Nayan Chanda hoànglonghải



tải về 1.97 Mb.
trang30/35
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.97 Mb.
#13140
1   ...   27   28   29   30   31   32   33   34   35

Một buổi tiệc khác cũng bị bỏ dở ở nhà máy dệt không xa trại nầy bao nhiêu. Cùng một ngày Khmer Đỏ cho phép công nhân giết heo và gà để tổ chức tiệc tùng kỷ niệm năm đầu tiên “chiến thắng lịch sử” đánh bại Việt Nam. (42)

Rõ ràng cuộc tấn công của Việt Nam dịu lại kể từ đêm 3 tháng Giêng, tạo cho Phnom Pênh không khí an toàn giả tạo. Ngay buổi tối 5 tháng Giêng, Pol Pot nói với Sihanouk một cách tin tưởng rằng lực lượng quân sự của y sẽ quét sạch quân đội Việt Nam ra khỏi Kampuchia. Mặc dù Bắc kinh khuyến cáo Khmer Đỏ nên xây dựng khu dự trữ trong vùng núi Cardamon khi phải bỏ thủ đô và mặc dù trong cuộc phỏng vấn của Tân Hoa xã hồi 11 tháng Chạp, Pol Pot tuyên bố chính phủ ông ta sẵn sàng đối đầu khi quân đội Việt Nam tấn công trong một cuộc “chiến tranh trường kỳ”, đơn giản là họ không tiên liệu được sức phòng ngự của họ bị sụp đổ hết sức bất ngờ. Tới lúc Pol Pot thấy không thể chiến thắng thì đã quá trễ. Trong vòng 24 tiếng đồng hồ thủ đô Phnom Pênh bị bỏ 180 ngõ, bỏ lại những bữa ăn chưa xong và hàng tấn cá ươn thúi, cả những hàng núi vũ khí đạn dược và hồ sơ lưu trữ các bản tự khai của nhà tù Toul Sleng. Ngay cả với một nhân vật đang bị chế độ tầm nã, Deuch, người đứng đầu trại tù Toul Sleng, hầu như cũng bị bỏ lại. Ông nầy chuồn ra khỏi Phnom Pênh dễ dàng khi quân Việt Nam tiến vào. Đại sứ Trung Hoa và hàng trăm cố vấn Trung Hoa cũng rời Phnom Pênh đúng lúc, nhưng họ phải bỏ lại mọi thứ. Với Việt Nam, điều họ thích thú nhất là tìm thấy trong tòa đại sứ Trung Hoa một hầm đầy rượu “cô-nhắc” của Pháp.

Việc Phnom Pênh sụp đổ có làm cho Việt Nam ngạc nhiên hay không? Không có câu trả lời sẵn. Không giống như “chiến dịch Hồ Chí Minh” chiếm đóng Saigon, chiến thắng đem lại hai cuốn hồi ký của hai tướng Cọng sản tham dự chiến dịch đó. (34) Chẳng có ai viết hồi ký về cuộc mạo hiểm của Việt Nam trên lãnh thổ Kampuchia.

Những hồi ký như thế về cuộc chiến năm 1975, tiết lộ là theo kế hoạch đầu tiên của bộ Chính trị Cọng sản Việt Nam thông qua hồi tháng Chạp năm 1974, quân đội Nhân dân Việt Nam thực hiện từng bước đấu tranh chính trị và quân sự trong các năm 1975-76 “làm thế nào để tạo ra những điều kiện tiến tới thực hiện tổng tấn công và nổi dậy... và giải phóng miền Nam.” (45)

Nhưng sau cuộc tấn công sơ khởi ở miền Cao nguyên hồi tháng Ba/ 1975, chế độ miền Nam sụp đổ mau lẹ đến nổi bộ Chính trị quyết định nắm lấy thời cơ và “giải phóng Saigon trước mùa mưa.” Có phải việc chiếm đóng Phnom Pênh là lặp lại việc chiếm đóng Saigon bốn năm trước đó? Hay Việt Nam đã có kế hoạch chiếm đóng toàn bộ Kampuchia và thành lập một chế độ lệ thuộc? Quan sát việc quân đội Việt Nam tiến nhanh vào thủ đô Phnom Pênh và thành lập chính phủ mới, hầu hết các quan sát viên kết kuận rằng quả thật đây là mục tiêu của họ. Tuy nhiên cũng không có gì nổi bật để kết luận như thế. Giống như điều đã xảy ra ở Saigon năm 1975, việc chiếm đóng Phnom Pênh cũng vậy, có thể đó là cơ may có chiến lược.

Chứng cớ lý thú nhất về giả thuyết đó là ở cuộc phỏng vấn hai nhân vật lãnh đạo Mặt trận Cứu nguy: Chea Soth, một trong những người xây dựng Mặt trận và là một thành viên bộ Chính trị của đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia (Kampuchea People's Revolutionary Party -viết tắt là KPRP) nói với Stephen Heder năm 1981, thoạt tiên họ không nghĩ có thể chiếm lấy toàn bộ đất nước. Ông ta nói: “Đúng ra, chúng tôi nghĩ phải có một thời kỳ chiếm đóng một nửa đất nước, một nửa bờ sông Mê-kông và để phía bên kia cho Pol Pot”. Kế hoạch đó đã thay đổi sau khi quân đội Việt Nam giành được chiến thắng quân sự đầu tiên: Chiếm Phnom Pênh và chiến đấu trường kỳ. “Chúng tôi không nghĩ là chúng tôi chiếm được toàn bộ đất nước cùng một lúc. Nhưng sau khi tấn công và không thấy sức kháng cự đáng kể, họ (lực lượng Pol Pot) chỉ rút lui mà thôi thì chúng tôi cứ thế mà tiến tới. Khi chúng tôi nắm được tình hình (Phnom Pênh đã bỏ trống) thì chúng tôi vào ngay thành phố nầy. Chẳng có nơi nào còn lại mà không bị chiếm”.

Một ủy viên khác của Ủy ban Trung ương đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia, Hem Saming cũng nói với Heder trong một cuộc phỏng vấn khác là: Kế hoạch nguyên thủy chỉ tấn công và “chiếm đóng một nửa bờ sông Mê-kông. Nhưng khi tấn công và truy kích chúng thì chúng tôi thấy dễ quá. Chúng tôi cứ thế mà tiến tới”. (47)

Những điều nầy hỗ trợ cho những chứng cớ rõ ràng việc chuẩn bị gấp rút của Mặt trận để nắm lấy tình hình. Cuộc tấn công bắt đầu hồi cuối tháng Chạp thì chưa tới ngày 6 tháng Giêng Mặt trận đã “tức tốc” công bố chương trình tám điểm để thi hành trong vùng giải phóng Kampuchia. Chương trình nầy được thông qua ngày 5 tháng Giêng sau nhiều lần trì hoãn cuộc họp được triệu tập ở Mimot trong tỉnh Kompong Cham để tái tổ chức đảng Cọng sản. Đại hội đang tiến hành nhằm bầu lãnh tụ mới và các thành viên chính thì ngay trưa ngày 7 tháng Giêng “tin điện báo cho biết Phnom Pênh đã được giải phóng. Đảng vừa mới thành lập tức thì kêu gọi tinh thần trách nhiệm 66 đại biểu đang họp hôm đó”.(48)

Ngày 8 tháng Giêng, trong khi những người lãnh đạo Mặt trận đang chờ có được tin tức rõ ràng hơn từ phía quân đội Việt Nam đưa tới để tiến vào Phnom Pênh thì đài phát thanh của Mặt trận loan tin sau khi “lực lượng quân đội cách mạng và nhân dân Kampuchia” giải phóng Phnom Pênh, một Hội đồng Cách mạng gồm 8 thành viên được thành lập do Heng Samring lãnh đạo. Vị cựu tư lệnh sư đoàn Khmer Đỏ, người đã đào thoát qua Việt Nam chỉ bốn tháng trước đây bất thần trở thành quốc trưởng nước Kampuchia.

Việc vội vàng ra lệnh cho các nhân viên dân sự Việt Nam -kỹ thuật viên và hành chánh - lãnh mọi trách nhiệm ở Kampuchia chứng tỏ có thiếu sót trong kế hoạch của Việt Nam dự trù chiếm đóng Kampuchia. Một điều thích thú khác cho thấy mục tiêu đầu tiên của Việt Nam có thể là chưa kiểm soát toàn bộ Kampuchia là thật vì theo sự quan sát của tình báo Mỹ, xe tăng Việt Nam hết xăng nửa đường khi họ tiến về tỉnh Kopmpong Thom trên quốc lộ 6. Trong khi chờ được tiếp tế nhiên liệu, vài chiếc đã bị Khmer Đỏ bắn hạ khi bọn nầy rút lui. Việc chờ đợi nhiên liệu kéo dài cả tuần lễ trước khi đoàn xe tăng tới được thành phố Battambang.(49)

Mặc dù tới tuần lễ thứ ba của tháng Giêng, việc chiếm đóng toàn bộ những khu chiến lược của Kampuchia -bao gồm những thành phố lớn và những con đường chiến lược cũng chưa xong, mãi tới trước tháng Tư/1979 cùng với chính lực lượng tăng phái, Việt Nam mới có thể mở ra cuộc tấn công chính vào tuyến phòng thủ Ta-Sanh do Khmer Đỏ dựng lên gần biên giới Thái Lan khi họ rút lui.

Kể từ chuyến bay cuối cùng cất cánh ở phi trường Pochentong hôm 6 tháng Giêng và chuyến xe lửa cuối cùng, trên đó có Ieng Sary rời Phnom Pênh vào sáng ngày 7 tháng Giêng, với người Kampuchia, biên giới Thái Lan là con đường độc nhất để tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Các nhà ngoại giao Trung Hoa, Nam Tư và các nước khác nữa có trụ sở ở Phnom Pênh cũng như hàng mấy trăm cố vấn và kỹ thuật viên Trung Hoa lo lắng và lếch thếch đổ xô qua biên giới để tìm nơi an toàn trong lãnh thổ Thái. Một quan chức bộ ngoại giao Thái kể lại: “Đối với Trung Hoa, đó là giây phút nhục nhã. Trước kia chẳng bao giờ có sứ bộ của Trung Hoa phải trốn chạy khỏi một nước chư hầu một cách nhục nhã như vậy.” Dĩ nhiên Thái Lan đón tiếp họ với thái độ nhã nhặn nhứt. Họ kín đáo sắp đặt những chuyến bay Boeing 707 của Trrung Hoa hạ cánh xuống Thái Lan, đáng mỉa mai lại là đáp xuống chính ngay căn cứ Mỹ cũ ở Utapao để đón những người Trung Hoa di tản từ Kampuchia sang. Chỉ mấy năm trước thôi, Trung Hoa lớn lối tuyên bố những căn cứ Mỹ ở Thái Lan là bàn đạp cho “cuộc xâm lăng của Đế quốc Mỹ.”

Ngày 11 tháng Giêng/1979, Ieng Sary chạy tới biên giới Thái Lan, vừa đói vừa mệt. Trong cuộc tháo chạy hỗn loạn đó, ông ta bị mất dép. Các nhà ngoại giao Trung Hoa ở Băngkok phải đem quần áo và giày mới tới cho ông. Một chiếc máy bay trực thăng của quân đội Thái bí mật chở ông ta và các cọng sự -gồm những người làm việc cho đài phát thanh Phnom Pênh - tới phi trường Đôn-Mường của Bangkok. Ở đây, họ được đưa lên một chuyến bay quốc tế thường lệ của hãng hàng không Thái để đi Trung Hoa qua ngã Hồngkông.

Sứ mạng bí mật ở Utapao

Tài liệu Việt Nam bắt đưọc ở Utapao, bao gồm cả những bản phiên dịch các cuộc nói chuyện của các nhà lãnh đạo Trung Hoa và Ieng Sary trong bốn lần khác nhau. Trong cuộc họp ngày 13 tháng Giêng/1979, Đặng đã rầy rà Sary về “chiến dịch thanh trừng do đồng chí chỉ đạo là hết sức thừa thải và bao quát”. Đối với cuộc thanh trừng của Khmer Đỏ, Đặng giận dữ nói với Sary rằng y đã tạo nhiều bất lợi cho Trung Hoa và đem lại “kết quả hoàn toàn vô ích”. Ông ta chỉ ra một ví dụ: đoàn kết với kẻ thù ít thù địch hơn, như một thời Cọng sản Trung Hoa liên minh với Tưởng Giới Thạch trong chiến tranh Hoa-Nhật và ông ta thúc đẩy Sary phải lôi kéo thái tử Sihanouk vào chung một mật trận. Ông ta nói “Chúng ta sẽ mất mát nhiều nếu chúng ta không liên kết được với thái tử. Để nắm lấy cơ may và trong tương lai gần, tôi yêu cầu ông phải đưa thái tử lên ngôi vị nguyên thủ quốc gia. Đồng chí Pol Pot sẽ làm thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng và tư lệnh tối cao”. Nếu đảng Cọng sản Kampuchia đồng ý với đề nghị đó thì Trung Hoa sẽ “giúp một tay”. Đặng gay gắt đưa ra một cái giá. Ông ta khuyến cáo Sary phải thay đổi giọng điệu tuyên truyền. “Lúc nầy không nên đặt vai trò đảng lên hàng đầu, nên nhấn mạnh tới chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa quốc gia và dân chủ”.

Đặng thông báo cho Sary biết Trung Hoa dành một số tiền 5 triệu đồng cho Kampuchia. Khi tiền nầy hết, sẽ được bổ sung thêm. Đặng hỏi: “Làm thế nào để chuyển số tiền này đi? Qua ngã Bangkok? Qua ngã Kriengsak? Qua ngân hàng Thái lan?” Y dè dặt đề nghị: “Chúng tôi muốn đưa vào trương mục của tòa đại sứ Trung Hoa ở Bangkok”. (50)

Ngày 13 tháng Giêng, trong cuộc họp mấy giờ đồng hồ giữa Đặng và Ieng Sary, hai nhà chiến lược hàng đầu của Trung hoa - ủy viên bộ chính trị Geng Biao và thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long, vội vàng tới phi trường Bắc Kinh để đáp máy bay Boeing 707 của hãng hàng không quốc gia (CAAC) với một sứ mạng bí mật. Chuyến bay được sắp đặt vội vàng nầy nhằm đưa Geng và Hàn cùng vài thành viên cao cấp của bộ Tổng tham mưu quân đội Nhân dân Trung Hoa đi Utapao. Thủ tướng Thái lan Kriengsak tới phi trường nầy đón khách. Ngày 14 tháng Tư có cuộc họp lâu dài giữa hai bên để điều hòa hợp tác Hoa-Thái về cuộc chiến ở Kampuchia. Bao nhiêu nước trên sông Mêkông đã “chảy qua cầu” từ khi Đặng đưa ra ý kiến hợp tác của Trung Hoa để nâng đỡ Khmer Đỏ. Trong khi vẫn duy trì thế đứng trung lập, Kriengsak bây giờ sẵn sàng hợp tác với Bắc Kinh. Về sau, theo một viên chức cao cấp của Thái tiết lộ, trong cuộc họp bí mật giữa Trung Hoa và các nhà lãnh đạo quân sự Thái, những điều căn bản về hợp tác Hoa-Thái được sắp đặt.(51) Sau một ngày họp, quan chức Trung Hoa bay về lại Bắc Kinh cùng với Sun Hao, đại sứ Trung hoa tại Phnom Pênh mới di tản ra khỏi Kampuchia và một trong những thỏa ước quan trọng nhất đã được thông qua. Kriengsak đồng ý cho xử dụng lãnh thổ Thái lan để tiếp tế cho Khmer Đỏ, giúp vận chuyển và phương tiện di chuyển cho người và hàng tiếp liệu Khmer Đỏ, giúp đỡ các lãnh tụ Khmer Đỏ dùng ngõ Thái-Lan để tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Điều đó cho thấy có bước mở đầu quan hệ chiến lược của Bắc Kinh ở Đông Nam Á thời kỳ hậu-Việt Nam. Hai tàu chở hàng đầy vũ khí tới Kampuchia khi Phnom Pênh thất thủ nay được lệnh tới cảng Thái Lan ở gần Kampuchia. Máy bay Trung Hoa cũng thực hiện những chuyến bay bí mật chở tiếp liệu khẩn cấp tới căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Takhli. (Thái Lan)

Ngày 16 tháng Giêng, hai ngày sau khi có cuộc họp Thái-Hoa, đài phát thanh Kamphuchia Dân chủ ngưng phát thanh từ ngày 7 tháng Giêng, bây giờ lại lên tiếng cùng với những giọng nói cũ, đòi hỏi cũ về cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống Việt Nam xâm lược. Theo tình báo Hoa Kỳ ghi nhận, có điều khác là làn sóng điện đài bá âm nầy phát đi qua trạm chuyển tiếp trong nội địa Trung Hoa.

Trong khi những công việc cơ bản được đặt ở Thái lan để hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích chống Việt Nam -Đúng như đường lối Đặng đã vạch ra trong chuyến đi thăm Thái Lan của ông hai tháng trước đó -Trung Hoa bắt đầu chuyển đại quân, thiết giáp và không quân gần tới biên giới Việt Nam hơn. Trong chuyến đi Thái Lan, cố gắng của Geng Biao thực ra là hoan nghênh Kriengsak trong vai trò mới, vai trò liên kết với Khmer Đỏ để trừng phạt Việt Nam trong tương lai. Ông nầy nói với nhà lãnh đạo Thái: “Không chỉ đơn giản là đe dọa mà Trung Hoa gởi quân tới Quảng Đông và Vân Nam, chúng tôi dự đoán mọi phản ứng”. (53)

Brzexinski thắng một trận ở Hoa Thạnh Đốn

Công bố việc quan hệ bình thường với Hoa Kỳ và đã kích quan hệ Đài Loan- Hoa Thạnh Đốn, giờ đây có thể làm cho Trung Hoa chuyển nhiều sư đoàn từ các tỉnh ở eo biển Đài Loan tới biên giới Hoa-Việt hay Nga-Hoa. Cuối tháng Giêng, vài trong số 17 sư đoàn quân đội thường trực, tức là vào khoảng 225 ngàn người được tập trung ở vùng biên giới gần Việt Nam. Bảy trăm máy bay oanh kích và ném bom -đơn vị thứ năm của không quân Trung Hoa cũng được chuyển xuống những phi trường gần Việt Nam. Ngày 19 tháng Giêng, tình báo Mỹ gởi một “giác thư khẩn cấp” cho cấp lãnh đạo tối cao về các hoạt động quân sự Trung Hoa. Một vài viên chức, đặc biệt ở bộ Ngoại Giao, hết sức quan tâm tới các hoạt động quân sự có tính cách chuẩn bị nầy để thực hiện một cuộc tấn công ngay trước ngày Đặng Tiểu Bình sang thăm Hoa Kỳ. Don Oberdorfer, một nhà ngoại giao Mỹ có vẽ giao động vì sự kiện nầy, nói với phái viên đặc trách vấn đề ngoại giao của tờ Washington Post: “Tôi không rõ ông ta (Đặng) đang muốn lôi kéo gì đây. Ông ta muốn đút đầu vào cuộc tấn công, ít ra cũng một chút hương thơm của cuộc xung đột”.(54) Richard Holbrooke, trước chuyến viếng thăm của Đặng, trong vòng một tuần lễ, hai lần triệu đại sứ Trung Hoa, Chai Zemin, ở Hoa Thạnh Đốn tới, lưu ý ông ta rằng việc tấn công Việt Nam trong khi Đặng đang viếng thăm Hoa Kỳ sẽ gây nhiều khó khăn cho chính phủ Hoa Kỳ. (55)

Trung Hoa bắt buộc, không phải vì họ không muốn gây phiền phức cho Hoa Thạnh Đốn, nhưng vì họ đã tính toán thời gian cho cuộc tấn công Việt Nam vào lúc đã định sẵn rồi. Hồi tháng Ba/1979, một viên chức Trung Hoa nói với tôi: “Khi phó Chủ tịch Đặng đi Hoa thạnh Đốn, chúng tôi đã tính toán thời điểm cho cuộc tấn công. Không phải phó Chủ tịch đi Mỹ để Mỹ đồng ý, chỉ là một sự ủng hộ về tinh thần thôi.” Cuối cùng, Trung Hoa gặt hái được nhiều hơn thế. Lịch sử có tính cách mai mỉa: Trung Hoa tấn công Việt Nam với sự ủng hộ dè dặt của Hoa Kỳ. Nhiều người băn khoăn nhớ rằng một trong những lời biện minh việc Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam là ngăn chận “Trung Hoa bành trướng” và cái biểu hiệu của MACV (U.S. Military Assistance Command in Vietnam) là thanh gươm Mỹ đâm thủng “Vạn Lý Trường Thành” -biểu tượng của nước Tàu.

Đặng trực tiếp đưa ra nhiều đòi hỏi trong chuyến đi Hoa Kỳ của ông. Ông ta muốn đuợc ủng hộ và thông cảm về kế hoạch tấn công Việt Nam CS, ảnh hưởng tới quyền lợi của Mạc Tư Khoa và Hà Nội, và gây ấn tượng cho những phần tử còn lưỡng lự trong đảng Cọng sản Trung Hoa. Ngày 28 tháng Giêng, ngay đêm đầu tiên khi Đặng tới Hoa Thạnh Đốn, ông ta nói với Brzezinski rằng ông ta muốn họp riêng với tổng thống Carter để thảo luận vấn đề Việt Nam. Ngày hôm sau, tại cuộc hội kiến đầu tiên ở tòa Bạch ốc, Đặng lưu ý tổng thống Carter “Cả hai nước Trung Hoa và Hoa Kỳ đã tiếp xúc lâu dài và không ưa thích gì Việt Nam CS”. Buổi tối, lúc gần tới giờ nhập tiệc, ông ta lại muốn gặp riêng tổng thống Carter để thảo luận vấn đề hai bên cùng tin tưởng. Carter rời phòng họp và trở về phòng Bầu dục cùng với Mondale, Vance, Harold Brown và Brzezinski để nghe Đặng phác họa kế hoạch tấn công Việt Nam. Phì phà điếu thuốc là hiệu Panda, Đặng tuyên bố rằng Trung Hoa phải phá vở chiến lược của Liên Xô. “Chúng ta xem việc ấy là cần thiết để ngăn chận tham vọng điên cuồng của họ đối với Việt Nam và cho họ một bài học hạn chế thích đáng”. Đặng bảo đảm rằng cuộc tấn công hạn chế cả về mặt thời gian và không gian. Điều ông ta yêu cầu là Hoa Kỳ “ủng hộ tinh thần” đối với quốc tế. (56)

Cùng với việc Đặng đề nghị một thỏa hiệp chống Moscow và tìm được sự hỗ trợ của Mỹ đối với việc tấn công Việt Nam của Đặng, sự đấu đá nhau giữa Brzezinski và Vance đạt tới một đỉnh cao mới. Ngay trước cuộc viếng thăm của Đặng, Vance tuyên bố chính sách của Mỹ đối với Mạc tư khoa và Bắc Kinh “sẽ được cân bằng và không thiên lệch bên nào”. (57)

Để tránh lên tiếng cùng với Trung Hoa chống lại “chính sách bành trướng”, bộ Ngoại giao cố gắng không đưa ra một bản thông cáo chung nào. Nhưng Brzezinski lại thắng điểm trước Vance thêm một lần nữa. Không những Carter từ khước những cố gắng nầy, mà còn căn cứ trên lời đề nghị của Brzezinski, bác bỏ lời phát biểu chung về việc giữ cân bằng giữa hai nước và về hai bản công bố trước giữa Trung Hoa và Hoa Kỳ mà mối quan hệ giữa hai bên là “không liên hệ trực tiếp gì đối với nước khác” Ngay trước cuộc họp của Đặng và Carter, Brzezinski làm dịu sự chống đối của Carter về ý định của Trung Hoa trừng phạt Việt Nam. Sau nầy ông ta viết: “Tôi e ngại tổng thống sẽ bị Vance thuyết phục nhằm tạo áp lực tối đa đối với Trung Hoa đừng dùng vũ lực, bởi vì việc nầy không chỉ là một sự thuyết phục đơn giản vì Hoa Kỳ đã có lúc bị Trung Hoa cho là con cọp giấy.” (58) Tuy nhiên, điều cần thiết hơn là phải chứng tỏ cho thấy nước Mỹ là hùng mạnh (macho). Trong chính ngôn ngữ của Brzezinski, ông ta và vài người bạn của ông, những người liên hệ một cách kín đáo tới những cuộc thảo luận diễn ra trước khi Trung Hoa cố đạt được việc cho Việt Nam một “bài học”... cảm nhận được lợi ích nữa.” (59)

Sự chói sáng của một quyền lực còn non nớt

Đối với Carter và Brzezinski, cả hai đều bị gây ấn tượng sâu sắc do một lãnh tụ cứng rắn của một quốc gia thù địch cũ đang kiêu hãnh về việc dạy cho Việt Nam môt “bài học”. (60) Đối với Brzezinski, lời trình bày của Đặng về kế họach tấn công Việt Nam “chứng tỏ là điều xúc động nhất về một quyền lực chính trị còn non nớt.” mà ông ta chưa bao giờ gặp phải trong bốn năm làm việc tại tòa Bạch Ốc. Sau nầy ông ta viết: “Tôi kín đáo muốn việc Đặng thích thú dùng quyền lực sẽ loại trừ được những quyết định chính của những người hoạch định chính sách Mỹ”. (61) Có thể nói rõ ra rằng một trong những người hoạch định chính sách, theo ông ta nghĩ là Vance. Ông nầy không chấp nhận việc Trung Hoa cho Việt Nam một “bài học” và ông là người hết sức quan tâm đến việc Hoa Thạnh Đốn đón tiếp Đặng sẽ làm cho Mạc Tư Khoa kết thúc liên minh Hoa-Mỹ. (62) Nhưng Carter từ chối những điều ông ta coi là sự “tán dương” của Vance tiến tới quan hệ với Trung Hoa. (63)

Điều nầy có nghĩa là Đặng thu gặt được hết điều ông ta muốn. Đặng công khai tố giác Liên xô, chất vấn về sự hữu ích của thỏa hiệp SALT II mà Hoa Kỳ đã kiên trì lâu dài để đạt được thỏa hiệp nầy với Liên Xô, và đưa ra những lời đe dọa Việt Nam. Carter, là người chủ, sung sướng và lịch sự, chẳng cần gì làm ngược lại hoặc ngay cả tự ông ta tự tìm cách lánh xa những lời phát biểu của Trung Hoa. Trong buổi họp hạn chế với Đặng hôm 29 tháng Giêng, Carter tỏ ra không nhiệt tình lắm, làm cho nhà lãnh tụ Trung Hoa cảm thấy chán nãn. Nhưng ông ta không bao giờ nói bóng gió rằng hành động trù liệu của Trung Hoa sẽ có ảnh hưởng đến quan hệ Hoa-Mỹ. Ông ta chẳng hỏi tới phần kết thúc mà chỉ là hỏi tới phương cách mà thôi. Carter cho rằng Việt Nam càng ngày càng bị cô lập trên trường quốc tế vì xâm lăng Kampuchia và nếu như Trung Hoa chống lại Việt Nam thì sẽ được thế giới ủng hộ. Tuy nhiên, thấy Đặng không lay chuyển quyết định trừng phạt Việt Nam, Carter đề nghị họp thêm một lần nữa. Buổi sáng ngày 30 tháng Giêng, họ lại họp với nhau trong Phòng Bầu dục, chỉ có một thông dịch viên có mặt. Lúc đó, Carter có một hành đông hơi lạ. Ông ta đọc to rồi trao cho Đặng một bản viết tay một lá thư tóm tắt ý kiến của ông làm cho Đặng nhụt lòng xâm lăng Việt Nam. Mục đích tuồng như là nói hết ý kiến chống đối của ông ta trong khi ông ta nghĩ rằng Đặng chẳng chú tâm gì tới. Carter viết: “Điều khích động nhất là quyết định đã có rồi. Việt Nam sẽ bị trừng phạt.” (64)

Nội dung của bức thư không được tiết lộ nhưng về sau Brzezinski có trình bày việc viết lá thư ấy là hành động đúng vì, như ông ta nói là ngay thật, “chúng ta không thể thông đồng một cách chính thức với Trung Hoa bằng cách hỗ trợ cho điều mà chẳng khác gì là công khai mở ra một cuộc tấn công quân sự. Đồng thời, lá thư cũng không đặt Hoa Kỳ vào thế kẹt về sau khi có nhiều áp lực lên án Trung Hoa tại diễn đàn Liên Hợp Quốc.”

Dù sao, sợ Trung Hoa sẽ chộp lấy những phản kháng hình thức nầy một cách nghiêm trọng, trong cuộc họp riêng với ngoại trưởng Hoàng Hoa của Trung Hoa cùng ngày hôm đó, Brzezinski nói chỉ có một điều Hoa Kỳ lo âu thực sự là khả năng phản ứng của Liên Xô đối với hành động quân sự của Trung Hoa. Ông ta cố “khuyến khích Trung Hoa tập trung vào hành động quân sự mau lẹ và cương quyết và không kéo dài.” -Điều nầy Đặng đã trình bày với Carter. Trong hồi ký của Brzezinski, ông ta viết: “Với hành động thân hữu đặc biệt, tôi tới bãi đáp trực thăng gần đài kỷ niệm Washington để chào từ biệt riêng với Đặng. Tôi muốn nhấn mạnh đến sự ủng hộ của tổng thống và Đặng tỏ dấu hiệu làm cho tôi rất vui lòng”. Nếu Carter thực sự muốn làm nãn lòng Trung Hoa trong việc họ muốn tấn công Việt Nam, thì Brzezinski lại không làm theo ý chủ bằng cách nhấn mạnh đến tính cách biểu trưng trong hành động của tổng thống. Thực ra, phân vân giữa xu hướng hòa bình của người công giáo và sự thôi thúc làm thế nào để được tiếng là một tổng thống có ý chí mạnh mẽ, Carter đã chọn con đường thoát ra nhẹ nhàng -một sự chống đối có tính cách hình thức và một cái nháy mắt ra dấu. Trong khi nôn nóng chờ đợi cuộc tấn công của Trung Hoa xảy ra 16 ngày sau đó, Washington hành động như một cái mộc che Liên Xô trả thù bằng cách thúc ép sự trì hoãn của Liên Xô, đặt quan hệ tốt đẹp với Liên Xô bằng cách ký thỏa hiệp SALT II. (65)

Nếu Carter và Brzezinski bỏ qua vài cảm nghĩ chống việc Trung Hoa xâm lăng Việt Nam thì một nhà lãnh tụ quốc hội lại thẳng thắn ủng hộ Đặng. Trong buổi họp ở điện Capitol, chủ tịch Hạ viện Tip O'neil nói với Đặng nếu hành động phiêu lưu của Việt Nam không bị ngăn chận thì có thể có thế giới chiến tranh thứ ba. Ông ta nhắc lại hồi Nhật tấn công Mãn châu năm 1931, cả thế giới chẳng làm gì hết, rồi cả thế giới thấy mình đang ở giữa cuộc thế giới chiến tranh thứ hai. Đặng thực hiện một bước lùi bằng một sự căng thẳng tương tự nào đó nhưng ông ta nói với Chủ tịch Hạ viện tình hình Việt Nam hoàn toàn không phải như vậy. Tuy nhiên, cần thiết phải “dạy cho Việt Nam một bài học.” (66)

Sau các cuộc họp với các lãnh tụ hành pháp và lập pháp, Đặng họp báo ở Washington, tuyên bố: “Chúng tôi coi Việt Nam như một Cu-ba ở phương Đông. Nếu quí vị không dạy cho chúng một bài học cần thiết thì chúng sẽ gia tăng khiêu khích... Nhưng nếu trừng phạt, chúng ta còn phải chờ xem. Tôi có thể nói hai điều: một là người Trung Hoa chúng tôi nói là làm. Thứ hai, chúng tôi có hành động táo bạo.”

Một thông điệp cho Mạc tư khoa

Đặng hết sức thành thật, nôn nóng trong việc lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, Những cuộc họp riêng và những lời phát biểu công khai đã được tính toán từng bước hết sức cẩn thận theo đúng kế hoạch của Trung Hoa tấn công Việt Nam. Không giống Việt Nam, -họ tìm cách che dấu yếu tố bất ngờ bằng cách chối rằng họ không có ý định tấn công Kampuchia-, Trung Hoa thì thuyết phục một cách khéo léo rằng việc tấn công tùy thuộc vào diễn tiến tình hình. Bằng những bức điện có tính cách lôi kéo sự quan tâm của những nước khác, Trung Hoa cố tạo ra một bầu không khí thông cảm và đồng lòng, về một cuộc chiến tranh có tính cách giáo dục Việt Nam. Trên đường từ Hoa Kỳ về, Đặng ngừng lại ở Đông Kinh. Ông ta vẽ ra những nét khái quát cho các nhà lãnh đạo Nhật Bản về kế hoạch tấn công Việt Nam cũng như sự tính toán của Trung Hoa về tính cách giới hạn khả năng phản ứng của Liên Xô. Ông ta cũng nói cho họ biết việc Trung Hoa thông báo cho tổng thống Jimmy Carter Trung Hoa đã có kế hoạch trừng phạt Việt Nam. (68)

Sự tiết lộ và thiếu phản ứng công khai của Hoa Thạnh Đốn đối với những lời đe dọa của Trung Hoa đã làm gia tăng ngờ vực của người Nhật về liên minh Hoa-Mỹ. Mặc dù trong tư tưởng, họ chống đối, nhưng một cách khác biệt với Mỹ, họ chỉ biểu lộ sự bất đồng một cách dịu dàng mà thôi.” (69)

Ngày 9 tháng Hai, một ngày sau khi Đặng từ Đông Kinh về, ủy ban Trung ương đảng Cọng sản Trung Hoa họp ba ngày, do Đặng chủ tọa, để thực hiện quyết định cuối cùng. Đặng nói với ủy ban về thái độ thuận lợi của các nước phương Tây cũng như các nước trong khối ASEAN. Có điều cần xem xét kỷ lưỡng là có thể Liên Xô có phản ứng.


Каталог: upload
upload -> -
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 1.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   27   28   29   30   31   32   33   34   35




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương