Nayan Chanda hoànglonghải



tải về 1.97 Mb.
trang14/35
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.97 Mb.
#13140
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   35

Dấu hiệu sai lầm phía Hà Nội

Carter chọn Cyrus Vance làm bộ trưởng ngoại giao và Richard Holbrooke làm phụ tá đặc trách về Đông Á và Thái Bình Dương. Cả hai đều có tham gia vào những cố gắng tìm kiếm hòa bình. Do những kinh nghiệm về Việt Nam, Vance tin rằng việc bình thường quan hệ với Hà Nội sẽ giúp Hà Nội bớt tùy thuộc vào Moscow và Bắc Kinh. Holbrooke cũng tin rằng quan hệ Việt Mỹ sẽ góp phần xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và các nước trong Hiệp Hội Đông Nam Á (ASEAN). Thảo luận với tổng thống mới được bầu Carter, tại sao Hoa Kỳ có lợi ở châu Á, Holbrooke nói: “Viễn Đông là nơi Mỹ gặp phải nhiều vấn đề lớn trong vòng 30 năm qua. Ba cuộc chiến tranh vừa qua của chúng ta khởi đầu từ nơi này và chúng ta cũng có một trận đánh ngay tại quê nhà, rồi để mất Trung Hoa, Korea, Việt Nam và Kampuchia. Tôi nghĩ rằng chính quyền của tổng thống có thể vượt qua một khúc quanh. Chúng ta từ bỏ chính sách liên tục gây nên nhiều hậu quả như trên và xây dựng lại một vị trí hợp lý hơn ở châu Á.”

Carter, nguyên là thống đốc Georgia, một người chẳng bao giờ giữ chức vụ gì có liên hệ đến chiến tranh Việt Nam, chẳng liên hệ gì tới những học thuyết chiến lược lớn về trật tự mới ở châu Á. Holbrooke nói với tôi: “Tôi không nghĩ là Carter có những cảm nhận nhẹ nhất về vấn đề này. Carter chỉ thấy lợi ở Việt Nam vì nó là biểu tượng cho một sự kiện quan trọng, vì nó là một trong những lý do khiến ông ấy được chọn làm tổng thống, vì ông là ứng cử viên thời kỳ sau Việt Nam. Ông ta rất muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vì đó là một biểu tượng. Ông ta cũng rất muốn bình thường quan hệ với Trung Hoa và Cuba. Ông ta muốn bình thường với tất cả mọi người.” Vì là tổng thống đầu tiên sau chiến tranh Việt Nam, công việc ông ta là hàn gắn phân ly ở trong nước và phục hồi hình ảnh Mỹ đã bị lu mờ ở ngoại quốc. Bỏ vấn đề Việt Nam lại phía sau, một trong những hành động đầu tiên của ông khi làm tổng thống là đưa ra một lời xin lỗi chung cho những người trốn quân dịch. Điều quan trọng khác là muốn quên đi nỗi đau khổ quá khứ, có tới hai ngàn năm trăm người mất tích ở Đông Dương, trong đó có hơn 800 người đưọc ghi vào danh sách những người đã hy sinh khi thi hành nhiệm vu.

Vì đòi hỏi một điều không thực tế là có đủ những người Mỹ mất tích trước khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, chính quyền Ford thực ra đã kết thúc vấn đề. Trong suốt thời gian vận động bầu cử, Ford phải tự che mình vì bị tấn công, bị cho là kẻ khù khờ. Tuy nhiên, công việc của Cater nhẹ hơn nhờ bản tường trình của Ủy Ban Quốc Hội tìm kiếm người Mỹ mất tích ở Đông Nam Á, đứng đầu là dân biểu Sonny Montgomery của đảng Cọng Hòa. Bản tường trình không những kết luận rằng “Không người Mỹ nào còn sống đang bị ở tù ở Đông Dương hoặc nơi nào khác do hậu quả chiến cuộc Đông Dương” nhưng bản tường trình đó cũng nói rằng “đối với toàn bộ vấn đề người Mỹ mất tích thì các chính phủ Đông Dương không thể mà cũng không mong có được.”

Tất cả nghị trình về chính sách ngoại giao của chính phủ mới, đối với chiến cuộc Việt Nam thì coi như đóng lại rồi, trở thành một việc đơn giản. Từ khi Hoa Kỳ không trông mong tìm được đầy đủ số người mất tích trong chiến tranh nữa thì họ muốn có một danh sách tương đối đầy đủ nhất có thể có được. Hà Nội thì mong muốn hợp tác, đặc biệt có củ cà-rốt viện trợ nhân đạo lủng lẳng trước mặt. Trong một bản ghi nhận về chính sách ngoại giao do tổng thống vạch ra, hồi tháng Mười/ 1976, Vance đề nghị tổng thống gởi một phái đoàn đi Đông Dương để thảo luận vấn đề người Mỹ mất tích. Trong suốt chuyến đi đó, phái đoàn được trao quyền thảo luận với Hà Nội. Vance viết: “Mỹ phải chuẩn bị đưa ra Quốc hội một chương trình viện trợ nhân đạo trong đó có những phần như gia cư, sức khỏe, lương thực để tương xứng với vấn đề người Mỹ mất tích.”

Và đó là chỗ ngoặt trong chính sách ngoại giao của tổng thống Carter. Ba tháng sau khi nhậm chức, một phái đoàn do tổng thống cử đi, Woodcock hướng dẫn, tới Hà Nội. Một viên chức bộ Ngoại giao nói riêng: “Toàn bộ vấn đề chuyến đi của Woodcock là việc tuyên bố vấn đề người Mỹ mất tích coi như thế là xong. Đó không phải là vấn đề nhân đạo mà là tiền.” Ngũ giác đài giữ tên những người mất tích trong sổ xếp loại theo định kỳ cho đến khi được công bố là chết rồi.

Carter vui sướng với những kết quả đó. Đối với việc ngoại giao, đó là thành công đầu tiên của ông. Ông ta gọi sự đáp ứng của Việt Nam với phái đoàn Woodcock là “hết sức khích lệ” và thỏa mãn về những điều Việt Nam đã đóng góp cho vấn đề người Mỹ mất tích. Ông ta tuyên bố: “Tôi nghĩ rằng đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm được. Tôi chẳng có cách nào ngoài việc nói rằng họ đã làm hết những gì đối với những người họ đã thu nhận được tin tức. Tôi nghĩ là tôi xác nhận họ làm việc một cách đáng tin.”

Việc người Việt Nam muốn hợp tác cho thấy rõ điều ấy tương phản với những lời đã kích Carter từ phía Khmer Đỏ. Sứ mạng của Woodcock chẳng đạt được đáp ứng nào từ phía Kampuchia khi ông ta yêu cầu đến thăm Phnom Pênh. Trong khi ở Vạn Tượng, thủ đô Lào, được Việt Nam hỗ trợ, đoàn đại biểu Woodcock thực hiện cố gắng chót: Một viên chức của bộ Ngoại giao với một thành viên trong đoàn đại biểu tới tòa đại sứ Kampuchia Dân chủ xin đến thăm nước này. Nhưng cũng giống như ở Kampuchia, tòa đại sứ đóng kín cửa. Sau nửa giờ gỏ cửa, bà vợ ông đại sứ, cũng là đệ nhất bí thư của cơ quan nầy mở cửa để nhận một thư viết tay của Woodcock đưa qua cánh cửa mở hé trước khi đóng lại: “Ông đại sứ không có đây.” Bà vợ ông đại sứ nói vậy. Đài phát thanh Phnom Pênh loan tin: “Cơn giận dữ của nhân dân Kampuchia chống đế quốc Mỹ và bọn chó săn vẫn còn sôi sục. Vì nhân dân Kampuchia muốn độc lập, giữ quyền tự chủ và tự do. Họ không thể chấp nhận yêu cầu của đế quốc Mỹ gởi phái đoàn đến thăm nước Kampuchia Dân chủ và không thể tham gia bất cứ một cuộc họp nào ở bất cứ nơi nào.”

Người ta không ngạc nhiên khi thấy Carter thỏa mãn với những gì mà ông ta xem là sự hòa giải mới với Việt Nam. Ông ta ghi nhận rằng trong quá khứ Việt Nam nói là không thương nghị cũng như không đưa thêm tin tức nào về người Mỹ mất tích cho đến khi Mỹ chịu bồi thường chiến tranh. Tuy nhiên, bây giờ Việt Nam đề nghị một vòng hội đàm mới ở Paris mà không có điều kiện tiên quyết nào. Theo Carter, Việt Nam nói với Hoa Kỳ “Chúng tôi không theo đuổi những thỏa hiệp hay bất đồng nào trong quá khứ. Chúng tôi nóng lòng đi tới tương lai.” Hiểu lầm về vị thế Việt Nam, Carter giải thích rằng Hà Nội sẵn sàng từ bỏ những yêu cầu trong quá khứ về việc đòi Hoa Kỳ viện trợ tái thiết. Tuy nhiên, ngay chính bản tường trình của Woodcock nói rõ rằng mặc dù không đưa ra điều kiện tiên quyết về vấn đề bình thường hóa quan hệ hai bên, Việt Nam không nghi ngờ gì việc móc nối hai bên lại với nhau.

Hà Nội mau lẹ thách đố đề nghị của Carter là việc viện trợ không lâu quá hơn những điều kiện tiên liệu việc bình thường hóa đó. Ba ngày sau khi Carter đưa ra những dấu hiệu mới, trong một buổi phỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam, Phan Hiền gián tiếp bác bỏ. Hiền nói ông ta quả thật có nói với phái đoàn Woodcock Việt Nam sẵn sàng hướng tới tương lai trong quan hệ mới với Hoa Kỳ nhưng “người ta không thể cắt rời tương lai với quá khứ”. Phan Hiền nói rằng quá khứ đã để lại một số chướng ngại trên con đường bình thường hóa mà chúng ta cần phải dẹp bỏ.

Nếu Carter hiểu lầm việc Việt Nam sẵn sàng bỏ quá khứ lại đàng sau, tự ông ta đưa ra những lời tuyên bố bị dịch lầm ra tiếng Việt.

Mặc dù phủ nhận Hoa Kỳ không có ràng buộc nào phải giúp đỡ Việt Nam, Carter còn đưa ra một khả năng: Ông tuyên bố: “Trong việc bình thường quan hệ hai bên, bao gồm cả thương mại, viện trợ bình thường, rồi tôi sẽ đáp ứng tốt đẹp”.

Thật ra tổng thống Hoa Kỳ không nói rõ viện trợ như thế nào mà chỉ nói là viện trợ đến sau khi quan hệ bình thường, khuyến các nhà lãnh đạo ở Hà Nội muốn thúc đẩy viện trợ như là một phần trong tiến trình bình thường quan hệ ngoại giao. Thắng lợi bầu cử của Carter và cá tính hòa giải chiến tranh của ông đã tạo hy vọng ở Hà Nội. Việc ông ta gởi phái đoàn đến Hà Nội cũng biểu lộ cá tính đó của ông. Carter tuồng như tái xác nhận quan điểm của người Việt Nam là Hoa Kỳ phải chuộc tội. Trong một lời công bố khi phái đoàn Woodcock trở về, Carter từ chối việc bắt buộc vì lương tâm. Ông ta nói: “Tôi không thấy là chúng ta phải xin lỗi hay tự mình trừng phạt. Tôi không thấy là chúng ta có mang một món nợ nào.”

Tuy nhiên, việc phái đoàn được gởi đi và ấn tượng về Việt Nam thu đạt được gì tại bàn hội nghị với Woodcock không phá tan được ý nghĩ cho rằng Hoa Kỳ có sự bắt buộc lương tâm để hàn gắn vết thương chiến tranh. Quyết định của Carter về việc tổng thống gởi một phái đoàn đi Việt Nam rất sớm, sau lễ nhậm chức, cũng làm tăng cường ý nghĩ của Hà Nội cho rằng Việt Nam vẫn còn nằm ở trọng tâm chính sách ngoại giao Hoa Kỳ và Hoa Thịnh Đốn trả một cái giá nào đó để bắt đầu thực hiện quan hệ mới.

Là những người Mácxít, những nhà lãnh đạo ở Hà Nội thường hay kết hợp những vấn đề quan trọng với hoạt động kinh tế sau khi đế quốc Mỹ can thiệp vào nước này. Họ được khuyến cáo rằng sức quyến rũ khả năng tiềm tàng về kinh tế Việt Nam, tài nguyên thiên nhiên và khả năng lao động sẽ làm cho tư bản Mỹ trở lại. Có phải viện trợ cho Việt Nam cũng có nghĩa là giúp đỡ công nghiệp Mỹ? Ủy ban Liên hợp Kinh tế Việt Mỹ đạt được bản sơ thảo thỏa hiệp năm 1973 qua đó Việt Nam sẽ mua của Hoa Kỳ 85 phần trăm hàng hóa tài trợ bằng 1 tỷ rưởi từ chương trình viện trợ. Thêm vào đó là lợi ích về vốn, Hà Nội còn hy vọng vào lòng cao thượng của người Mỹ và mặc cảm tội lỗi của họ đối với Việt Nam. Việt Nam hy vọng việc hàng ngàn người đi bộ cho hòa bình, hàng chục lãnh tụ Quốc hội, những người chống chiến tranh bây giờ sẽ thúc đẩy bình thường hóa quan hệ ngoại giao và viện trợ tái thiết.

Thực ra, các viên chức chính quyền Carter không nắm được hoàn toàn ý muốn của Việt Nam về viện trợ to lớn của Mỹ như thế nào, không hẵn là một phần thưởng cho họ đối với vấn đề người Mỹ mất tích (MIA) mà chính là một hành động bắt buộc vì lương tâm. Chắc chắn chẳng có ai nghĩ rằng Việt Nam trông chờ lòng hào hiệp của người Mỹ - giúp đỡ theo kiểu một kế hoạch Marshall mới - để xây dựng lại đất nước bị tàn phá. Một viên chức Việt Nam cao cấp xác nhận với tôi trong khi phác thảo chương trình phục hưng kinh tế sau chiến tranh ngay sau khi Jimmy Carter thắng cử, thực tế là Việt Nam trông vào lời hứa viện trợ 4tỷ 7 của Mỹ. Một viên chức Việt Nam khác nói với tôi “áp lực từ những nhà hoạch định kinh tế như Lê Thanh Nghị yêu cầu chúng tôi phải cương quyết đòi hỏi viện trợ Mỹ, coi như đó là điều kiện tiên quyết để lập lại quan hệ bình thường giữa hai nước.”

Nhiều năm sau, khi tôi nói với Richard Holbrooke về kế hoạch của người Việt được thiết lập đặt căn bản trên lời hứa của tổng thống Nixon, thì Holbrooke rất ngạc nhiên. Ông ta nói: “Họ phải bỏ ra ngoài trí óc họ việc đó đi.”

Holbrooke, 36 tuổi, một người tiến rất nhanh trong việc thiết lập đường lối ngoại giao Hoa Kỳ, là một trong những người bị con rệp Việt Nam cắn cho một phát. Công việc đầu tiên của ông là phục vụ ở Việt Nam ba năm. Kinh nghiệm đó đã ám ảnh ông.

Khi Carter và Cyrus Vance chọn ông làm phụ tá ngoại trưởng đặc trách về Đông Á, Holbrooke thấy có cơ hội để thực hiện chính sách ngoại giao của Mỹ đối với châu Á. Lập quan hệ ngoại giao bình thường với Việt Nam và Trung Hoa là những bước đầu tiên của tình hình mới. Chỉnh đốn lại quan hệ với Việt Nam là ưu tiên hàng đầu. Sau nầy một viên chức bộ Ngoại giao nhận xét: “Dick bị ám ảnh về vấn đề Việt Nam. Ông ta muốn lưu danh trong lịch sử như là một người đã hàn gắn với Việt Nam và đóng lại một chương sách đau buồn chính sách ngoại giao của Mỹ”

Đối với chính quyền Carter, tìm kiếm quan hệ bình thường với Việt Nam cũng còn vì những lý do thực tế. Bàn về Việt Nam, chính tổng thống Nixon cũng nói tới tài nguyên thiên nhiên. Việt Nam còn nhiều tiềm năng, bao gồm cả dầu lửa mà Việt Nam nắm được. Các ông chủ nhà băng và thương gia Hoa Kỳ cũng như các công ty dầu lửa thúc ép bải bỏ lệnh cấm vận. Họ không muốn các công ty châu Âu và Nhật giành mất cơ hội ở Việt Nam. Ngày 18/ 4/ 1977, Hà Nội ban hành một đạo luật tự do kinh doanh cho đầu tư tư nhân. (Điều này đáng ngạc nhiên). Mấy tháng trước đó, họ đã đưa một bản phác thảo về điều luật này cho các ông chủ nhà băng Mỹ.

Quan hệ kinh tế tùy thuộc quan điểm rộng rãi hơn về ngoại giao. Vance và Holbrooke không nghi ngờ gì một nước Việt Nam độc lập rất mong muốn có quan hệ cân bằng với các siêu cường hơn là hoàn toàn tùy thuộc vào Liên Xô. Họ thấy việc vắng bóng các nhà ngoại giao Mỹ ở Việt Nam là một yếu tố quan trọng ngăn ngừa khả năng Mỹ đối đầu với ảnh hưởng Liên Xô tại Đông Nam Á. Sau này, Vance viết trong hồi ký: “Tôi thấy việc lập quan hệ ngoại giao bình thuờng với Hà Nội, - được các bạn bè Á châu hỗ trợ mạnh mẽ, có thể làm gia tăng ảnh hưởng của chúng ta đối với Việt Nam và đem lại lệ thuộc hỗ tương về chính trị và quân sự với Liên Xô và Trung Hoa.” Chỉ có Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống, không nhiệt tình đối với những điều ông ta gọi là “những vấn đề ngoại vi như Việt Nam”. Sự khác biệt về quan điểm này tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về sau.

Từ Paris, với Chagrin

Một tháng sau khi Woodcock đi Việt Nam về, Paris lại trở thành nơi hội nghị giữa Việt Nam và Mỹ - lần này thảo luận rộng rãi hơn về những vấn đề của hai kẻ cựu thù, bao gồm cả việc bình thường hóa quan hệ hai bên. Tháng Năm ở Paris thật huy hoàng và triệu chứng thành công đang được khuyến khích. Mặc dù có lệnh cấm vận, chính quyền Carter đã chuẩn chi 5 triệu viện trợ nhân đạo. Việc nầy làm đảo ngược chính sách của chính quyền Ford và không nghịch lại với chương trình phát triển cho vay nợ của Liên Hiệp Quốc. Trong một cuộc phỏng vấn trước khi Holbrook rời Hoa Thịnh Đốn, ông ta bày tỏ khả năng Hoa Kỳ viện trợ gián tiếp cho Việt Nam. Chuyến viếng thăm Hà Nội lần đầu tiên của phái đoàn Quỹ Tiền tệ Quốc tế hồi tháng Chạp/ 1976, và phái đoàn Ngân Hàng Thế Giới hồi tháng Giêng/ 1977 nâng cao hy vọng Việt Nam nhận viện trợ Mỹ thông qua các tổ chức này. Cả hai tổ chức nầy đều bị Mỹ kiểm soát chặt chẽ. Một bản tường trình mật của Ngân hàng Thế giới khen ngợi Việt Nam sau khi chính phủ nước này đưa ra nhiều cố gắng để xử dụng tài nguyên và phát triển tiềm năng to lớn của họ. Điều đó thúc đẩy “viện trợ thực tiễn” qua từng thời gian. Bản tường trình nói rằng “Việt Nam mong muốn được viện trợ nhiều hơn bởi vì sự thực đất nước đang trong thời kỳ tái thiết, vì cuộc chiến lâu dài, và nhu cầu cần có một khoảng không gian để thở, việc tái chỉ đạo kinh tế cho thời bình.”

Ngày 27 tháng Tư, một báo cáo của đại sứ Mỹ ở Thái Lan gởi về Hoa Thịnh Đốn nói tới hy vọng đang dâng cao ở Hà Nội. Trích dẫn lời đại sứ Bỉ ở Hà Nội, ông ta báo cáo rằng Việt Nam hy vọng nhận được viện trợ Mỹ sau khi bình thường hóa quan hệ “và mong muốn một phái bộ ngoại giao Mỹ hiện diện tại Hà Nội vào cuối năm 1977”. Trong một báo cáo khác, đại sứ Mỹ dẫn ra một nguồn tin cho rằng thủ tướng Phạm văn Đồng “hết sức nồng nhiệt” về viễn tượng quan hệ Mỹ-Việt.

Tuy nhiên, sau hai ngày hội đàm (ngày 3 và 4 tháng Năm) phái đoàn Cọng Sản Việt Nam ở Paris đã làm lu mờ hy vọng đó. Phan Hiền đưa ra lá thư của tổng thống Nixon viết hồi 1973 gởi cho Phạm Văn Đồng, trong đó tổng thống Mỹ hứa viện trợ 3tỷ 250 triệu tái thiết cọng thêm 1tỷ rưởi viện trợ hàng hóa. Chính phủ Carter trả lời không thể đáp ứng khoản cam kết đó. “Chỉ thị của tôi là đề nghị với VN hai bên công nhận nhau mà không có điều kiện tiên quyết nào, và bày tỏ ước muốn của chúng ta là thấy Việt Nam dự phần vào sự ổn định và hòa bình ở Đông Nam Á.” Sau này, Holbrooke nói với tôi ông ta bày tỏ cảm tình với Phan Hiền về tình trạng Việt Nam bị tàn phá vì chiến tranh nhưng Holbrook từ chối thực hiện bất cứ lời cam kết viện trợ nào cho Việt Nam. Ông ta nói viện trợ chỉ có thể có sau khi lập quan hệ bình thường, không phải là trước khi thực hiện được điều đó. Ông ta bảo đảm Hoa Kỳ sẽ không phủ quyết khi Việt Nam xin gia nhập Liên Hợp Quốc. Điều nầy không làm cho nhà thương thuyết VN phải hồi hộp vì Hà Nội đã được chấp thuận trước rồi.

Ken Quinn, hồi ấy là phụ tá đặc biệt cho Holbrooke, nhắc lại trong cuộc hòa đàm, có lần Holbrooke chồm qua bàn và nói: “Ông bộ trưởng, gạt ra ngoài vấn đề làm chia rẽ chúng ta. Chúng ta hãy ra ngoài và tuyên bố với báo chí chúng ta quyết định lập lại quan hệ ngoại giao”. Hiền nói không. Hoa Kỳ phải đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh. Quinn thấy Việt Nam gặp trở ngại khi đòi viện trợ mà điều ấy nằm ngoài cảm nhận về một sự chiến thắng đạo đức. Chiến thắng của họ năm 1975 biện minh cho việc điều chỉnh đường lối đảng trong 40 năm qua và những quốc gia khác như Nhật Bản, Pháp chấp thuận việc bồi thường tái thiết. Quinn nói: “Trong cuộc đấu tranh của người Việt Nam, đó là điều chính đáng. Điều này sẽ không được hoàn toàn công nhận nếu Hoa Kỳ trở lại mà không có bồi thường tái thiết nào cho Việt Nam cả.”

Những chuyển hướng gay gắt làm xấu đi vòng đàm phán đầu tiên chấm dứt ở Paris. Phía Việt Nam đòi hỏi điều tổng thống Nixon bí mật cam kết viện trợ và những đề nghị mới yêu cầu Mỹ viện trợ gián tiếp làm cho quốc hội Mỹ bực mình và làm sống lại cảm tưởng rằng Vance và Holbrooke không định liệu trước. Dù tổng thống Carter có tham khảo với Quốc hội trước khi gởi Holbrooke đi Paris, vẫn còn có sự chống đối của nhóm bảo thủ đối với bất cứ hành động nào nhằm tiến tới bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Hạ viện đang giữa chừng tranh luận đạo luật về chính sách viện trợ cho nước ngoài thì nhận được báo cáo nói rằng Phan Hiền, trong buổi họp báo ngày 4 tháng Năm ở Paris, buộc Mỹ phải viện trợ cho Việt Nam - báo cáo gởi qua máy viễn tự tại Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện. Dân biểu William Askbrook cầm bản báo cáo hoa lên để kêu gọi quốc hội chận đứng bàn tay của bộ Ngoại giao. Tu chính của ông nhằm ngăn cấm chính quyền Mỹ không được “thương thảo về vấn đề tái thiết hoặc bất cứ một hình thức trả tiền nào khác” cho Việt Nam, được quốc hội thông qua cùng một ngày bằng 266 phiếu chống 131. Thất bại trước phương cách chống Việt Nam của Quốc hội, Vance tuyên bố “Chúng tôi nói rõ cho Việt Nam hay rằng chúng tôi không trả bất cứ khoản tái thiết nào.”

Ngày 6 tháng 2, khi Hiền tới tòa đại sứ Mỹ trên đại lộ Gabriel ở Paris để thương thảo vòng 2 với Holbrooke thì tình hình đã thay đổi đáng kể. Thật ra, đây là lần thứ nhất một viên chức Hà Nội vào một tòa đại sứ Mỹ không mang theo một cảm giác đặc biệt nào về thành tích của người Việt Nam. Điều thấy rõ là Hà Nội cần nhượng bộ nhiều hơn nữa để có thể có được viện trợ to lớn của Mỹ. Ngày 19 tháng Năm, Hà Nội công bố bức thư bí mật của Nixon. “Chính phủ Hoa Kỳ sẽ dóng góp việc tái xây dựng thời hậu chiến ở Bắc Việt Nam mà không cần điều kiện chính trị nào.” Đó là điều Nixon đã viết cho Phạm Văn Đồng ngày 1 tháng Hai năm 1973. Ông ta nói rõ rằng sự đóng góp của Mỹ “là vào khoảng 3tỷ 250 triệu trong thời gian 5 năm.” Hà Nội coi điều này là “lá bài ăn” để giành được viện trợ Mỹ. Tuy nhiên, những người trước kia tiến vào Ngũ giác đài để kêu gọi hòa bình thì bây giờ họ không ở đó để đòi hỏi phải giúp đỡ Việt Nam. Điều quan trọng hơn hết, việc Bắc Việt xua quân chiếm miền Nam, tiếp theo là những đợt sóng người tỵ nạn chạy trốn khỏi đất nước họ, và những bản báo cáo về việc tống giam 10 ngàn người chống đối chính trị đã làm cho những nhà lập pháp Mỹ chống Việt Nam. Một lời hứa bí mật của một tổng thống bị bất tín nhiệm trước khi Saigon thất thủ chẳng có giá trị gì.

Trong khi Holbrooke ngồi đối diện qua bàn hội nghị với Phan Hiền, một bức màn vô hình mới đã buông xuống và một cảm giác chẳng tốt đẹp gì đã nằm sẵn trước mặt hai người. Frank Sieverts, một viên chức của bộ Ngoại giao chịu trách nhiệm vấn đề người Mỹ mất tích, tham gia các cuộc hội đàm hồi tháng Năm và tháng Sáu, ngạc nhiên khi thấy Holbrooke tùy thuộc vào đa số hơn là chuyên tâm lưu ý đến cuộc thảo luận với Việt Nam. “Tôi ngạc nhiên nếu như Dick hành động theo mệnh lệnh khác, chỉ sau nầy tôi mới biết tại sao.” Ngay trước khi rời Hoa Thịnh Đốn đi Paris, FBI cho Holbrooke biết có một điệp viên nằm trong chính quyền Mỹ, - có thể trong bộ Ngoại giao - đã báo cáo cho Việt Nam. Ken Quinn kể lại: “Tôi không rõ bao nhiêu người Việt Nam biết việc đó, nhưng chúng tôi có cảm giác lạ rằng những người thương nghị với chúng tôi ngồi phía bên kia bàn đã biết chúng tôi nhận những chỉ thị gì.” Tuy nhiên, tôi thấy có điều gì khác làm cho Holbrooke lưu tâm và bí mật hơn. Việc gián điệp không cản trở ông ta đi tới bởi vì phía Mỹ kết luận rằng “nếu Việt Nam biết được nội dung ngắn gọn trong hồ sơ, chúng tôi cũng chẳng thể cho họ gì nhiều hơn điều Dick đã nói với họ trước kia.”

Và những gì Holbrooke đề nghị - một lời hứa mơ hồ về viện trợ gián tiếp sau khi có quan hệ bình thường - không phải là điều Hiền muốn nghe. Việt Nam cung cấp thêm tin tức hai mươi người Mỹ mất tích, mong nhận được đáp ứng từ phía Mỹ. Hiền nói với Holbrooke: “Làm sao tôi có thể trở về Hà Nội với hai bàn tay không? Cơ quan tìm kiếm người Mỹ mất tích mới đưa cho tôi danh sách hai chục người sẽ hỏi tôi đem về được gì?” Ông ta bác bỏ lời biện bạch của Holbrooke là những nhà lập pháp đã trói tay chính phủ ông. Hiền hỏi: “Ông sẽ làm gì nếu như tôi nói rằng Quốc hội Việt Nam đã thông qua một đạo luật cấm việc tìm kiếm người Mỹ mất tích. Việt Nam sẵn sàng uyển chuyển về số lượng và phương cách viện trợ.” Hiền nói với Holbrooke: “Đối với chúng tôi một đôla là một đôla. Chúng tôi không cần biết tiền đó từ đâu tới.” Holbrooke nói: “Chúng tôi sẽ giúp đỡ nước ông qua các tổ chức quốc tế khác nhau.” Tại hậu trường của cuộc tranh cải ở hội nghị Paris, Hiền nói với tôi với vẽ thất vọng và cay đắng, dù bề ngoài ông ta có vẽ trầm tư và cười mĩm: “Nhưng khi tôi hỏi ông ta số tiền viện trợ là bao nhiêu thì ông làm thinh.” Hiền nói Holbrooke trấn an ông ta rằng tòa Bạch Ốc và Quốc Hội là hai thực thể khác nhau và tòa Bạch Ốc sẽ không quyết định được điều gì khi Quốc hội đã biểu quyết. Hiền nói, điều đó đúng nhưng “Bộ Ngoại giao không đủ can đảm để báo cáo với quốc hội hay với công chúng những gì họ suy nghĩ về việc giúp đỡ Việt Nam.”

Sự thất bại ở vòng hội đàm lần thứ hai về bình thường hóa quan hệ ngoại giao và những xúc cảm trong số những người bảo thủ, có nghĩa là chấm dứt đường lối ngoại giao đầu tiên của chính phủ Carter. Như Woodcock nói với tôi sau này, đơn giản là chính phủ đã không tạo ra được những cảm nghĩ sâu sắc trong số các nhà lãnh đạo quốc hội, ngay cả những người có khuynh hướng phóng khoáng chống lại viện trợ cho Việt Nam. Tháng Sáu, Hạ Nghị Viện chấp thuận tối đa một đạo luật viện trợ cho ngoại quốc do dân biểu thuộc đảng Dân chủ Lester Wolf đệ trình, có nhắc lại, trên hình thức, lời hứa của Nixon về 3tỷ 250 triệu cho Việt Nam. Ngay từ đầu, Carter đã viết một bức thư cho chủ tịch Hạ Viện thúc hối ông ta đừng chấp thuận bất cứ một tu chính án nào có thể hạn chế khả năng của Ngân Hàng Thế Giới cho Hà Nội vay tiền. Nhưng bằng đa số phiếu, Quốc hội đã khước từ lời yêu cầu của tổng thống và thông qua đạo luật ngăn các tài khoản Mỹ “trực tiếp hay gián tiếp” chuyển cho Việt Nam (cũng như Lào, Kampuchia và Uganda)

Mặc dù Holbrooke và Vance vẫn còn chú tâm đến việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, họ cũng không có đủ tin tưởng để đến điện Capitol yêu cầu quốc hội viện trợ, ngay cả viện trợ nhân đạo. Hơn nữa, hồi tháng Tám, Carter ký một thỏa ước về kinh đào Panama. Ông ta không có ý định chống lại những người ủng hộ thỏa hiệp này trong quốc hội bằng cách thúc đẩy vấn đề Việt Nam là vấn đề không được lòng dân chúng.

Vào lúc Holbrooke gặp Phan Hiền một lần nữa vào ngày 19 tháng 12/ 1977, một điệp viên Việt Nam tạo nên một bầu không khí u ám cho vấn đề bình thường hóa quan hệ. Một nhân viên FBI hoạt động quan hệ với Ken Quinn hồi mùa hè, phát hiện một viên chức Mỹ bí mật đưa tin cho Việt Nam, và theo dõi người này. Tháng Sáu, lần đầu tiên ông ta chuyển cho Holbrooke một bản photocopy bản tin bị ăn cắp từ bộ Ngoại giao. Quinn nhún vai cho rằng người làm việc này có thể là một người nào đó có liên hệ gia đình hay tình cảm ở Việt Nam và đang bị Hà Nội tống thư nặc danh. Ông ta nghĩ tới Ronald Humphrey, một nhân viên được chỉ định làm việc tại trung tâm điều khiển thông tin bộ ngoại giao (USIA). Hồi tháng Ba, người này có đến gặp ông ta để xin giúp đỡ đưa một người bạn gái ra khỏi Việt Nam. Lúc ấy Quinn đang chuẩn bị đi Hà Nội với Woodcock. Không như Woodcock đưa vấn đề người vợ chưa cưới của đại tá Paul Marther thẳng cho Việt Nam để xin giúp đỡ, ông nầy lại đến tòa đại sứ Thụy Điển để nộp đơn xin di trú cho người bạn gái của Humphrey. FBI điều tra Humphrey, tìm ra sự thật. Trong khi Humphrey đang còn bị FBI theo dõi, thỉnh thoảng, ông ta có đến thăm Quinn để nói chuyện về người bạn gái của ông và hỏi thăm về việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Quinn kể lại: “Tôi rất khó nói với anh ta vì chẳng có gì hay ho xảy ra cả.” Humphrey không nghi ngờ gì, tiếp tục chuyển những bức điện - có giá trị thấp của bộ Ngoại giao khi những điện văn nầy được đưa qua Trung tâm Điều hành USIA - cho David Trương (Trương Đình Hùng - nd). David Trương là thành phần phản chiến, và là con trai của luật sư Trương Đình Du, người ra ứng cử tổng thống Nam VN và bị tù. David Trương chuyển những tin tức này cho phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp Quốc và tòa đại sứ Việt Nam ở Paris.


Каталог: upload
upload -> -
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 1.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   35




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương