Nayan Chanda hoànglonghải



tải về 1.97 Mb.
trang9/35
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.97 Mb.
#13140
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   35

Việc Trung Hoa chậm phản ứng đối với lập trường Việt Nam không đứng về phe nào chấm dứt vào cuối tháng Hai /1977. Cuối cùng Bắc Kinh phúc đáp thư của Việt Nam hồi tháng mười năm trước -một bức thư giả cớ xin viện trợ nhưng thực chất muốn biết thái độ của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh thời hậu Mao- Thư cũng lịch sự. Trung Hoa không thể đáp ứng được yêu cầu của Việt Nam xin giúp đỡ. Bắc Kinh nói với một phó thủ tướng Việt Nam đang viếng thăm rằng chính Trung Hoa đang lão đão để thoát ra khỏi sự phá hoại do “bè lũ bốn tên” tạo ra, đang bị động đất nghiêm trọng. (25)

Đây không phải chỉ là một sự thoái thác và cũng không đủ lý do để giải thích việc từ chối của Trung Hoa. Sau gần một thập niên xáo trộn và đấu tranh nội bộ, sự tàn phá do động đất taị tỉnh Hồ Bắc (7/1976) giết chết gần 700 ngàn người, hơn một triệu người không nhà ở, tình hình kinh tế Trung Hoa rất bết bát. Tuy nhiên tình hình đó cũng không ngăn việc phái ông Fang Yi đi Phnom Pênh vào tháng Chạp để ký thỏa ước viện trợ cho Kampuchia, cung cấp “toàn bộ trang thiết bị”. Lý do Trung Hoa trì hoãn trả lời thư xin viện trợ mới của Việt Nam có lẽ là do tình hình chính trị bất ổn ở Bắc Kinh. Thật ra, Trung Hoa phải mất bốn tháng mới trả lời thư xin viện trợ của Việt Nam là vì những tranh luận trong nội bộ về việc này. Nội dung cuộc tranh luận không bao giờ được công bố nhưng phía Việt Nam hy vọng một đường lối ôn hòa mới ở Bắc kinh do Đặng duyệt lại những sai sót. Mãi đến cuối năm 1978, khi Đặng trở thành một nhà lãnh đạo vô song, và do tình hình quốc tế thay đổi, Đặng mới hết sức cương quyết với kẻ thù Việt Nam. Vào mùa xuân 1977, không do nhóm theo Mao tập trung quanh Hoa Quốc Phong, cũng không do nhóm thực tế quanh Đặng đủ an toàn để đưa ra một chính sách ngoại giao mới, đặc biệt đi ngược với chính sách đã có từ 1975. Trong cái nhìn cay đắng do việc tranh chấp lãnh thổ tạo ra, Hà Nội đão ngược chính sách đối xử với nhóm dân thiểu số Trung Hoa ở Việt Nam và hướng về việc xây dựng một ưu thế ở Đông Dương, một thực tế mà Trung Hoa không dễ gì có được. Các nhà lãnh đạo Trung Hoa cần có quan điểm, sự ngụy biện, một loạt cố gắng chính trị để khuyến khích Việt Nam tìm kiếm chính sách độc lập và không giải thích quan tâm của họ về an ninh của Việt Nam. Thay vì hoan hô những cố gắng của Việt Nam nhằm cải thiện quan hệ với Tây phương, tạo cân bằng với Moscow thì các nhà lãnh đạo Trung Hoa lại nhăn mày trước chuyển biến này. Cuối cùng, sức nặng của hàng ngàn năm lịch sử đô hộ và mối sợ hãi về liên minh Việt-Xô quyết định con đường phải theo là đối đầu với Hà Nội. Nó là cây gậy hơn là củ cà rốt. Chọn con đường truyền thống và an toàn chính trị, Bắc Kinh tự mình hủy bỏ một sức đẩy vẫn còn hướng về phía Việt Nam.

Trong khi Trung Hoa đáp ứng nhỏ giọt hy vọng của Hà Nội muốn xích lại gần hơn, họ ước muốn những người lãnh đạo mới ở Trung Hoa sẽ rời xa bọn Khmer Đỏ. Tuồng như sự xa cách giữa hai bên cũng có phần gia tăng. Sau 5 tháng lơ là vùng Đông Nam Á vì Bắc Kinh đang gặp cơn rối loạn, các nhà lãnh đạo Trung Hoa một lần nữa lại chú tâm vào vùng này. Trong một cố gắng rõ ràng cho thấy có nứt rạn ở Trung Hoa là vì chính sách cấp tiến trong thời gian qua, tính thực dụng của Chu Ân Lai, bà vợ góa của ông nầy, Đặng Dĩnh Châu, với sứ mạng cao cấp hàng đầu của Trung Hoa đi thăm Miến Điện. Cuộc viếng thăm này tiếp nối những cuộc viếng thăm trước ở Pakistan và Tích Lan. Sau nhiều tháng vắng bóng ở Bắc Kinh, Ieng Sary lại đi Trung Hoa và được các viên chức cao cấp mời tiệc. Hà Nội lưu tâm tới sự có mặt của tướng Wang Shangrong, phó tham mưu trưởng quân đội Trung Hoa trong bữa tiệc ngày 31 tháng Ba do phó thủ tướng Lý Tiên Niệm khoản đãi Ieng Sary. Sự hiện diện của tướng Wang có thể cho thấy Trung Hoa đã lên lịch trình hợp tác quân sự với Kampuchia.

Trung Hoa khuyến khích Kampuchia vượt qua thế đứng đơn độc và ve vãn các nước không Cọng sản ở trong vùng. Giới truyền thông Trung Hoa vốn lưu ý sự im lặng đáng ngờ của thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền qua chuyến đi thăm các nước trong Hiệp Hội Đông Nam Á (Asean) hồi tháng Bảy/1976 (cuộc viếng thăm đầu tiên từ khi chiến tranh chấm dứt) đã khuyến khích Ieng Sary đi thăm các nước trong vùng. Để trấn an, Ieng Sary mang tới cho các nước Mã Lai, Singapore, và Miến Điện, một điện văn nói rằng không có sự kết hợp thành “Đông Dương Đỏ” dưới sự kiểm soát của Hà Nội. Ieng Sary nói với phó thủ tướng Singapore Sinnathamby Rajaratnam rằng “Người Kampuchia không tin vào Liên bang Đông Dương”. Sau đó, ông ta tiếp tục báo cho Singapore biết việc tranh chấp biên giới giữa Kampuchia và Việt Nam. Ieng Sary nói -rõ ràng ngược với sự cô lập hiện tại của Kampuchia- điều đất nước ông ta muốn là mối quan hệ láng giềng tốt và buôn bán với Singapore.

Ieng Sary tiếp tục chuyến thăm các nước Đông Nam Á sau nhiều tháng im lặng trước việc Trung Hoa công khai đòi những hòn đảo ở vùng biển Nam Trung Hoa. Một bài trên tờ nhật báo Trung Hoa phát hành hôm 14 tháng 3/1977 nhắc Việt Nam nhớ rằng Trung Hoa tiếp tục đòi đảo Trường Sa (Spratly Islands).(27) Những lời tuyên bố từ Phnom Pênh và Bắc Kinh ngày 17 tháng Tư/1977 trong lễ kỷ niệm chiến thắng lần thứ hai của Khmer Đỏ cho thấy không còn gì nghi ngờ việc Kampuchia muốn tạo thêm căng thẳng với Việt Nam cũng như giao ước của Trung Hoa với chế độ Pol Pot. Trong một bữa tiệc tại Phnom Pênh, Ieng Sary xác nhận môt cách mơ hồ việc thanh trừng những phần tử thân Việt Nam. Tại một bữa tiệc ở Bắc Kinh trong cùng thời gian, bộ trưởng Ngoại giao Trung Hoa Hoàng Hoa hoan hô Kampuchia Dân Chủ đã “triệt phá được âm mưu phá hoại của kẻ thù ở trong và ngoài nước”. Ông ta bảo đảm với Kampuchia rằng Trung Hoa sẽ tiếp tục chính sách ngoại giao của Mao bằng cách liên minh với những nước nhỏ chống lại các nước lớn đang âm mưu lật đổ, can thiệp nội bộ hoặc ức hiếp. Hoàng Hoa nói “Chúng ta tin vào tương lai của hai dân tộc Trung Hoa và Kampuchia cùng đi trên con đường chiến đấu chung”. (28)

Chỉ hai tuần sau khi những lời khuyến khích như vậy được đưa ra, Khmer Đỏ mở một cuộc tấn công lớn vào Việt Nam. Việt Nam trả đủa bằng không kích với loại máy bay A37 do Mỹ để lại. Tuy nhiên, cả hai phía đều không loan báo gì về sự xung đột xảy ra ở biên giới cả. Qua hình thức một văn thư ngoại giao, lời cảnh cáo đầu tiên không được công bố của Việt Nam gởi cho Kampuchia, mãi tới ngày 7 tháng Sáu mới được gởi đi, một ngày trước khi Phạm văn Đồng tới Bắc Kinh. Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam trao thư này cho So Kheang, đại sứ Kampuchia Dân chủ tại Hà Nội, đề nghị thảo luận ở cấp cao để xét lại vấn đề biên giới và chấm dứt “những sự kiện đẫm máu” - rõ ràng nói tới việc Khmer Đỏ tấn công vào Tịnh Biên và nhiều nơi khác trong tỉnh An Giang. Lần đầu tiên Việt Nam chỉ tay tố cáo các nhà lãnh đạo ở Phnom Pênh. Bức công hàm nói rằng “Việc xử dụng những lực lượng vũ trang đáng kể tấn công đồng thời trên một khu vực rộng lớn trong một thời gian lâu dài không thể là sự manh động của chính quyền địa phương”. Công hàm hỏi “có phải đây là hành vi phạm tội của một nhóm người, của những người có đầu óc xấu xa, cố gắng phá hoại truyền thống đoàn kết và hữu nghị kết hợp hai đảng và hai dân tộc chúng ta”.(29)

Một ngày sau, tờ “Quân Đội Nhân Dân” lần đầu tiên công khai nói tới vấn đề biên giới, kêu gọi sẵn sàng chiến đấu, đẩy lùi những cuộc tấn công bất thần của địch. Tuy nhiên, mãi đến 1978, dân chúng Việt Nam mới được thông báo rõ ràng kẻ thù nào và vùng nào trên biên giới bị tấn công.

Ngày 18 tháng Sáu Kampuchia phúc đáp đề nghị của Việt Nam thương thảo vấn đề biên giới, nói rằng có thể xem xét tới vấn đề này “sau một thời gian” khi tình hình trở nên bình thường.(30) Một tuần sau khi Kampuchia lần đầu tiên đưa ra những lời bóng gió về những việc rắc rối với Việt Nam, họ khen ngợi cán bộ và chiến sĩ thuộc tỉnh Kampot, giáp ranh với Việt Nam đã “hy sinh để bảo vệ và gìn giữ mãi mãi lãnh thổ, biển và nước và các hải đảo.” (31)

Bắc Kinh nhe răng

Sự suy sụp nghiêm trong trong quan hệ với Kampuchia xảy ra trong khi tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Quốc phòng đang viếng thăm Liên Xô và các nước Đông Âu. Các nhà lãnh đạo Việt Nam dè dặt và lo lắng bảo vệ tính cách độc lập, không muốn Bắc Kinh thấy họ công khai liên minh với Moscow. Ngay khuynh hướng chính trị và nhu cầu kinh tế buộc họ đi gần hơn với Moscow, họ cũng thấy rằng Trung Hoa quá quan trọng và nguy hiểm nếu họ chống lại nước này. Vào tháng Sáu, chẳng bao lâu sau khi từ Moscow trở về, tướng Giáp thực hiện cuộc “thăm viếng thân hữu chính thức” Trung Hoa, dẫn đầu một số đông đại biểu quân sự, ngoại giao tương tự như phái đoàn ông ta lãnh đạo đi Liên xô trước đó vậy. Tuy nhiên, cuộc viếng thăm này rất tồi tệ. Phía Việt Nam tức giận vì Giáp không được tiếp đón ở phi trường cũng như mời tiệc mừng theo nghi lễ của tướng Ye Jianying, đại diện phía chủ nhà. Tất cả những cuộc thảo luận chỉ diễn ra với những nhà lãnh đạo hạng hai. Giáp làm cho người Trung Hoa choáng váng bằng cách tiết lộ rằng các cố vấn Trung Hoa của Khmer Đỏ đã bị bắt cầm tù hồi tháng Năm trong cuộc tấn công của Việt Nam. (32)

Để bày tỏ bất mãn việc Trung Hoa xử sự tệ với Giáp, tờ nhật báo “Quân đội Nhân dân” của Việt Nam in nơi trang đầu các báo cáo về cuộc viếng thăm của Giáp ở Bắc Kinh, câu chuyện bảo tàng viện Hà Nội có trưng bày một ngàn năm Việt Nam chống lại Trung Hoa để giành độc lập.

Ngày 8 tháng Sáu, một ngày sau khi Giáp rời Bắc Kinh, thủ tướng Phạm văn Đồng dừng chân ở Bắc kinh trên đường từ Moscow về. Hồi tháng Tư, khi dừng lại ở thủ đô Trung Hoa trên đường đi Paris, Đồng đã tìm cách thảo luận nhiều vấn đề khác nhau. Bây giờ lại sắp xếp cuộc họp. Đồng chân thật ngồi nói chuyện với phó thủ tướng Lý Tiên Niệm, cánh tay phải phụ trách kinh tế của thủ tướng Chu Ân Lai trước đây, từng có quan hệ lâu dài tới việc viện trợ cho Việt Nam. Nhưng lần này Việt Nam không đưa ra một danh sách xin viện trợ của Bắc Kinh. Lý đưa cho Đồng một giác thư - lời than trách chống lại Việt Nam. Ông ta tố cáo Việt Nam theo đuổi chính sách chống Trung Hoa trong lời nói cũng như trong hành động. Năm 1975, Trung Hoa có đề nghị họp thảo luận vấn đề biên giới. Lý nói với Đồng: “Nhưng chính ông, trong khi gạt bỏ việc thảo luận với chúng tôi, thì lại tiếp tục cho người lén lút vào Trung Hoa một cách bất hợp pháp, đòi hỏi đất này đất kia là của Việt Nam... rồi đánh nhau và có những hành động bạo lực khác.” (33)

Ông ta tố cáo các biến cố xảy ra ở biên giới gia tăng từ 100 vụ năm 1974 lên 900 năm 1976. Lý xác nhận lãnh thổ của Trung Hoa ở vùng biển Nam Hải như đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam tấn công và chiếm Trường Sa năm 1975, biến nó thành một vấn đề lớn để tranh cải. Lý cũng tố cáo Hà Nội phản bội lời cam kết trước bằng cách trấn áp trú dân Trung Hoa ở Việt Nam. Hà Nội không bao giờ tiết lộ phản ứng của Đồng khi bị Lý đưa lên ghế bị cáo. Theo người Trung Hoa, ông ta nói vấn đề các hòn đảo thay đổi đột ngột là do tình trạng cấp bách của chiến tranh. Đồng đáp lại rằng trong khi bận rộn với chiến tranh chống Mỹ và cần Trung Hoa viện trợ, Việt Nam không thể đặt nhiều chú tâm tới vấn đề các hòn đảo. Sự đối đầu chua chát giữa hai cựu đồng chí tại Đại Sãnh Đường Nhân Dân Bắc Kinh diễn ra đã rõ ràng. Những điệu bộ giã vờ, nhưng câu chuyện bóng gió, và việc đã kích công khai đưa tới những lời châm biếm và đối đầu tệ hại. Sự đụng độ thì chưa tới nhưng răng cỏ thì đã nhe ra.

Tình hữu nghị bị xúc phạm

Sự rắc rối trong chuyến đi Trung Hoa của tướng Giáp và cuộc đối đầu gay gắt giữa Phạm văn Đồng và Lý Tiên Niệm hồi tháng Sáu, - một tháng sau khi Khmer Đỏ tấn công dữ dội vào Việt Nam -, chỉ làm cho Hà Nội khẩn trương tìm kiếm an toàn. Về phía Việt Nam, những biến cố từ tháng Tư đến tháng Sáu làm cho họ thêm củng cố lòng tin đã lâu rằng chính an ninh của Việt Nam cột chặt với an ninh Lào và Kampuchia. Nếu một thế lực thù địch với Việt Nam thiết lập được liên hệ với Lào hay Kampuchia, như các nhà chiến lược Việt Nam suy tính, sự hợp tác đó sẽ là mối đe dọa nghiêm trọng cho nền an ninh Việt Nam. Chỉ một thời gian ngắn sau khi từ Trung Hoa trở về, Đồng lại ra đi. Lần này, ông ta tới Lào để ký một thỏa ước hữu nghị -sự cản trở đầu tiên có thể ngăn Trung Hoa can thiệp vào Đông Dương.

Những biện pháp làm thế nào để hai bên hợp tác chặt chẽ với nhau được giao cho một số nhân vật cao cấp trong phái đoàn Việt Nam tới Vạn Tượng vào sáng ngày 15 tháng Sáu. Ngoài tổng bí thư Lê Duẫn, thủ tướng Phạm văn Đồng, hai thành viên bộ Chính trị, hai ủy viên trung ương đảng, còn có một lô các quan chức hàng đầu khác. Đây là lần đầu tiên Lào thì đón và Hà Nội thì gởi đi một phái đoàn đại biểu cao cấp như vậy. Toàn bộ chính phủ Lào -từ “ông hoàng đỏ” có râu mép (Chủ tịch Souphanouvong) và thủ tướng Kaysone cho tới thứ, bộ trưởng thấp nhất- đều ra chào mừng Việt Nam tại phi trường. Ngày hôm sau, một cuộc tập họp đông đảo được tổ chức gần That Luang- chùa cột vàng cao ngất trời Vạn Tượng- để chào mừng phái đoàn Việt Nam. Một số ít người trong số công dân được đảng CS Lào gọi tập trung ở đây biết rằng ý nghĩa việc làm của Kaysone là đập tan “mưu đồ phản trắc, xảo trá và những hành động cướp bóc của bọn đế quốc và tay sai, bọn phản động” hay ý nghĩa lời thề của Kaysone là “làm tất cả những gì chúng tôi có thể làm được để tăng cường đoàn kết chặt chẽ với nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.” (34)

Chỉ những biến cố về sau cho thấy rõ Kaysone gián tiếp nói “mưu đồ xảo trá” của Trung Hoa và Khmer Đỏ phá vở mối liên hệ đặc biệt của Việt Nam với các nước láng giềng Đông Dương. Câu trả lời của Lào-Việt Nam nói tới những “mưu đồ” được tiết lộ vào buổi sáng ngày 18 tháng Bảy. Trước khi lên đường về Hà Nội, Việt Nam ký một thỏa ước hữu nghị và hợp tác với Lào đến nỗi cả hai nước sẽ “duy trì tình đoàn kết mãi mãi trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước”. Đề mục 1 của thỏa ước 25 năm là giáo dục đảng và nhân dân “kiên trì tôn trọng, bảo vệ và nuôi dưỡng mối liên hệ đặc biệt Việt Nam-Lào được trong sáng và mãi mãi bền vững”. Điểm này nhằm xóa tan tính truyền thống chống đối Việt Nam, ngăn ngừa chủ nghĩa Chauvin và ão giác thù địch Việt Nam, theo kiểu cuồng nộ hiện tại ở Kampuchia. Đề mục 2 nói rằng trong khi nền an ninh quốc gia còn là trách nhiệm của mỗi nước “hai bên yêu cầu hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau toàn tâm toàn ý và hợp tác chặt chẽ nhằm gia tăng khả năng quốc phòng và gìn giữ độc lập, tự trị, sự toàn vẹn lãnh thổ (của mỗi quốc gia) và chống lại mọi mưu đồ và hành động cướp bóc của bọn đế quốc và các thế lực phản động nước ngoài.” (35)

Hiệp nghị thân hữu và những thỏa ước khác đặt ra nền tảng hợp pháp cho việc hợp tác chặt chẽ và vai trò an ninh của Việt Nam ở Lào -là điều kiện sống còn từ khi nước Cọng Hòa Lào được khai sinh. Tuy nhiên, thỏa ước đó chỉ là hình thức hóa sự thật. Nó muốn nhắc cho Trung Hoa và Kampuchia biết rằng, bất kể sự chống đối của họ, Hà Nội quyết định duy trì sự lãnh đạo của họ đối với Đông Dương. Nếu có chuyện Kampuchia tấn công Việt Nam thì điều đó chỉ làm cho Hà Nội gia tăng liên hệ đặc biệt với Lào và Kampuchia ở mức độ ưu tiên cao chứ không còn là điều xa vời nữa.

Đối với Pol Pot, thỏa hiệp Lào - Việt Nam là sự xác định cuối cùng đối với nỗi lo sợ của ông ta. Việt Nam đã làm hết sức để xây dựng một kế hoạch lâu dài về Liên bang Đông Dương. Ông ta chẳng còn nghi ngờ gì về tham vọng của Việt Nam là “chiếm cứ toàn bộ Kampuchia dưới hình thức một Liên bang Đông Dương bằng cách mỗi năm gởi hàng ngàn hoặc hàng triệu người Việt tới định cư ở Kampuchia. Nếu Việt Nam đi theo con đường này thì chỉ trong vòng 30 năm hay hơn, nhân dân Kampuchia sẽ trở thành thiểu số”. Pol Pot phát biểu với một nhà báo Nam Tư như vậy vào hồi tháng Ba/1978.(36) Quyết định của Việt Nam cột Lào bằng một thỏa ước quan hệ đặc biệt, theo Pol Pot, là điều chỉ rõ cho thấy là Hà Nội có ý định nối liền với Kampuchia. Sự căm ghét của Pol Pot đối với thỏa ước này không bày tỏ công khai. Trong một bản tường trình ngắn về chuyến đi thăm của phái đoàn Hà Nội ở Lào, đài phát thanh Phnom Pênh nói bóng gió một cách mờ ám rằng anh chàng kỵ sĩ Việt Nam không quan tâm tới quyền tối thượng của Lào, chỉ nói lên thỏa ước lãnh sự qua đó các viên chức Việt Nam và Lào “quá cảnh mà không cần thông hành”. (38)

Sự láo xược của chiến thắng

Bằng một sự trùng hợp kỳ lạ, trong cùng một ngày -17 tháng Bảy/ 1977- những nhà lãnh đạo Việt Nam kết thúc chuyến đi thăm và ký thỏa ước với Lào, các cán bộ hàng đầu của đảng CS Kampuchia ở vùng phía đông tập trung trong một khu vực bí mật để thực hiện chiến lược chống Việt Nam. Một tháng sau, nghị quyết thông qua trong buổi họp đó được đưa ra ánh sáng vì một bản nghị quyết này rơi vào tay Việt Nam trong một cuộc hành quân càn quét nội địa Kampuchia. Nghị quyết nói rằng Việt Nam “có kế hoạch đen tối chiếm đóng lãnh thổ chúng ta và tiêu diệt dân tộc Khmer”. Vì vây cuộc xung đột “không bao giờ giải quyết được bằng chính trị”. Trong một lời ám chỉ việc thanh trừng những cán bộ từ chối đi theo đường lối chống Việt Nam, nghị quyết kết kuận “Chúng ta có nghĩ là sẽ giải quyết được vấn đề ấy (Cuộc xung đột với Việt Nam) phù hợp với thành phần ấy trong đảng ta hay chúng ta phải giải quyết nó phù hợp với sự hèn nhát của bọn phản bội quỳ gối và phục tùng như những tên đầy tớ của bọn Youn? Chúng ta phải xác định rằng không bao giờ trở thành những tên đầy tớ của bọn Youn.”

Nghị quyết kêu gọi chiến sĩ tiêu diệt người Việt Nam nếu Việt Nam tấn công Kampuchia. “Không những chúng ta chỉ chận đứng và tiêu diệt chúng ngay trên lãnh thổ chúng ta mà chúng ta còn phải vượt qua biên giới để chận đứng và tiêu diệt chúng ngay trên lãnh thổ của chúng. Đây là ý chí để tạo thêm khó khăn cho chúng và làm cho chúng càng thêm sợ hãi chúng ta. Rồi, sau đó, chúng không bao giờ dám xâm lấn lãnh thổ chúng ta nữa. Chúng ra sức chống lại chúng ta”. (39)

Nghị quyết không nói rõ những mục tiêu của Khmer khi đẩy Việt Nam vào thế phòng ngự. Nhưng trong khi cổ võ binh lính chống lại Việt Nam hồi đầu năm 1977, một vài người theo Pol Pot bày tỏ ước muốn đòi lại vùng Kampuchia Krom (Nam phần ngày nay) và Prey Nokor (tên Khmer, chỉ vùng Saigon bây giờ)

Có phải Pol Pot thực sự tin vào những người lính trẻ, trang bị yếu kém có thể đánh bại Việt Nam. Giống như Mao, ông ta có lòng tin vào quyền tối ưu của con người vượt qua được máy móc và vũ khí. Điều này làm gia tăng niềm tự hào dân tộc của Khmer Đỏ dũng mãnh và khả năng của quốc gia họ. Hồi tháng Chín/1977, Pol Pot tuyên bố: “Nếu nhân dân chúng ta đã xây dựng được Đế Thiên Đế Thích, họ sẽ có thể xây dựng được mọi thứ.” Ông ta tự thuyết phục rằng Khmer Đỏ đã đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ và giúp đỡ người Việt Nam chiến thắng.

Mọi thứ rồi có thể xảy ra sau một chiến thắng kinh ngạc như thế. Pol Pot lý luận, binh lính của Việt Nam bành trướng chẳng bao giờ có thể đối đầu với người lính Kampuchia vì họ chiến đấu cho chính quốc gia họ. Pol Pot cho sức mạnh của nước Kampuchia Dân chủ là ở sự trong sáng của quân đội và tổ chức căn bản của nó. Trong một buổi họp đảng, ông ta nói rằng “Nếu chúng ta tổ chức quân đội tốt, chắc chắn chúng ta chiến thắng An Nam (Việt Nam) bởi vì chúng ta là một xã hội hợp lực trong khi xã hội Việt Nam thì yếu kém vì tài sản riêng tư, xáo trộn, và hỗn loạn.” (41)

Sự “thành công” do binh lính Khmer thu được trong việc tàn phá các làng mạc Việt Nam và tàn sát dân lành trong những cuộc tấn công bất thần kể từ tháng Tư/1977 mà Việt Nam không phản ứng đã thúc đẩy mạnh mẽ lòng tin của Pol Pot. Điều Hà Nội đang phải đối đầu nghiêm trọng là khủng hoảng lương thực, sự rối loạn vô cùng ở Miền Nam, sự chống đối bằng vũ lực của nhiều nhóm khác nhau, -ít nhất trong đó có Fulro (the United Front for the Struggle of Oppressed Races - Front de L'unité de Liberation des Races Oppressés) nhận được viện trợ vật chất từ Khmer Đỏ -chỉ có Khmer Đỏ mới đủ can đảm thách đố Việt Nam.

Pol Pot cũng kết luận rằng việc thương thảo về lãnh thổ với Việt Nam là khó đạt được. Chỉ có việc biểu dương lưc lượng dọc theo biên giới và sự đòi hỏi công khai vùng biển có thể làm cho Kampuchia duy trì độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Trong các cuộc thảo luận về biên giới hồi tháng Sáu/1976, Phan Hiền, đại biểu Việt Nam đã từ chối, không chấp thuận đường ranh Brévié, đường phân ranh trên biển. Cuộc thương thảo bị đình chỉ và không trù định họp lại. Tuy nhiên, ngày 12 tháng Năm/1977 Hà Nội tuyên bố khu vực kinh tế của họ (thềm lục địa) kéo dài tới 200 dặm kể từ bờ biển. (42)

Dù Việt Nam nói họ sẵn sàng “họp hội nghị thảo luận với bất cứ quốc gia nào quan tâm tới mọi vấn đề liên hệ tới lãnh hải và lục địa của mỗi quốc gia trên căn bản tôn trọng độc lập và quyền cai trị của mỗi bên theo luật pháp quốc tế”, Kampuchia vẫn không tin những gì Việt Nam hứa hẹn. Tháng 8/1977 tạp chí “Kampuchia Dân Chủ Tiên phong” một tạp chí phổ biến ra ngoại quốc, ấn hành một bản đồ Kampuchia, chỉ có một điểm đặc biệt đáng lưu ý được phác thảo là một đường chấm (đường ranh Brévié) trong vịnh Thái Lan biểu thị vùng biển của Kampuchia. Đó là câu trả lời của Phnom Pênh đối với lời tuyên bố của Việt Nam về đường ranh vùng biển.

Ngày 30 tháng Bảy, một bài bình luận của đài phát thanh Phnom Pênh nói rằng trong quá khứ, “bọn phản bội cầm quyền” ở Kampuchia đã cho đế quốc xâm lấn lãnh hải của nước này. Nhưng chúng không còn được phép nữa vì “tiến trình cách mạng hiện nay bảo vệ và xây dựng đất nước”. Bài bình luận này cũng kê ra một lô các hòn đảo dưới quyền kiểm soát của Kampuchia và tuyên bố rằng họ cương quyết không khoan thứ “bất cứ kẻ thù nào xâm lược hay chiếm đoạt lãnh hải và hải đảo.” (43) Sự xung đột giữa Việt nam và Kampuchia đạt tới đỉnh cao khi chế độ Pol Pot thấy cần đưa vấn đề này ra để cảnh cáo Hà Nội.

Một nhân vật bí mật ở Bắc Kinh

Ngày 28 tháng Chín/1977, tuồng như có hy vọng mới ở Bắc Kinh. Đã lâu thành phố này không thấy lễ lược như vậy. Năm 1976 bắt đầu với cái chết của Chu Ân Lai. Tiếp theo là cuộc rối loạn chính trị ở Bắc Kinh, động đất tàn phá, chủ tịch Mao Trạch Đông qua đời, và sự thay đổi trong ngành vệ binh. Nước Trung Hoa tê liệt bây giờ thấy nhẹ nhõm vì nhóm cực đoan đã bị loại trừ. Lễ kỷ niệm lần thứ 28 nước Cọng hòa Nhâm dân Trung Hoa ngày 1 tháng 10 được cử hành lần đầu tiên thời hậu Mao. Có một số ít người ngờ rằng, lần thứ nhất đối với thế giới, nhà lãnh đạo dấu mặt Kampuchia sẽ xuất hiện vào buổi lễ “tấn phong” thỏa ước Trung Hoa - Khmer. Thiên-An-Môn trông giống như hình ngôi chùa với một hành lang rộng, lan can lát đá cẩm thạch là cỗng vào cấm thành, nằm sau một cái sân rộng được trang hoàng cờ xí. Việc trang hoàng đó không những chỉ dành riêng cho ngày quốc khánh Trung Hoa mà còn có cờ vàng đỏ nước Kampuchia Dân chủ, bay lượn trên hành lang. Dọc theo đại lộ Tràng An, chạy phía trước Thiên An Môn, các cột đèn đều gắn trên đầu những ngọn đèn lớn hình hoa sen, treo cờ hai nước liên minh. Hàng trăm trẻ em học sinh tay cầm bảng màu đứng dọc theo hai bên hành lang đi vào Thiên An Môn. Ở đoạn cuối có mấy em bé cầm bảng đưa cao lên khỏi đầu có hàng chữ gỗ “Chào Mừng Quan Khách” viết bằng tiếng Trung Hoa và Khmer. Hàng trăm ngàn người dân thành phố Bắc Kinh được gọi đứng hai bên đường từ phi trường vào tới đại lộ Trường An để chào đón quốc khách. Một ít nhân vật Trung Hoa hàng đầu ngang chức với quốc khách đứng đón. Ngay từ việc chuẩn bị đón chào quốc khách rực rỡ như thế này, người ta biết rằng đây là khách đặc biệt của Trung Hoa. Trong không khí dịu mát của bầu trời mùa thu, Bắc Kinh thực sự đã làm sống lại nước Kampuchia Dân chủ.

Bức màn bí mật như tấm khăn tang che phủ những lãnh tụ Khmer Đỏ, sáng hôm ấy được ưu ái vén lên khi họ mặt mũi tươi cười, tóc tai cắt ngắn, áo đen lãnh tụ theo kiểu Mao xuất hiện ở cửa chiếc máy bay Boeing 707 của Trung Hoa. Nhân vật hàng đầu cách mạng Kampuchia, người chẳng bao giờ xuất hiện công khai trước đây là Pol Pot. Kể từ mùa Xuân 1976, khi đài phát thanh Phnom Pênh loan báo Pol Pot được chọn làm thủ tướng, người ta bàn luận không ngớt về đời thật của nhân vật hoàn toàn không được biết này. Sự bí mật càng lúc càng sâu vì bốn tháng sau khi làm thủ tướng, người ta lại nghe loan báo Pol Pot tạm nghỉ chức vụ này vì lý do sức khỏe. Trọn một năm người ta không nghe tới tên ông cho đến ngày ông ta xuất hiện trên tấm thảm đỏ trãi ra ở phi trường Bắc Kinh. Con người bí mật ấy, cuối cùng đã xuất hiện bằng xương bằng thịt trước ánh sáng chói lòa với toàn thế giới. Toét miệng cười, hai con mắt hí hầu như bị che khuất dưới các nép nhăn của mặt, Pol Pot nồng nhiệt bắt tay thủ tướng kiêm chủ tịch đảng Hoa Quốc Phong đứng trên đường tới thang máy bay. Tám nhân vật lãnh đạo hàng đầu, gần một phần ba nhân vật đầy quyền lực trong Bộ chính trị, gồm cả phó thủ tướng mới được phục chức Đặng Tiểu Bình, tập họp tất cả tại phi trường để bày tỏ tình thân hữu bền chặt của Trung Hoa với nước Kampuchia Dân chủ. Cùng với Hoa, Pol Pot đứng trên xe mui trần chạy từ sân bay xuống phố Tràng An trong khi đám đông đánh chiêng trống và hoa cờ giấy Kampuchia, thả hàng trăm hàng ngàn bong bóng lên không. Tiếng hoan hô ầm ỉ nổi lên mỗi khi đoàn xe đi qua.


Каталог: upload
upload -> -
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 1.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   35




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương