Nayan Chanda hoànglonghải



tải về 1.97 Mb.
trang22/35
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.97 Mb.
#13140
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   ...   35

Toàn bộ tiến trình đón người trở về bằng tàu cho thấy việc đó gây khó khăn cho Bắc Kinh và vận may tuyên truyền cho Hà Nội. Hà Nội nhắm hướng tuyên truyền vào các nước Đông Nam Á, nói rằng “Sự tráo trở của Trung Hoa đối với Việt Nam khiến chính phủ các nước vùng Đông Nam Á có lý do để lo lắng. Nếu họ không đề cao cảnh giác, thì họ sẽ mất hết an toàn vốn liếng tài sản. Quả thật Trung Hoa có quan tâm đến điều đó.” (26) Đại sứ các nước trong Hiệp Hội Đông Nam Á đều được thông báo đặc biệt, trấn an rằng phản ứng của Trung Hoa đối với sự đối xử của Việt Nam với Hoa kiều là “trường hợp đặc biệt” vì hành động của Hà Nội là một phần trong âm mưu của Liên Xô.

Phản ứng sai lạc của Trung Hoa gây cho kiều dân Trung Hoa tại Việt Nam gặp nhiều nguy cơ hơn. Những lời tuyên bố nẩy lửa của họ như “Đồng bào chúng ta ở Việt Nam hy vọng ngày nầy để được đón về quê mẹ”. (27) đã tạo ra nhiều hy vọng hão huyền, thúc đẩy hàng ngàn Hoa kiều ở phía Bắc chạy lên biên giới Hoa-Việt và hàng trăm ngàn người ở Chợ Lớn công khai xin về nước. Trong tháng Sáu, văn phòng cho ghi danh người muốn trở về Trung Hoa mở tại thành phố Hồ Chí Minh tưởng như tràn ngập với ba chục ngàn đơn trong vòng một tuần lễ.

Hầu hết những Hoa kiều muốn trở về Trung Hoa cũng tìm cách di cư tới một nước khác. Nhưng trong con mắt Việt Nam, họ là người đứng về phía kẻ thù. Tỏ ý muốn trở về với Trung Hoa Cọng sản, nơi tình trạng buôn bán tư nhân không tốt gì hơn ở Việt Nam, làm gia tăng sự quấy rối ở Việt Nam như một đạo quân thứ năm. Thay vì buộc các thương nhân Chợ Lớn làm nông nghiệp ở các vùng Kinh Tế Mới, như họ đã ép buộc các nhóm chủng tộc khác không có công ăn việc làm, chính quyền quyết định loại trừ tất cả người nầy và đó cũng là điều lợi cho họ. Sự kiện nầy là bước khởi đầu của một trong những cuộc di dân vĩ đại và bi thảm nhất thời hậu chiến. Sau khi hai chiếc tàu thủy quay mũi về Trung Hoa và biên giới Hoa Việt đóng lại, Hà Nội đưa ra một chính sách di dân bóc lột trắng trợn. Một thương gia Chợ Lớn giải thích: “Vì chúng tôi từ chối đi về quê sản xuất, chẳng bao lâu chúng tôi cũng phải trốn đi, chính quyền quyết định gom vàng của chúng tôi lại rồi cho chúng tôi đi.” (29)

Mùa hè năm 1978, Công An Việt Nam thành lập một số văn phòng tại các thành phố gần bờ biển ở miền Nam để đóng tàu và cho người Hoa (hay Việt Nam giả dạng người Hoa) rời Việt Nam sau khi họ đóng một phí khoản nặng bằng vàng và đôla. (30) Các nhà ngoại giao Tây phương ở Hà Nội gán cho sự việc này cái tên là “Công Ty Du Lịch cái bô sét” (Rust Bucket Tours Inc.), có trách nhiệm làm cho gần một phần tư triệu người, trong vòng hai năm, chạy trốn khỏi Việt Nam. Khoảng ba đến bốn chục ngàn trong số thuyền nhân nầy đả bỏ mạng ngoài biển (41)

Phương Đông Đỏ

Trong khi thế giới chú ý vào việc hai con rồng, một lớn một nhỏ ở châu Á gầm gừ nhau, Kampuchia đang ở trong thời kỳ cực điểm của bạo lực, có thể thúc đẩy Việt Nam can thiệp vào nước nầy sớm hơn. Ngay cả một nhóm quan sát viên Kampuchia ở phương Tây, những người có nhiệm vụ điều hành chương trình phát thanh của đài Phnom Pênh và phỏng vấn những người tỵ nạn vừa mới trốn khỏi Kampuchia, cho biết những điều chính yếu đang xảy ra trong nội địa nước Cọng hòa dấu kín nầy, cũng không thể ngờ rằng các hành động bạo lực ghê gớm đã xảy ra ở trên các đồng lúa và trong các đồn điền cao su ở phía Đông Kampuchia. Hôm 24 tháng Năm, một ngày sau khi Brzezinsky rời Bắc Kinh sau chuyến đi thành công tốt đẹp, Trung Hoa công khai đá giò lái Việt Nam. Cùng một ngày thứ Tư đó, trùng hợp một cách mai mỉa, một cuộc tấn công loại khác vào một thành phố nhỏ ở Kampuchia, tên gọi là Suong, xa Bắc Kinh hai ngàn dặm. Pol Pot gởi các sư đoàn trung ương tới để bao vây bộ chỉ huy đảng Khu Đông, bắt giữ những tên lãnh đạo đảng “phản bội” nghi ngờ có quan hệ với Việt Nam. Một số ít bị bắt, bị tra khảo, và làm bản tự thú, rồi sau đó bị hành quyết. So Phim, bí thư Khu Đông, một thời là cánh tay mặt của Pol Pot, tự tử. Một số khác nổi dậy chống quân Pol Pot, rồi chạy trốn qua Việt Nam, làm cho số lượng kháng chiến chống Pol Pot gia tăng. Cuộc giết chóc cán bộ và binh lính Khu Đông một cách tàn bạo đã dập tắt hy vọng cuối cùng nhằm lật đổ Pol Pot. Hỏa lực Việt Nam bây giờ là bắn phá dọc vùng biên giới.

Ngày 25 tháng Sáu, thế giới ngạc nhiên vì lời tố cáo của Phnom Pênh, khi họ cho biết đã đập tan một âm mưu phản loạn do Việt Nam và CIA (Central Intelligence Agancy - Cơ quan Tình báo Trung ương của Mỹ) xúi dục. Một ít người tin lời tố cáo hành động hợp đồng ám muội đó, cùng lúc với việc Việt Nam tuyên truyền các cuộc lật đổ ở Kampuchia, củng cố thêm niềm tin hình như có gì quan trọng đang xảy ra trong nội bộ Kampuchia. Phải đến hai năm sau, sau khi hành động giết người được trình bày chi tiết, và cuộc khởi loạn ở phía Đông nổi lên, toàn bộ câu chuyện mới được rõ. Cuộc lật đổ bị phá vở và việc đàn áp ở khu vực nầy nằm trong chuỗi biến động ở Đông Dương, chỉ là câu chuyện làm cho người ta chú ý thêm mà thôi.

Trong nhiều ý nghĩa, các cuộc thanh trừng ở phía Đông đạt tới mức đổ máu tối đa để bảo vệ quyền lực của Pol Pot đối với tất cả các khu trong nước. Nước Kampuchia Dân chủ phân chia thành 7 khu dựa trên địa lý. Khu Bắc, khu Đông Bắc, khu Đông, khu Tây Nam, khu Tây, khu Tây Bắc và khu Trung ương, duy trì gần y như tình trạng trong thời kỳ hoạt động bí mật và cũng giống như trong thời kỳ kháng chiến (1970-75). Việc thiếu phương tiện liên lạc và vì tình hình an ninh, đưa tới tình trạng tự trị giữa các đơn vị đảng trong những vùng khác nhau. Trong vòng bốn năm kể từ khi nắm quyền, lãnh đạo trung ương của Pol Pot phải tìm cách áp đặt quyền hạn trực tiếp và kiểm soát chặt chẽ các khu. Với sự hỗ trợ của các lực lượng Trung ương và Tây Nam, Pol Pot mở ra các cuộc thanh trừng trong các năm 1976-77 để loại trừ cấp lãnh đạo khu Bắc và Tây Bắc. Quan điểm chính yếu khác nhau của họ là tiến trình thực hiện biện pháp cách mạng khắc nghiệt. Đối với những người thắc mắc về phương pháp cực đoan của Pol Pot nhằm tiến nhanh lên chủ nghĩa cọng sản và sự đối xử bất nhân với dân thành phố bị đuổi về nông thôn, chính sách phiêu lưu của ông ta với Việt Nam, những người nầy bị đánh giá là phản bội và xử tử. Mỉa mai thay, phần nhiều các nạn nhân bị thanh trừng lại tin rằng Việt Nam đe dọa Kampuchia, trừ phi sự sai lầm được sửa chữa, không thì cách mạng Kampuchia sẽ thất bại hoàn toàn và quốc gia sẽ không còn đủ sức chống lại Việt Nam -một sự chẩn đoán chính xác mà những biến cố sau nầy đã chứng minh. Bởi vì Pol Pot và nhóm nhỏ trung thành với ông ta tố cáo những người bất đồng ý kiến là phản bội là biện pháp tiện lợi nhất để tránh “ tranh cải về đường lối của đảng, qua đó, không những Pol Pot bị đánh bại mà còn có thể tháo gỡ đưọc mọi sự rắc rối trong nôị bộ đảng.” Stephen Heder chỉ rõ cho thấy như vậy. (32)

Trong các khu vực, khu Đông là mối đe dọa nghiêm trọng hơn hết đối với quyền lãnh đạo của Pol Pot. Từ khi có phong trào Issarak chống Pháp vào thập niên 1940, khu vực nầy thuận tiện cho việc hợp tác với Cọng sản Việt Nam. Sự tiếp cận địa lý với Việt Nam và sự có mặt của công nhân Việt Nam trong các đồn điền cao su làm cho việc tiếp xúc dễ dàng. Trong thời kỳ đầu chống Lon Nol, đây là khu vực Việt Nam giúp để huấn luyện và tổ chức quân kháng chiến Kampuchia. Việc hợp tác lâu dài với Việt Nam đã để lại những ấn tượng sâu sắc trên hình thái chính trị của đảng cọng sản Kampuchia trong khu vực nầy. Trong khi nhóm do Pol Pot lãnh đạo thì chịu ảnh hưởng Mao rất lớn về khái niệm bình đẳng và đấu tranh giai cấp không ngừng. Các nhà lãnh đạo khu Đông thì không tiến bộ bằng, họ theo đường hướng Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường hướng nầy chủ yếu nhắm tới việc xử dụng các nguồn dự trữ có sẵn - giai cấp tư sản và các phương tiện khác- để gia tăng sản xuất, loại bỏ sự khác biệt về giai cấp là mục tiêu thứ hai. (33)

Người ta không biết khi nào thì những dị biệt nầy được thảo luận công khai hoặc khi nào thì các nhà lãnh đạo khu Đông thách thức quyền lực chính trị của Pol Pot. Hình như các nhà lãnh đạo khu Đông không nhiệt tình trong việc áp dụng một vài chính sách cực tả và khắc nghiệt do Trung ương chỉ đạo. Trong suốt ba năm đầu Khmer Đỏ cai trị, khu nầy có nhiều lương thực, và trong vài trường hợp được chiếu cố, đời sống của “người dân mới” -dân thành phố bị xua đuổi- đỡ khắc nghiệt hơn các nơi khác ở trong nước. (34)

Tuy nhiên, điều nầy không có nghĩa là khu Đông không có sự giết chóc. Hơn sáu chục ngàn người Chàm thiểu số -hầu hết ở trong khu vực tỉnh Kompong Cham - bị giết chết vì theo đạo Hồi. Một trong những cách giết chóc người dân thường Việt Nam tàn ác nhất là do các đơn vị khu Đông xâm nhập vào Việt Nam -Dĩ nhiên có sự chỉ đạo của Trung ương. Dù sao, sự thực vẫn cho thấy hoặc là vì hậu quả bất bình của đảng viên, hoặc vì sự quấy nhiễu của Pol Pot đối với khu Đông, khu vực nầy của Kampuchia là nơi sản sinh ra nhiều cán bộ nhứt, họ là những người đứng lên chống Pol Pot hoặc bị Trung ương dẹp tan trước khi họ làm được gì. (35)

Thân mình Kampuchia, trí óc Việt Nam

Tình hình khu Đông liên quan phức tạp đến số phận của So Phim. Ông nầy là một nông dân mập lùn, mặt tròn, lãnh đạo phong trào Cọng sản ở Kampuchia hơn một phần tư thế kỷ. Năm 1954, ông là một trong hàng ngàn người Cọng sản Khmer tập kết ở Hà Nội. Trong vòng hai năm, ông ta bí mật trở lại Kampuchia để tổ chức đảng. Năm 1963, ông là thành viên gốc nông dân độc nhất trong ủy ban năm người của đảng (tương đương với bộ chính trị) do Pol Pot, một trí thức chống Việt Nam lãnh đạo. Trong những năm du kích chống Lon Nol, ông ta vươn lên thành phó tư lệnh lực lượng Khmer Đỏ. Trong suốt hai thập niên 1960-70, ông ta vẫn duy trì mối quan hệ gần gủi với Việt Nam Cọng sản, dù có lúc đụng chạm. Ảnh hưởng của ông ở khu Đông lớn đến nỗi sau năm 1975, ông là người độc nhất trong bộ chính trị vẫn còn nắm giữ khu vực nầy. Ông ta được tin tưởng vì đã tạo ra sự thịnh vượng cho khu Đông, nhưng các học giả Kampuchia đã phân tích vai trò của ông trong quá trình sụp độ cuối cùng ở đây.

Chúng ta thấy sự thất bại của quân đội khu Đông, không ngăn chận nổi sức tiến công của quân đội Việt Nam hồi tháng Chạp năm 1977, đưa tới những cuộc thanh trừng mới. Trong sự hỗn loạn sau khi quân đội Việt Nam rút lui, các đơn vị địa phương thất tán trước khi Việt Nam tấn công, về sau lại liên hệ đến cuộc đấu đá với quân đội trung ương mới gởi tới, tạo ra nhiều mối nghi ngờ phức tạp. Từng người một, các cán bộ quân sự cấp giữa của lực lượng khu Đông cũng như các đơn vị trung ương được gọi về Phnom Pênh để “họp”. Họ đi không bao giờ về. Tài liệu ở nhà tù Toul Sleng cho biết kể từ 19 tháng Tư/1978 số cán bộ quân sự khu Đông bị giam ở đây là 409 người, gấp mười lần số cán bộ Tây Bắc cùng chung số phận. Con số lớn thứ hai là không có từ khu nào cả. Toàn bộ 28 người chuyển đến ngày hôm sau cũng là từ khu Đông. Cấp chỉ huy của hai sư đoàn trung ương đóng tại phía Đông cũng bị bắt hồi tháng Tư. Một trong số họ là anh (em) của Heng Samrin, Heng That, tư lệnh sư đoàn 290.

Ngày 10 tháng Năm đài phát thanh Phnom Pênh đặc biệt kêu gọi tiêu diệt dân Việt Nam và “thanh lọc” hàng ngũ chính họ. “Tính theo số lượng, một người của chúng ta giết ba chục người Việt..... có nghĩa là chúng ta mất một, họ mất ba chục. Chúng ta không cần tới 8 triệu dân (dân số phỏng chừng Kampuchia thời kỳ đó). Chúng ta chỉ cần hai triệu binh lính để đè bẹp năm chục triệu dân Việt Nam. Chúng ta cũng còn lại 6 triệu dân.” Thực hiện tham vọng như vậy, họ hoàn toàn trong cậy vào quân đội, đảng và nhân dân. Bài phát thanh chấm dứt với lời kêu gọi: “Chúng ta phải thanh lọc hàng ngũ quân sự, đảng và số đông dân chúng để tiếp tục chống lại kẻ thù, bảo vệ lãnh thổ và dân tộc Kampuchia.” (37)

Vì là một chỉ huy cao cấp của đảng, có phải Phim ủng hộ chính sách tàn bạo và các cuộc thanh trừng nầy? Ben Kiernan, một học giả người Úc nói được tiếng Miên, ông nầy trãi qua một thời gian dài nghiên cứu lịch sử Kampuchia hiện đại, tin rằng lúc đó So Phim đang bị bệnh, và không biết việc bắt giữ. Khi ông ta hay tin các cấp chỉ huy của hai sư đoàn trung ương 280 và 290 đóng tại khu Đông bị bắt bèn nổi giận. Ông ta “yêu cầu mọi người quan sát bên ngoài và cẩn thận.” Theo Kiernan, So Phim đau đớn vì ông ta là một đảng viên, và ông ta tin rằng những việc bắt giữ, giết người nầy không phản ảnh tính chất cách mạng. Khi những cuộc thanh trừng mở ra, ông trở nên trì độn và không còn quyền lực để chống lại được. Tuy nhiên, Stephen Heder, tin rằng đó là hậu quả do việc Việt Nam tấn công hồi tháng 12. So Phim chống lại việc thanh trừng cán bộ của Pol Pot. Ở Kampuchia Dân chủ, chỉ có một con đường để lãnh đạo tồn tại là bằng cách đổ lỗi sự thất bại của họ cho những người thân cận, gọi họ là phản bội. Heder nói: “So Phim làm đúng như thế. Tuy nhiên ông ta không biết rằng chính ông ta bị nghi ngờ vì đã làm cho khu Đông phát đạt và phát triễn lực lượng địa phương.” (38)

Dù Phim là người hảo tâm nhưng lại là một lãnh tụ ngây thơ hoặc là kẻ tòng phạm giết người của Pol Pot, mà thời gian thì không còn. Những cố gắng chậm trễ của ông ta để thoát khỏi cái thòng lòng xiết cổ ông chỉ là đánh dấu sự bắt đầu một cuộc nội chiến đạt tới cao điểm khi Việt Nam can thiệp hoàn hoàn vào nội tình Kampuchia.

Cuối tháng Năm 1978, Ke Pauk, chỉ huy trưỏng khu Trung ương được Pol Pot phái tới khu Đông để tổ chức cuộc thanh trừng. Ông nầy gởi một “thư mời” Phim đến họp. Phim hiểu rất rõ ý nghĩa của bức thư mời đó là gì. Ông ta gởi ba tay thân cận của ông, trong đó gồm cả một bí thư cao cấp của đảng đi điều tra xem mục đích cuộc họp đó là gì. Ba người nầy không bao giờ trở về.

Ngày 24 tháng Năm, một lữ đoàn thiết giáp từ Phnom Pênh tới tăng cường quân đội Trung ương, bao vây bộ chỉ huy khu Đông ở thành phố Suong, cách biên giới Việt Nam hai chục dặm. Một số viên chức đảng bị bắt và bị đưa đi hành quyết. Nhưng Phim vẫn còn lên xe Jeep cùng vợ, con, và cận vệ thoát ra khỏi vòng vây, hy vọng tới Phnom Pênh. Theo Kiernan, Phim nói với cộng sự viên của ông ta rằng Pauk và bộ trưởng Quốc phòng Son Sen là những tên phản bội, ông ta sẽ yêu cầu lãnh đạo bắt giữ bọn chúng. Theo Heder thì Phim còn nghĩ đơn giản rằng quân đội Trung ương làm việc vượt quá quyền hạn mà thôi. Do đó, ông ta ra lệnh cho quân khu Đông chống lại quân Trung ương cho đến khi ông ta có thể yêu cầu Pol Pot ngăn cản quân của Pauk và Son Sen lại. Dần dần, ông ta hiểu rằng dưới con mắt của Pol Pot, ông ta đã trở thành tên phản bội hàng đầu ở khu Đông. Từ tháng Năm 1978, Pol Pot được báo cáo rằng So Phim là tên hoạt động bí mật cho “Đảng Lao Động Kampuchia” do Việt Nam và CIA dựng nên để cầm quyền ở Kampuchia. (39)

Ông ta ngừng xe lại bên bờ sông Mekông để chờ tin tức Pol Pot. (Ông ta đã gởi người tới gặp Pol Pot trước khi ông ta vào thủ đô). Ngày 2 tháng Sáu, hai chiếc phà chở đầy lính đến “đón chào” Phim. Phim vẫn còn tự tin nên không biết cách hộ tống đó có nghĩa là thế nào. Cuối cùng, khi biết ra thì ông ta bèn rút súng và tự bắn vào ngực.

Cuộc thanh trừng ngày 24 tháng Năm bắt đầu một chương đẫm máu nhất trong lịch sử đẫm máu của nước Kampuchia Dân chủ. Rồi từ đó về sau, những cuộc thanh trừng cán bộ chính trị được tổ chức một cách bí mật. Các nạn nhân được gọi đi dự các buổi “tư vấn thường lệ”, “các khóa học tập”, “hội nghị bất thường” hay “một nhiệm vụ” mới ngoài phạm vi làng rồi cuối được chuyển giao cho Công An Quốc Gia. Trong khoảng thời gian bốn năm, hai mươi ngàn người “được mời” như thế, bị tra khảo để thú nhận tội lỗi rồi bị giết tại nhà tù Toul Sleng. Những việc nầy làm cho người ta thấy rằng công việc của đảng đang cai trị và sự cô lập hoàn toàn giữa khu nầy với khu khác, những biện pháp làm cho người ta thấy ngấm ngầm sợ hãi và lòng họ không ổn định nhưng chưa phải kinh hoàng. Kiểm soát đảng bộ khu tại Suong bằng các đơn vị thiết giáp, trong trí Pol Pot không có gì nghi ngờ là các cán bộ còn sống chẳng có ích lợi gì cho đảng. Ngày hôm sau, cán bộ cấp tiểu đoàn và trung đoàn của sư đoàn 4 và 5 được gọi về họp. Khi tới nơi, họ bị tước võ khí và bị trói lại. Họ được đưa lên xe tải và đưa ra ngoài ruộng, bị bắn bằng súng máy. Chỉ có một người, thoát chết một cách lạ lùng, sau đó trốn qua Việt Nam và kể lại câu chuyện nầy. (41)

Tư lệnh Sư Đoàn 4 Heng Samring, thấy anh (em) ông ta biến mất, nên không chờ tới phiên mình. Khoảng với một ngàn binh lính trung thành với ông, họ trốn vào rừng. Một cán bộ trung cấp, Tea Sabun, hướng dẫn một toán dân quân địa phương, xâm nhập kho võ khí khu Đông để lấy súng và vũ khí chống chiến xa. Họ giao chiến với quân đội Trung ương gần ba tuần lễ trước khi kéo vào rừng. Tư lệnh các khu khác như Chea Sim, Mat Ly, Men Chhan, Ouch Bun Choeun, và Sim Kar cũng trốn vào rừng với khoảng ba ngàn tay súng và ba chục ngàn dân thường. Sau tháng Năm, trong gần hai tháng, ba thành phố ở khu Đông gồm Kompong Cham, Svay Riêng và Prey Veng trở thành chiến trường của những trận đánh và rút, tấn công vào quân đội khu Trung ương. Khi các cán bộ Khmer Đỏ chạy trốn, nhiều dân làng tới phá tan các “nhà bếp cộng đồng” rồi chia nhau trâu bò, súc vật và tài sản chung.

Đối đầu với những vũ khí và xe thiết giáp do Trung Hoa chế tạo, do quân Trung ương xử dụng, tới tháng Sáu thì có thêm đội quân hung hãn Nirdey do Ta Mok chỉ huy, cuộc kháng chiến tự phát của các toán quân được tổ chức một cách vội vàng, không kéo dài được lâu.

Trong tháng Bảy, sau cuộc chiến đấu sống chết, việc giết chóc trả thù bắt đầu. Cuộc tàn sát không giống như bất cứ lần nào trước mà khu Đông đã thấy. Dưới con mắt của Pol Pot và các đồng chí của ông, người dân khu Đông cho thấy bản sắc của họ. Họ là những kẻ “thân hình thì Khmer mà đầu óc thì Việt Nam.” Và phải đè bẹp hết. (42)

Không chỉ những người phản loạn và gia đình họ bị giết, toàn thể dân làng nào mà những người khởi loạn tới ẩn náu, cũng bị giết tuốt. Họ bị chở lên xe tải, đem ra ngoài ruộng, rồi giết chết bằng cuốc, dao. Hai năm sau, tôi đến thăm một trong những khu đất giết người ở Kompong Cham, nơi được tính vào khoảng năm chục ngàn người bị giết. Dưới những gốc xoài, sọ và xương người, già trẻ bày ra một cách hết sức kinh hãi.

Số người ở Khu Đông bị giết trong cuộc nổi loạn hồi tháng Năm tính vào khoảng trên một trăm ngàn. Nhằm dọn sạch hết những gì có thể nghi ngờ, một phần ba dân số được chuyển từ phía đông qua khu có sốt rét rừng ở phía tây Kampuchia. Nơi nầy, một nửa trong số họ lại chết vì đói hay bệnh tật, nếu họ không bị hành quyết.

Khi cuộc đàn áp tàn bạo đang diễn ra, dân chúng khu Đông và những người lãnh đạo cuộc nổi loạn trốn trong rừng, dưới những cơn mưa mùa nước đổ như xối. Thiếu lương thực, quần áo, thuốc men và vũ khí, chẳng bao lâu họ tan rã. Tới lúc nầy họ phải chọn, hoặc là đầu hàng, -chắc chắn sẽ chết hoặc tìm kiếm cơ may với Việt Nam. Nhiều người thuộc các sư đoàn Trung ương khi đánh nhau với Việt Nam, không chịu nỗi sợ hãi cũng tìm cách trốn. Những cán bộ thường tuyên truyền chống Việt Nam cũng khó khăn khi chọn lựa. Những cán bộ Issarak trước kia một thời có quan hệ gần gủi với Việt Nam, còn sống sót, nay đưọc giao cho sứ mạng vượt qua vùng biên giới đầy đặc mìn. Từ cuối tháng Sáu, Hà Nội bắt đầu phát thanh chương trình tiếng Miên, kêu gọi lật đổ. Tiếng nói của các cán bộ Khmer nổi tiếng, những người tưởng đã chết rồi, nay lại nghe tiếng trên đài làm cho người ta yên tâm. Sự thật là người anh của Heng Samrin, Heng Samkai, một lãnh tụ khác của khu Đông, được Việt Nam giúp đỡ. Năm 1981, Samkai nói với tôi:

“Chúng tôi biết rằng, tự chúng tôi không thể lật đổ Pol Pot được. Chúng tôi phải tìm Việt Nam giúp đỡ.” Là chủ tịch cơ quan vận chuyển thư điện khu Đông, -những người mang thư điện đi lại giữa các bộ phận của đảng, cũng như với Việt Nam, -ông ta biết tiếng Việt từ lâu. Tháng Giêng 1978, ông ta tới biên giới, rồi dọt lên máy bay trực thăng của Việt Nam bay tới thành phố Hồ Chí Minh. Ông và hai người Khmer Đỏ đào tẩu khác tập trung tại trường cảnh sát của chế độ cũ ở Thủ Đức.

Việt Nam CS bắt đầu huấn luyện những người kháng chiến và tập họp thành phong trào. Sự triệt hạ đảng bộ khu Đông, nơi Việt Nam hy vọng có thể có được cảm tình, đã đóng lại cơ hội có thể qua đó thực hiện sự thay đổi từ trong nước: một cuộc đảo chánh chống Pol Pot. Nay thì có rất ít cơ may cho những người Khmer được huấn luyện ở bên Việt Nam, lẽn về trong nước để liên lạc với những phần tử bất mãn và tổ chức nổi loạn.

Đã có tiếp xúc giữa Việt Nam và các nhóm nổi loạn khác nhau đang lẫn trốn ở trong rừng. Đầu tháng Chín, Việt Nam mở một cuôc tấn công khác có chiến xa dẫn đầu vào nội địa Kampuchia. Mục tiêu lần nầy là để tiếp xúc với Heng Samrin và những người theo ông đang trốn trong rừng và hộ tống họ về Việt Nam. Với Heng Samrin, Chea Sim, và những cán bộ Khmer Đỏ còn sống sót khác, một chính phủ tương lai của Kampuchia thân với Việt Nam được thành lập. (43)

Lê Đức Thọ từ Hà Nội bay vào. Tháp tùng ông ta là những chuyên viên Khmer khác trong đảng. Ông triệu tập một cuộc họp gồm có những người Khmer Đỏ đào tẩu, và những thường trú nhân Khmer cũ như Pen Sovan, Chea Soth, tại Thủ Đức trong hai ngày 21 và 22 tháng Chín. Họ quyết định biện pháp quân sự để chống lại Pol Pot sẽ thực hiện vào tháng Chạp, khi mùa màng đã gặt xong và đất đai khô ráo. Toàn nhóm bắt đầu làm việc để thành lập Mặt trận Cứu Nước Đoàn kết Quốc gia Kampuchia và cuộc chiến đấu bắt đầu. (44)

Trung Hoa thấy được âm mưu

Mọi hoạt động đã sẵn sàng từ mùa hè năm 1978, mặc dù có

nhiều điều mà các quan sát viên bên ngoài không thấy được. Với những xáo trộn và tàn sát ở phía đông Kampuchia, với hàng ngàn Hoa kiều chen chân ở Lạng Sơn, thành phố biên giới, với hy vọng về Trung Hoa, và với việc gia tăng hoạt động quân sự của Sô Viết chung quanh Trung Hoa, cơ hội một cuộc xung đột rộng lớn đã ăn khớp nhau. Nhìn từ phía Bắc Kinh, việc Việt Nam đối xử với kiều dân Trung Hoa không hẵn là một bước cải cách để tiến lên xã hội chủ nghĩa, mà cũng không đơn giản là vấn đề kỳ thị chủng tộc. Nhưng đó là một phần toàn vẹn trong chính sách của Liên xô nhằm mục đích bao vây Trung Hoa. Cuộc xung đột Việt Nam và Kampuchia đang gia tăng được xem là một phần hoạt động của Sô Viết chống lại vai trò lãnh đạo của Bắc Kinh ở trong vùng, bằng cách xử dụng vai trò của một “tiểu bá”. Việt Nam CS thì thấy việc xử dụng bạo lực một cách dữ dội ở Kampuchia và việc Kampuchia tấn công Việt Nam như là một phần kế hoạch do Bắc Kinh khôn khéo lèo lái để đè bẹp Việt Nam. Moscow thì muốn hợp tác lâu dài với Việt Nam vì thấy quan hệ Hoa-Mỹ càng lúc càng nổi bật hơn. Quan điểm của tòa Bạch ốc (gia tăng chủ trương chống Liên Xô Manichean của Brzezinsky) thấy cuộc xung đột Miên Việt là một cuộc “chiến tranh ủy nhiệm” giữa Moscow và Bắc Kinh, qua đó, Trung Hoa đáng được Mỹ hỗ trợ về mặt chiến lược.

Với Moscow, đó là thời gian của cơ hội mà cũng là thời gian của hiễm nguy. Sự bắt đầu cải vả công khai giữa Trung Hoa và Việt Nam là cơ hội được Liên Xô chờ đón từ lâu để kéo Việt Nam vào vòng tay của họ. Moscow lợi dụng vấn đề người Hoa ở hải ngoại để lật tẩy việc Trung Hoa dùng Hoa kiều làm đạo quân thứ năm và đạt được thắng lợi tuyên truyền ở Đông Nam Á. Họ quay lưỡi dao về phía Trung Hoa và tố cáo mạnh mẽ Bắc Kinh là “bá quyền nước lớn” và can thiệp vào nội bộ Việt Nam.

Nhưng chuyến đi của Brzezinsky qua Trung Hoa hồi tháng Năm/1978 và công việc khoa trương chống Liên Xô của ông ta ở Bắc Kinh báo động cho Moscow, đặc biệt là bản báo cáo nói tới việc ông ta thảo luận bí mật trao cho Trung Hoa kỷ thuật quân sự và vũ khí. Ngày 25 tháng Sáu, tổng bí thư đảng Cọng sản Liên Xô Leonid Brezhnev tấn công kịch liệt như chưa bao giờ có về chính sách của Mỹ đối với Trung Hoa. Ông ta nói rằng điều nầy, ở Hoa Kỳ, những ai chơi “lá bài Trung Hoa” là theo đuổi một chính sách “thiển cận và nguy hiểm”. Ông ta cảnh cáo rằng “những ai dùng nó phải hối tiếc cay đắng,” (45)

Một cách bí mật, Liên Xô gia tăng quan hệ với Hà Nội. Bộ Chính trị đảng Cọng sản Việt Nam họp hồi giữa tháng Hai đưa ra một số quyết định lớn về Kampuchia và Trung Hoa, và kết luận rằng Việt Nam sẽ can thiệp quân sự vào Kampuchia cũng như trả miếng Trung Hoa. Để đối đầu với đe dọa từ Trung Hoa, Hà Nội cần một chính sách bảo đảm. Sau nầy, một quan chức Việt Nam nói với đại sứ Ấn Độ tại Hà Nội: “Chúng tôi rứt một ngọn lá khỏi cuốn sách Ấn Độ”. Liên Xô đề nghị ký với Ấn Độ một thỏa ưóc thân hữu và hợp tác nhằm bảo đảm việc hỗ trợ quân sự năm 1969. Ấn Độ chấp thuận đề nghị đó trong vòng hai năm. Ấn Độ đồng ý ký thỏa ước và chấp nhận sự bảo vệ quân sự của Liên Xô khi nào họ thấy rằng -trong trường hợp có chiến tranh với Pakistan và có khả năng Trung Hoa can thiệp vào nội bộ của họ vì muốn bảo vệ cho Pakistan. Họ cần tới sự bảo vệ của siêu cường. Ba tháng sau khi ký thỏa ước với Moscow, Ấn Độ đánh bại Pakistan và đem lại độc lập cho Bangladesh.


Каталог: upload
upload -> -
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 1.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   ...   35




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương