cảnh quan là một khoa học bộ phận.

Nền móng cảnh quan học được ra đời vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở 2 chiếc nôi lớn trên thế giới là Châu Âu và Bắc Mỹ với các công trình nghiên cứu về sự phân chia tự nhiên bề mặt đất của nhiều nhà Địa lý Nga như: V.V. Docutraev, L.S. Berge, G.N.Vưxotxki, G.F.Môrôzov,...ở Đức có Z.Passarge, A.Hettner... và một số nhà địa lý ở Anh, Pháp, Mỹ.

Vào những năm 60 của thế kỷ XX, cảnh quan học hiện đại bắt đầu phát triển mạnh. Những nghiên cứu cấu trúc thiên về xác định định tính các tính chất CQ đã sử dụng các biện pháp liên ngành, nhiều bộ môn khoa học cảnh quan mới ra đời như: Địa hóa học cảnh quan, địa vật lý cảnh quan, trạng thái học cảnh quan, sinh thái học cảnh quan,…Trong quá trình sử dụng các biện pháp nghiên cứu liên ngành thì việc sử dụng tiếp cận hệ thống, tiếp cận điều khiển, tiếp cận sinh thái,…cũng như việc nghiên cứu các tác động kỹ thuật vào CQ đã tạo nên một bước ngoặt từ nghiên cứu cấu trúc sang nghiên cứu chức năng, động lực trong nghiên cứu CQ.

Trong những năm gần đây, nhờ sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã giúp cho địa lý cảnh quan có những công cụ nghiên cứu hữu hiệu như công nghệ viễn thám, công nghệ GIS... Hiện nay việc NCCQ đã được mở rộng về cả phương pháp nghiên cứu, tiếp cận, vì vậy các kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng rộng rãi trong phát triển kinh tế xã hội, tạo cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý TNTN, BVMT và phát triển bền vững kinh tế xã hội.

1.1.1.3. Sự phát triển của Cảnh quan và Cảnh quan sinh thái.

a) Sự phát triển của Cảnh quan học ở Nga và các nước Đông Âu.

Cơ sở của địa lý tự nhiên hiện đại gắn liền với tên tuổi và các công trình nghiên cứu của nhà thổ nhưỡng học người Nga V.V. Docutsaev (1846 - 1903). Học thuyết về đất của ông là nhân tố khởi đầu về tổng hợp thể địa lý tự nhiên. Theo V.V. Docutsaev thì “đất là kết quả của sự tác động qua lại giữa đá gốc, địa hình, nước, nhiệt và sinh vật, nó dường như là sản phẩm của CQ và đồng thời cũng là tấm gương của nó, phản ánh một cách cụ thể hệ thống phức tạp các mối quan hệ qua lại trong tổng thể tự nhiên”; “đất là tấm gương của cảnh quan”. Trong các nghiên cứu của mình, Ông cho rằng phải có một khoa học mới về quan hệ và tác động qua lại giữa các hợp phần tự nhiên và về các quy luật phát triển chung của chúng. Ông đã cống hiến cho nền khoa học địa lý một công trình lớn lao là học thuyết về các Đới thiên nhiên. Ông là người đầu tiên trình bày về tính đới như một quy luật thế giới, quan niệm mỗi đới thiên nhiên hay còn gọi là đới lịch sử - tự nhiên là một tổng hợp thể thiên nhiên có quy luật, quan điểm này không tìm thấy ở các nhà khoa học trước đó và bản thân Ông cũng không nêu lên được tên gọi cho môn khoa học mới này, song quan niệm của Ông đã được các học trò của Ông tiếp tục nghiên cứu về cả lý thuyết lẫn thực tiễn và mang lại những kết quả đáng kể.

A.A.Iarilôv ngay sau đó cũng đã hiểu và cho rằng, chính quan điểm trên của Đôcutsaev đã tạo nên bản chất của địa lý học hiện đại, của cảnh quan học.

Tiếp theo Đôcutsaev, một nhà bác học, nhà nghiên cứu địa lý Nga nổi tiếng khác là L.S.Becgơ cũng đã khẳng định: các đới lịch sử-tự nhiên của Đôcutsaev không có gì khác với các đới CQ và khoa học tương quan mà ông đã cố gắng tìm ra cơ sở cho nó, đó chính là Cảnh quan địa lý. Ông cũng cho rằng chính Đôcutsaev với những công trình nghiên cứu rất lớn, rất sâu sắc của Ông cả về lý thuyết và thực tiễn chính là người đã đặt nền móng, người đã sáng lập ra địa lý học hiện đại, sáng lập ra cảnh quan học.

A.N.Kraxnôv một trong những người học trò gần gũi của Dôcutsaev đã đưa ra nhiều ý kiến và nhận thấy môn địa lý cũ thực tế đã tan rã thành nhiều môn khoa học độc lập, vì vậy cần phải thành lập môn địa lý mới trên cơ sở của những thành tựu mới về khoa học tự nhiên và kỹ thuật để nghiên cứu các mối liên hệ nhân quả và những liên hệ phát sinh giữa các hiện tượng trên trái đất. Năm 1895 Kraxnôv đi tới quan điểm cho rằng, địa lý phải nghiên cứu các thể tổng hợp địa lý. Sau đó, đến năm 1910 ông đã nêu lên đặc trưng của những thể tổng hợp lớn ở trên trái đất.

G.F.Môrôdôv là một trong những đại biểu xuất sắc của trường phái Đôcutsaev, chính ông là người đầu tiên suy nghĩ đến vấn đề địa lý ứng dụng.

Học thuyết về CQ là bước tiếp theo có tính chất tự nhiên của sự phát triển học thuyết về thể tổng hợp địa lý và học thuyết về các đới tự nhiên của Đôcutsaev. Sự xuất hiện của cảnh quan học là một giai đoạn có tính quy luật trong lịch sử phát triển của khoa học địa lý tự nhiên. Quan niệm khoa học về CQ dần dần được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau bởi các nhà bác học trong thời kỳ từ năm 1904 đến 1914.

Năm 1904, với nhiều công trình nghiên cứu ở các bộ môn địa lý khác nhau G.I.Vưsôtxki đã đưa ra định nghĩa CQ một cách độc đáo, ông gọi CQ là “địa phương” hay “châu tự nhiên”. Ông nêu lên mức độ phong phú bên trong của các điều kiện sinh thành chính là dấu hiệu của từng địa phương, các địa phương khác biệt nhau bởi đặc điểm kết hợp của các kiểu sinh thành (tức các bộ phận hình thái CQ). Ông cũng có ý nghĩ thành lập các bản đồ về các kiểu sinh thành (tức bản đồ cảnh quan), đây là cơ sở quan trọng để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp [50, 59].

Năm 1913, L.S.Becgơ đã nêu lên rằng, chính CQ là đối tượng nghiên cứu của địa lý học. Ông cũng xác định các đới tự nhiên chính là các đới cảnh quan, nó bao gồm nhiều vùng tự nhiên hay còn gọi là các cảnh quan địa lý và trong mỗi CQ có thể thấy mối quan hệ hài hòa giữa các dạng địa hình, khí hậu, nước, đất và các quần hợp sinh vật. Công lao to lớn của Ông là đã sáng lập nên trường phái cảnh quan học [50, 60].

Bên cạnh đó G.F.Môrôdôv đã dựa trên cơ sở quan điểm về cảnh quan địa lý của Becgơ để sáng lập ra môn Lâm học, ông còn cho rằng kết quả cuối cùng của việc nghiên cứu lãnh thổ phải là sự phân chia chúng thành “một loạt các cảnh quan toàn vẹn hay còn gọi là các đơn vị địa lý cá thể”, chính quan điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành quan điểm của Becgơ.

Sau năm 1917, sự phát triển của bộ môn Địa lý Nga bước vào giai đoạn mới. Mặc dù trong giai đoạn đầu Cảnh quan học Xô Viết chưa có những tổng hợp lý luận lớn, song CQ đã xâm nhập sâu vào thực tế nghiên cứu lãnh thổ. Những bản đồ CQ đầu tiên do B.B.Pôlưnôp, I.V.Larin, R.I.Abôlin thành lập là thành tựu quan trọng của những cuộc nghiên cứu thực địa, chủ yếu được xây dựng ở tỷ lệ lớn và trung bình, phân chia lãnh thổ các địa phương trên cơ sở các yếu tố đá mẹ, địa hình, đất và thực vật; những bản đồ này thành lập một cách ngẫu nhiên do nhu cầu thực tiễn do đó thiếu thống nhất, nhưng đã đưa ra được lập luận rằng: Những biện pháp cải tạo thiên nhiên phải dựa trên bản đồ cảnh quan [50, 51].

Vào những năm 30, 40 có nhiều công trình mở rộng tìm hiểu các đồng cỏ tự nhiên ở Liên Xô, dựa trên đó L.G.Ramenxki đã nêu hàng loạt những khái niệm mới trong lĩnh vực lý thuyết CQ, những quan điểm cơ bản trong học thuyết cảnh quan được áp dụng nghiên cứu ở các miền thảo nguyên, đài nguyên, sa mạc...Có nhiều nhà địa lý đã chú ý tới nghiên cứu về lý luận và phương pháp luận của khoa học CQ. Đáng chú ý là công trình nổi tiếng của L.S.Becgơ năm 1931,Các đới cảnh quan địa lý Liên Xô, ông đã trình bày một cách có hệ thống cơ sở học thuyết cảnh quan, chỉnh lý, bổ sung lại định nghĩa đầu tiên của mình và đưa ra những ví dụ về CQ, nhận xét về sự tác động tương hỗ giữa các cảnh quan và giữa các thành phần của nó, ông cũng chỉ ra nguồn gốc của cảnh quan học. Tiếp sau đó các công trình của một số nhà cảnh quan học, trong đó có A.N. Panômarep, M.A. Pecvukhin đã quan niệm về kiểu cảnh quan, họ quan niệm CQ hay là kiểu lãnh thổ là tất cả những bộ phân lãnh thổ cùng loại tương tự với nhau. Trong khi đó L.G. Ramenxki lại có quan điểm rằng CQ là một hệ thống lãnh thổ phức tạp bao gồm những thể tổng hợp tự nhiên cơ bản khác nhau, chúng liên hệ với nhau một cách có quy luật và phát triển toàn vẹn, ông gọi đó là các Bì diện ; Ông cũng đưa ra các khái niệm Cảnh khu là sự tập hợp các cảnh diện thích nghi với các dạng địa hình độc lập, các khái niệm của ông đã đề cập đến động lực CQ. Cũng trong thời kỳ này, A.A.Grigôriep, Kalexnik đã phát triển quan điểm rằng mỗi CQ có những đặc điểm không lặp lại và phải được phân chia ở ngoài thực địa. Tuy vậy về phương pháp nghiên cứu cảnh quan vẫn chưa có những bước tiến đáng kể.

Từ sau những năm 1945, Cảnh quan học Xô Viết mở rộng mạnh mẽ công tác thực địa thành lập bản đồ cảnh quan cũng như tăng cường nghiên cứu về lý luận. Năm 1947 N.A.Xôlntxev đã trình bày những tổng hợp lý luận đầu tiên, ông phát triển các quan niệm về CQ trong các công trình trước đó của Ramenski, Kalexnik, đưa ra một nghĩa mới, rõ ràng hơn về hình thái CQ. Từ đó bắt đầu có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận CQ và các vấn đề liên quan như quần hệ sinh vật, địa hoá học cảnh quan, phân vùng địa lý tự nhiên.

Bên cạnh đó hướng nghiên cứu định lượng trong CQ cũng được quan tâm, đầu tiên là các nghiên cứu của B.B. Pôlưnôp, tiếp đó A.I. Perelmen đã nghiên cứu về sự di động của các nguyên tố hoá học trong CQ và yếu tố hoá học trong phân chia CQ. Tác giả M.A.Glazôpxkaia đã tiến hành xây dựng những nguyên tắc phân loại địa hoá các CQ một cách cụ thể hơn và đưa ra hệ thống phân loại các CQ địa phương [60]. Hướng nghiên cứu địa vật lý cảnh quan do A.L.Armand đề xuất, Ông đã sử dụng các phương pháp Vật lý hiện đại để nghiên cứu mối tác động qua lại giữa các thành phần cấu tạo nên CQ.

Năm 1955, Hội nghị chuyên đề cảnh quan học được triệu tập ở Lêningrat và liên tiếp sau đó là các Hội nghị khoa học về các vấn đề cảnh quan học được tổ chức gần như hàng năm. Từ đó các nhà nghiên cứu cảnh quan học Xô Viết đã dần hoàn thiện lý luận, phương pháp nghiên cứu và ứng dụng cảnh quan học, mở rộng các công trình nghiên cứu và thành lập bản đồ CQ ở nhiều tỷ lệ khác nhau, nghiên cứu về nguyên tắc, phương pháp xây dựng bản đồ cảnh quan, phân loại CQ, vấn đề sử dụng học thuyết CQ trong thực tiễn qua các công trình của N.I.Mikhailôv (1955), V.B.Xôtsava (1956), N.A.Gvozdexki (1963), X.V.Kalexnik (1964), A.G.Ixatsenko (1965), P.N.Minkov, V.X.Preobrazenxki (1966), N.A.Xôlnxev, V.I.Prôkaev...

Theo A.E.Phedina trong những năm 1960 ở Liên Xô hàng năm đã có vài trăm công trình nghiên cứu về các vấn đề phân vùng địa lý tự nhiên, phân vùng ứng dụng và nghiên cứu về cảnh quan học. Những công trình này đã có những nghiên cứu sâu về các vấn đề ứng dụng CQ, đáng chú ý nhất là các công trình phân loại CQ của A.G.Ixasenko (1961), N.A.Gvozdexki (1963), V.A.Nhicolaev (1970). Khoa học Cảnh quan từ nghiên cứu cấu trúc sang nghiên cứu chức năng, động lực cảnh quan (Ixasenko, 1991) trên cơ sở địa lý học.

Trong quá trình sử dụng các phương pháp liên ngành, cách tiếp cận hệ thống nghiên cứu quá trình trao đổi vật chất, năng lượng giữa các thành phần cảnh quan, nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa các thành phần vật chất sống với môi trường đã xuất hiện một hướng nghiên cứu mới Sinh thái cảnh quan.

Từ những năm 1990 trở lại đây hướng nghiên cứu CQ ứng dụng được các nhà địa lý Nga và các nước Đông Âu quan tâm nghiên cứu và ngày càng có nhiều ứng dụng vào thực tế phát triển KT-XH của các vùng, quốc gia, lãnh thổ trên thế giới. Các công trình nghiên cứu CQ, CQST của Nga và một số nước như Ucraina, Belorutxia, Litva, Ba Lan, Tiệp Khắc…đều dựa trên cảnh quan học cơ bản và thống nhất quan điểm trong nghiên cứu CQ ứng dụng cho các mục đích khác nhau.

Có thể kể đến một số tác giả và công trình nghiên cứu tiêu biểu từ những năm 1990 trở lại đây như sau:


  • Hướng nghiên cứu Phân vùng CQ lãnh thổ Liên Bang Nga có công trình của GS.Viện sỹ I.P.Geraximov, phân chia Liên Bang Nga thành 17 miền CQ khác nhau và được các nhà nghiên cứu Nga sử dụng để tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng trong các mục đích xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đất nước.

  • Vào cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, GS. Viện sỹ Bacglanov tiến hành nghiên cứu, đánh giá tính đa dạng của CQ vùng Viễn Đông Liên Bang Nga, đưa ra những cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn phục vụ phát triển kinh tế -xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước.

  • Ở Ucraina từ những năm 1990 trở lại đây, do nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội nên hướng CQ ứng dụng phát triển mạnh. Có các công trình của Viện sỹ Marinhich nghiên cứu phân vùng CQST Ucraina, làm rõ quy luật, đặc điểm, quy luật phát sinh, phát triển, đặc thù từng vùng, miền CQ cho phát triển KT-XH. GS. Viện sỹ Sisenko đã tiếp tục thiết kế CQ lãnh thổ Ucraina, chú trọng CQ đồng cỏ Nam Ucraina. Các ứng dụng trong tổ chức và quy hoạch lãnh thổ đều dựa trên bản đồ cảnh quan.

  • Ở Ba Lan sự quan tâm về các vấn đề CQ xuất hiện do sự ảnh hưởng của các nhà nghiên cứu CQ Liên Xô. Năm 1959, giáo sư E.Cônđratxơki đã xây dựng hệ thống phân loại và thành lập bản đồ Cảnh quan Ba Lan ở tỷ lệ 1/1.000.000. Xu hướng này cũng được các nhà địa lý Tiệp Khắc vận dụng để nghiên cứu lãnh thổ Tiệp Khắc [52].

Cũng như các nước khác trên thế giới, ở Nga và các nước Đông Âu khoa học Cảnh quan nói chung, nghiên cứu CQ và STCQ nói riêng ngày càng đi sâu vào nghiên cứu đa dạng cấu trúc, chức năng và động lực phát triển của CQ. Bằng các phương pháp nghiên cứu và hỗ trợ của công nghệ hiện đại, với nhiều cách tiếp cận khác nhau tuy nhiên không ngoài mục đích NCCQ để ứng dụng vào các vấn đề phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, các vùng miền và lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý TNTN, BVMT và phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững.

b) Sự phát triển của Cảnh quan học ở các nước khác.

Quan niệm về cảnh quan đã được nêu lên bởi một vài nhà Địa lý từ đầu thế kỷ XX như: Nhà địa lý người Anh A.Ghebecxơn năm 1905 cho rằng nhiệm vụ của Địa lý học là sự phân chia và hệ thống hoá những thể tổng hợp và đưa ra các kiểu khu vực thiên nhiên cơ bản của đất liền bằng cách xem xét những sự khác biệt chung nhất về địa hình, khí hậu và thực vật; phổ biến hơn là quan điểm của A.Ghetne và một số nhà địa lý khác nhưng thường là quan điểm duy tâm.

Có thể nói một trong những nhà lý luận cảnh quan đầu tiên người Đức là Z.Passarge (1866-1958), Ông đã có những công trình về các đới cảnh quan trên trái đất. Sau đó các nhà Địa lý người Đức cũng đã tiến hành thành lập bản đồ cảnh quan và phân chia CQ chủ yếu dựa trên nghiên cứu cấu tạo hình thái CQ, lấy các đơn vị sinh cảnh để phân chia.

Ở các nước tư bản nói chung khoa học CQ không phát triển, chủ yếu nghiên cứu theo hướng Môi trường địa lý tự nhiên. Các nhà địa lý Mỹ như: Khactơxo, D.Uittơlxli chú ý tới địa lý khu vực nhưng quan điểm không có gì chung với các nhà địa lý Xô Viết. Tuy nhiên sau đó họ cũng đã chú ý tới lý luận địa lý của các nhà nghiên cứu Xô Viết về các vấn đề NCCQ và xây dựng bản đồ CQ. Nhìn chung ở các nước TBCN, quá trình nghiên cứu tiến tới cảnh quan học xảy ra chậm, mang tính chất tự phát, chủ quan và duy tâm.

Từ sau những năm 1980 Cảnh quan học đã có sự kết hợp với Sinh thái học xuất hiện một hướng nghiên cứu mới là Sinh thái cảnh quan. Đây là hướng nghiên cứu phát triển mạnh mẽ và ứng dụng vào thực tiễn bắt đầu từ các nước ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

c) Sự phát triển của Sinh thái cảnh quan trên thế giới.

Sinh thái học cảnh quan là một khoa học liên ngành nghiên cứu về CQ, đặc biệt là về thành phần, cấu trúc, chức năng của CQ. Sinh thái học cảnh quan nghiên cứu các mô hình cảnh quan, mối quan hệ tác động giữa các yếu tố trong mô hình đó, và cách thức thay đổi của mô hình cảnh quan theo thời gian, cũng như các nguyên tắc ứng dụng trong quá trình con người cải biến cảnh quan.

Theo các nghiên cứu của Wu.J và R.Hobbs, sinh thái học cảnh quan là khoa học nghiên cứu và cải thiện các mối quan hệ giữa quá trình phát triển đô thị và hệ sinh thái trong môi trường và các hệ sinh thái đặc trưng. Hai ông cũng chỉ rõ đặc điểm nổi bật nhất của hệ sinh thái cảnh quan là sự nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa các quá trình, mô hình và quy mô, cũng như tập trung vào các vấn đề sinh thái và môi trường trên quy mô rộng. Các chủ đề nghiên cứu quan trọng trong hệ sinh thái cảnh quan bao gồm sự thay đổi của hệ sinh thái trong cảnh quan, sử dụng đất và thay đổi độ che phủ đất, nhân rộng, mô hình phân tích cảnh quan có liên quan với quá trình sinh thái, bảo tồn cảnh quan và tính bền vững cảnh quan [152, 153].

Thuật ngữ Sinh thái cảnh quan được Carl Troll nhà địa lý học người Đức đưa ra năm 1939, trong công trình này Ông đã phát triển nhiều khái niệm cơ sở cho khoa học Sinh thái cảnh quan từ việc phân tích ảnh hàng không để nghiên cứu tương tác giữa môi trường và thảm thực vật [149].

Từ năm 1939 đến 1970, Sinh thái cảnh quan nghiên cứu trên nền tảng của Địa lý học dựa trên việc nghiên cứu các thành phần địa lý, phát triển mạnh ở Đông Âu, Canađa và Úc, được sử dụng để nghiên cứu sinh thái các khu vực rộng lớn ở Nga và Canađa, thành lập bản đồ hệ sinh thái, xây dựng các hệ thống cảnh quan ở Nga.

Sau năm 1970, Sinh thái cảnh quan phát triển mạnh mẽ ở Châu Âu với các công trình nghiên cứu về phân loại thực vật và địa lý khu vực. Tuy nhiên các nghiên cứu này chỉ mới tập trung nghiên cứu sự tác động của con người đối với cảnh quan ở những khu vực nhỏ. Những công trình nghiên cứu của các tên tuổi nổi tiếng thuộc trường phái châu Âu như Carl Troll, Izaak Zonneveld, M.Godron hay Richard Forman đều bắt nguồn từ địa lý học, chủ yếu dựa trên phân tích ảnh hàng không, nhấn mạnh chủ thể con người trong sinh thái cảnh quan ở quy mô nhỏ và vai trò của văn hóa cảnh quan. Ngoài ra, quan niệm về sinh thái học cảnh quan của trường phái châu Âu còn tích hợp cả khoa học sử dụng đất đai. Trường phái này phân loại cảnh quan dựa trên các hệ thống “nhân tạo” được xây dựng sẵn. Trường phái châu Âu cũng xuất hiện từ lâu đời, gắn liền với khoa học sinh thái hơn là khoa học cảnh quan [134, 139, 149].

Trong khi đó, trường phái Sinh thái học cảnh quan của trường phái châu Mỹ lại có nhiều điểm tiến bộ hơn khi sử dụng các phương pháp định lượng trong nghiên cứu của mình như công nghệ viễn thám, GIS hoặc số liệu thống kê không gian. Đối lập với trường phái châu Âu, đối tượng nghiên cứu của trường phái châu Mỹ là các hệ thống tự nhiên hoặc bán tự nhiên, như các công viên quốc gia. Các lý thuyết và mô hình cũng được đầu tư phát triển. Trường phái này chỉ phát triển mạnh vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước [150, 151].

Đến những năm 1980 Sinh thái cảnh quan mới phát triển như một khoa học thực sự và được đánh dấu bởi sự ra đời của Hiệp hội quốc tế về Sinh thái cảnh quan (IALE-The International Assosiation of Landscape Ecology) năm 1982. Từ những năm 1985 trở lại đây Sinh thái cảnh quan học phát triển một cách nhanh chóng, có tầm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội với một số lượng lớn các công trình nghiên cứu cả lý thuyết và ứng dụng trong các ngành sản xuất. Lý thuyết Sinh thái cảnh quan nhấn mạnh vai trò của các tác động của con người trong cấu trúc và chức năng cảnh quan. It also proposes ways for restoring degraded landscapes. [ 12 ] Landscape ecology explicitly includes humans as entities that cause functional changes on the landscape. [ 11 ] Landscape ecology theory includes the landscape stability principle, which emphasizes the importance of landscape structural heterogeneity in developing resistance to disturbances, recovery from disturbances, and promoting total system stability. [ 13 ] This principle is a major contribution to general ecological theories which highlight the importance of relationships among the various components of the landscape.Đồng thời cũng đề xuất các phương pháp để khôi phục lại cảnh quan bị suy thoái và nhận thức một cách rõ ràng Cảnh quan sinh thái bao gồm cả con người như những thực thể gây ra sự thay đổi trong cảnh quan [139, 145].

Từ việc nghiên cứu các đặc trưng quan trọng của Sinh thái cảnh quan là cấu trúc và chức năng (Forman và Godron năm 1986), đến nghiên cứu xây dựng các cách phân loại chức năng cảnh quan (De Groot năm 1992), xây dựng bản đồ các vùng sinh thái ở các nước Hà Lan, Hoa Kỳ, Mêxicô, Canađa,… đến nay Sinh thái học cảnh quan đi sâu vào nghiên cứu đánh giá cảnh quan, tìm ra các mối liên hệ trong cấu trúc và chức năng cảnh quan, phân tích tính đa dạng và đánh giá giá trị sử dụng của các đơn vị cảnh quan (Troy và Wilson năm 2006, Meyer và Grabaum năm 2008), Sinh thái cảnh quan ngày nay gắn liền nghiên cứu với ứng dụng thực tiễn [129,131,134,138].

Có thể điểm qua một vài cột mốc đáng nhớ của sinh thái học cảnh quan thế giới như sau [157]:

- Năm 1972: Tổ chức khoa học đầu tiên về sinh thái cảnh quan được thành lập ở Hà Lan mở đầu cho việc thành lập các diễn đàn trao đổi của các nhà khoa học về CQ.

- Năm 1981: Các bài viết về sinh thái cảnh quan Bắc Mỹ của Forman và Gordon lần đầu xuất hiện trên tạp chí Bioscience.

- Năm 1982: Hiệp hội quốc tế về sinh thái học cảnh quan (IALE) được thành lập tại hội thảo quốc tế lần thứ 6 về nghiên cứu sinh thái ở Piestany, Tiệp Khắc cũ.

- Năm 1983: Cuộc hội thảo về sinh thái cảnh quan mang tên Allerton Park được tổ chức bởi diễn ra tại Illinois, Mỹ với 25 người tham gia.

- Năm 1984: Ẩn phẩm đầu tiên về sinh thái cảnh quan học được xuất bản Landscape Ecology: Theory and Application của hai tác giả Naveh và Lieberman.

- Cũng trong năm 1984: Phiên họp đầu tiên về sinh thái học cảnh quan được diễn ra tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội sinh thái học Hoa Kỳ.

- Năm 1986: Hội nghị sinh thái học cảnh quan Bắc Mỹ được diễn ra rại trường đại học Georgia với 100 thành viên tham gia, do hai nhà khoa học Monica Turner và Frank Golley chủ trì.

- 1986: Cuốn Landscape Ecology (Forman và Godron) được xuất bản, đây là một trong những công trình nền tảng của lý thuyết nghiên cứu Sinh thái cảnh quan học đầu tiên trên thế giới. Hầu hết các nghiên cứu sau đó đều vận dụng mô hình này để phát triển.

- 1986: Hiệp hội quốc tế về sinh thái học cảnh quan Hoa Kỳ được thành lập.

- 1987: Tạp chí Landscape Ecology được xuất bản, tổng biên tập là Frank Golley.

Từ những năm 1990 trở lại đây: Nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng của Sinh thái cảnh quan tiếp tục phát triển mạnh mẽ theo xu hướng ứng dụng cảnh quan và bảo vệ môi trường dựa trên công nghệ nghiên cứu tiên tiến và hiện đại như Viễn thám, GIS, các mô hình không gian để thành lập Bản đồ cảnh quan, bản đồ đánh giá cảnh quan. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu định lượng trong phân tích, đánh giá cảnh quan mang lại các kết quả chính xác về các dữ liệu đất, các yếu tố khí hậu, thảm thực vật có giá trị thực tiễn lớn [146, 147, 148].

Việc phát triển lý thuyết Sinh thái cảnh quan gần đây đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa mô hình không gian và quá trình biến đổi cảnh quan. Một số nghiên cứu cho thấy rằng Cảnh quan có những ngưỡng quan trọng mà nếu tại đó quá trình Sinh thái sẽ có những thay đổi lớn, ví dụ sự thay đổi nhiệt độ và chuyển đổi hoàn toàn một số loài do yêu cầu của môi trường sống. Bên cạnh đó Sinh thái cảnh quan còn có những nghiên cứu ứng dụng quan trọng hình thành nên các phương pháp, khái niệm, quy trình phân tích cảnh quan trong nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa cảnh quan và tác động của các ngành sản xuất giúp chúng ta quản lý các mối đe doạ đối với môi trường và có biện pháp bảo tồn, sử dụng cảnh quan [130, 137, 143].

Có thể kể đến một số hướng nghiên cứu cơ bản về Sinh thái cảnh quan của các tác giả trên thế giới và các công trình nghiên cứu của họ từ những năm 1990 đến nay như sau [140]:



tải về 1.44 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương