Nayan Chanda hoànglonghải



tải về 1.97 Mb.
trang27/35
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.97 Mb.
#13140
1   ...   23   24   25   26   27   28   29   30   ...   35

“Thời gian của chúng ta đã tới,” Qua các đài phát thanh ngoại quốc, những người trốn chạy khỏi Khmer Đỏ khai rằng nhiều người bị bắt đưa đi mà không bao giờ trở lại. Nay thì tới phiên ông và gia đình. Ông ta nghĩ tới việc tự tử, nhưng việc đó không khác chi đem thịt tới cho người hàng thịt. Cán bộ Khmer Đỏ quay trở lại nói cho ông ta rõ chỉ đem theo thức ăn đóng hộp ông đang có. Điều nầy xua đi nỗi u ám. Nếu họ muốn mang theo thức ăn, có nghĩa chưa phải là bị đưa đi hành hình. Sihanouk nghĩ vậy.

Buổi tối, Khiêu Samphan tới tiễn chân thái tử và gia đình khi họ lên đường đi Battambang ở phía Bắc Kampuchia. Khiêu Samphan giải thích: Quân xâm lược Việt Nam đang tiến tới, để bảo đảm an toàn, họ phải dời khỏi thủ đô đúng lúc. Ông ta hẹn sẽ đến thăm Sihanouk ở Battambang. Khi đoàn xe rời thủ đô trong đám buị mù thì nghe có tiếng nổ ì ầm ở phía đông. Chiến tranh đang tới.

Khiêu Samphan không nói cho ông ta hay rằng hồi sáng sớm hôm đó, một toán biệt kích Việt Nam CS thất bại khi cố gắng xâm nhập Phnom Pênh để bắt cóc Sihanouk. Nhiều tuần sau, khi ông ta lại được tự do, Sihanouk có nghe nói đến cố gắng đó của Việt Nam CS để giải thoát ông, đưa ông lên lãnh đạo lực lượng chống Pol Pot.

Ngay những giờ đầu ngày 2 tháng Giêng, hai toán đặc công Việt Nam dùng xuồng vượt sông Tonlé-Sap để đến phía bờ sông có lâu đài hoàng gia. Hầu hết bọn họ đều bị toán Khmer Đỏ canh giữ mặt sông bắn chết. Một trong những người sống sót chạy thoát. Nhiều năm sau, người nầy trốn qua Thái Lan và cung cấp cho tình báo Tây phương những chi tiết đầu tiên về cố gắng bất thành nầy.

Sau chuyến đi xóc đến đau cả xương trên con đường số 5 đầy ổ gà, Sihanouk tới Sisophon, một thị trấn gần biên giới Thái Lan. Hai ngày sau, Khiêu Samphan tới và nói cho Sihanouk hay rằng quân địch đã bị đẩy ra khỏi Phnom Pênh. Họ có thể quay lại thủ đô. Tuy nhiên, căng thẳng và mệt mỏi vì việc đi lại như thế, ít ra cũng cho thấy nỗi sợ hãi của Sihanouk cho chính mạng sống ông có sai lầm. Có lẽ Khmer Đỏ không bao giờ muốn ông ta chết, nhưng ông ta lấy làm lạ là làm thế nào ông có thể được an toàn ở trong tay chúng khi quân Việt Nam đang tiến tới. Ông ta nhận ngay ra rằng, trái với những gì Khiêu Samphan nói, quân Việt Nam không bị đẩy lui. Cửa sổ nơi nhà ông ở thường rung chuyển mỗi khi pháo binh bắn, dường như ngày càng gần hơn.

Buổi tối ngày 5 tháng Giêng, Sihanouk được triệu tới để nghe “Anh số Một” Khmer Đỏ nói chuyện. Tối hôm đó, ông ta được xe đưa tới một ngôi nhà hai tầng đồ sộ trên bờ sông Tonlé-Sap, một thời là nơi cư ngụ của Khâm Sứ Pháp. Thời Sihanouk thì đó là nhà quốc khách. Kể từ năm 1973, đây là lần đầu tiên Sihanouk gặp mặt đối mặt với Pol Pot. Hồi tháng Ba/1973, trong khi đi thăm vùng giải phóng, Sihanouk đã gặp Saloth Sar. Lúc đó, Sihanouk đã biết con người lý thuyết rụt rè ở Paris trở về, tự dấu mình, thường đứng sau hậu trường nói chuyện với Sihanouk.

Con người tự dấu mình và e lệ đó khác với Pol Pot buổi tối 5 tháng Giêng. Trong bốn giờ đồng hồ nói chuyện với Sihanouk, Pol Pot chính là con người đảm trách nhiệm vụ nhưng hết sức dịu dàng và lịch sự. Nhiều năm sau, Sihanouk kể lại: “Pol Pot là con người hết sức hung ác, nhưng xem ra anh ta không ghét tôi lắm. Thực ra, anh ta có vẽ đáng yêu.” Ông ta được nghe lại những ngôn ngữ của hoàng triều, -những ngôn ngữ được phô diễn bằng tiếng Khmer khi dành cho hoàng gia và các tu sĩ Phật giáo. Sihanouk nhận xét: “Ieng Sary không nói với tôi bằng thứ ngôn ngữ đó. Ông ta nói rằng Sihanouk cũng chỉ là một công dân.” Khiêu Samphan thì khác. Mặc dù dị biệt lý thuyết, ông ta vẫn thưa chuyện với Sihanouk bằng những ngôn ngữ hoàng triều. Sihanouk kể lại: “Bất thần hôm đó, Pol Pot nói với tôi cũng theo cung cách như Khiêu Samphan. Thật là kỳ lạ, không thể tin được.”

“Pol pot nói: “Thưa hoàng thượng. Kẻ hạ thần nầy xin lỗi là đồng chí Khiêu Samphan đã thay mặt cho hạ thần.” Ông ta chắp tay chào tôi mà không dùng chữ “Tôi” nhưng lại nói “Kẻ hạ thần nầy” -cũng giống như trong triều đình Anh nói “Kẻ hạ thần ngoan ngoãn”, đại khái là giống như vây. Tôi hết sức ngạc nhiên,”

Pol Pot nói với ông ta là rất mong muốn ông làm đại diện cho Kampuchia tại Liên Hợp Quốc. Với rất nhiều bạn bè ở ngoại quốc, ông ta có thể nhờ họ giúp cho Kampuchia Dân chủ.

Sihanouk nói với Pol Pot là ông yêu nước và nguyền rủa Việt Nam xâm lăng. Ông ta hứa sẽ làm hết sức để giành được sự ủng hộ của Hội Đồng Bảo an Liên Hợp quốc cho Kampuchia. Ieng Sary ngăn lại, nói rằng không đủ chỗ trên máy bay nên chỉ dành cho Sihanouk và bà hoàng Monique mà thôi. Sihanouk nói với Pol Pot: “Tôi khẩn cầu ngài, cho phép những người trong gia đình tôi cùng các cọng sự viên đi theo tôi.” Sihanouk nhìn Ieng Sary đang ngồi bên cạnh thái tử và nói: “Vâng, sắp đặt để cùng lên hết một máy bay.” Bỗng nhiên, Sihanouk thấy nhẹ mình. Ông ta hết sức cám ơn Pol Pot vì sự tử tế và quan tâm của ông ta. Tuy nhiên, ông ta cũng biết sự tử tế đó rất nguy hiểm. Pol Pot cũng dành thì giờ vẽ ra một hình ảnh lạc quan trong chiến tranh chống lại Việt Nam. Ông ta nói: “Trong vòng hai tháng, chúng ta sẽ quét sạch quân xâm lược Việt Nam.” Sihanouk nói: “Chúc mừng. Thưa chủ tịch. Chúc mừng.” Với cái gật đầu mạnh mẽ đồng ý của Ieng Sary, Pol Pot nói: “Từ nay về sau, nếu ngài muốn thường đi Trung Hoa thì cứ đi. Ngài được tự do. Nếu Ngài trở về, ngài sẽ được nồng nhiệt đón tiếp. Nếu Ngài muốn lưu lại cùng chúng tôi vài ngày, chúng tôi hết sức vui sướng có ngài bên cạnh.” Sihanouk há hốc miệng kinh ngạc: “Thật vây sao? Xin cám ơn.”

Sáng ngày 6 tháng Sáu, ông được tự do trên máy bay. So với đêm hôm trước, khi nói chuyện với Pol Pot, pháo binh Việt Nam bắn gần thủ đô hơn. Máy bay Boeing 707 của Trung Hoa làm thế nào có thể đáp xuống phi trường Pochentong? Trong các đường băng, có cái nào an toàn khi máy bay cất cánh dưới hỏa lực Việt Nam. Ieng Sary nói nếu máy bay không đến được, họ có thể rời thủ đô trốn vào rừng. Sihanouk kể lại với tôi: “Tôi chuẩn bị hai cái bao để ra phi trường. Một cái đựng áo quần để đi Nữu Ước và một cái đựng đồ ăn đóng hộp, áo kaki, pijama, krama (khăn choàng) và đôi dép Hồ Chí Minh.” (dép Hồ Chí Minh làm bằng võ xe hơi, là dép thường dùng của du kích ở Đông Dương). Có thể nào chúng tôi lại đi vào rừng theo bọn Khmer Đỏ? Câu trả lời vẫn còn ẩn kín dưới bầu trời cao, qua những người khách Trung Hoa và Kampuchia của chuyến bay nầy. Tai họ căng ra để ngóng tiếng máy bay Boeing 707 ù ù qua tiếng đại bác nổ ì ầm. Một hàng máy bay Mig-19 do Trung Hoa chế tạo sơn màu cờ Kampuchia Dân chủ nằm bất động ở cuối phi đạo vì thiếu phi công. Và mặt trời lên cao, sưởi ấm không khí phi trường Pochentong. Sihanouk đón chờ con chim sắt của tự do.

Một mùa

Giáng sinh đỏ

Ngày 6 tháng Giêng/1979, đại sứ Lào Khamphan Vilachit trãi qua một đêm không ngủ. Sáu thành viên trong bộ tham mưu của ông cũng vậy. Chiến tranh tuồng như đang đến gần, hết sức nguy hiểm. Sự im lặng chết chóc thường bị quấy động vì tiếng đại bác và tiếng dội ầm ỉ của nó trong thủ đô vắng lặng. Các khung cửa sổ dội tiếng đạn kêu lách cách. Khamphan nghĩ rằng chiến tranh đang tới, nhưng chưa bao giờ ông nghĩ nó đến nhanh như vậy.

Ông ta biểu nhân viên cầu Phật. Xa gia đình và xa nhà, sống nơi xa xôi nầy, nơi họ sống chung với nhau, những người trẻ nầy hầu như trở thành trẻ con. Tuy nhiên, không phải thuộc những người chính thống Cọng sản, và có cách sống hết sức tự nhiên, chắc chắn ông ta có thể xoay xở được dưới mọi hoàn cảnh. Ông ta như sống trong một hòn đảo hoang vậy. Từ ngày 2 tháng Giêng, chỉ có tòa đại sứ Lào là nhóm độc nhất còn lại trong thành phố ma ám, chờ giờ phút cuối cùng của thủ đô. Tại những giờ phút như thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi họ quay trở lại với lời dạy của Phật tổ về con đường đi tới Niết bàn để thoát khỏi vòng luân hồi.

Khamphan cảm thấy không thoải mái khi được gởi đi làm đại sứ nước Xã hội Chủ nghĩa Lào tại quốc gia cực đoan nhất thế giới nầy. Khamphan là người to con, trán rộng và có nụ cười e lệ, được chọn làm đại sứ Lào ở Kampuchua Dân chủ không phải vì lòng tin cách mạng nhưng vì ông nói rành tiếng Khmer và có quan điểm tĩnh tại về cuộc sống. Sự bình tĩnh là điều hết sức cần thiết cho sự sống còn của thành phố Phnom Pênh dưới chế độ Pol Pot. Người tiền nhiệm của ông là một cán bộ cách mạng trẻ. Ông nầy gần như hoàn toàn không thể chịu đựng nổi sau một năm sống cô lập ở Phnom Pênh. Ông ta yêu cầu được về gấp -một việc chẳng có nghĩa lý gì dưới chế độ Khmer Đỏ ở Kampuchia cả. Mỗi tháng chỉ có một chuyến bay đi Vạn Tượng. Nhà ngoại giao nầy trở về Lào bằng thuyền, đi ngược sông Mekông. Chuyến đi kéo dài một tuần lễ.

Trước đây bốn mươi năm, Khamphan đã ở Kampuchia, khi ông là chú tiểu tu ở Học viện Phật giáo Phnom Pênh. Sau nầy lớn lên, có một thời gian dài ông làm nhân viên chính quyền và thị trưởng thủ đô hoàng gia Luang Prabang. Đó cũng là một trung tâm quan trọng nhất đối với việc tu học đạo Phật ở trong nước. Ông ta không bao giờ nghĩ là sẽ trở thành một nhà ngoại giao và chắc chắn không phải là ở một quốc gia tuyên chiến với tôn giáo. Nhưng ông ta không thể từ chối lời yêu cầu của Chính phủ Cách mạng Nhân dân Lào. Điều đó chứng tỏ sự khoan dung quá mức của đạo Phật.

Sau tám năm vắng mặt, ông lại trở lại Kampuchia. Phong vị của một thành phố đáng yêu theo kiểu Pháp không còn nữa. Ngoại trừ một ngôi chùa gần lâu đài hoàng gia, những lâu đài khác, hoặc bị bỏ hoang hoặc trở thành vựa thóc hay xưởng làm nước mắm. Các tu sĩ đều bị bắt hoàn tục, bị giết hay đi lao động ở vùng quê. Khmer Đỏ tự hào cho Khamphan xem một cuốn phim, qua đó, các cựu tu sĩ làm việc lao động cực nhọc như súc vật hoặc kéo cày ngoài ruộng.

Ở Kampuchia, giá trị con người hết sức thấp. Sáng ngày Chủ nhật 7 tháng Giêng, đời người không hơn gì một phút dù du, như giọt nước trên lá sen. Ông ta nghe đài ngoại quốc nói quân đội Việt Nam đang mở cuộc xâm lăng Kampuchia. Tiếng súng nổ rất gần khiến ông ta nghĩ rằng tình hình còn nghiêm trọng hơn cả tin tức trên đài phát thanh. Sự nguy hiểm còn rõ hơn vì họ là đoàn ngoại giao độc nhất còn lại ở Phnom Pênh. Đường giây liên lạc mật mã với Vạn Tượng cũng đã chết ngủm cách đây sáu ngày. Trả lời bức điện mừng năm mới của ông, về sự bất an ở đây, bộ trưởng Ngoại giao Lào ở Vạn tượng khuyến cáo họ đừng sợ và nên ở lại. Điều họ có thể làm được từ hôm nhận bức điện ấy rõ ràng là chẳng có cách nào thoát ra khỏi Phnom Pênh. Sau nầy ông ta biết là người hiệu thính viên ở bộ Ngoại giao Lào bị tiêu chảy đúng vào tuần lễ có cuộc chiến căng nhứt ở Phnom Pênh.

Đêm 2 tháng Giêng, một nhân viên đại sứ đánh thức ông dậy. Người nầy lo lắng báo cáo cho ông hay: “Khmer Đỏ đang di tản hầu hết nhân viên ngoại giao. Tuồng như họ chẳng hỏi han gì chúng ta.” Trời lúc ấy có trăng. Qua cửa sổ, ông ta thấy nhiều biến động trên đường phố do việc di tản các nhân viên ngoại giao. Binh lính Khmer Đỏ bận rộn chất hàng hóa dụng cụ của nhân viên ngoại giao đoàn lên xe tải, trong khi họ sẵn sàng ngồi trong xe hơi của họ. Một nhân viên tòa đại sứ Lào hỏi người lính gác Miên: “Có chuyện gì vậy? Đồng chí!.” Vì lý do an ninh, các cơ quan ngoại giao được chuyển đi Battambang. Anh ta trả lời, rồi nói thêm là tòa đại sứ Lào không có lệnh đi. Rõ ràng là Pol Pot muốn bắt giữ đồng minh của Việt Nam làm con tin ở tại thủ đô để ngăn ngừa việc tàn sát.

Quyết định triệt thối của Khmer Đỏ đã rõ. Buổi sáng ngày 2 tháng Giêng, đại sứ Nam Tư Mihailo Lompar tới thăm Pol Pot và trao cho ông ta một món quà là thuốc men của hội Hồng Thập tự Nam Tư gởi tặng. Pol Pot tin tưởng mạnh mẽ rằng cuộc xâm lăng của Việt Nam bắt đầu hồi cuối tháng Chạp sẽ bị đánh bại. Nhưng buổi chiều hôm đó, một cán bộ Ngoại giao ngần ngại báo cáo với ông đại sứ rằng ông ta phải “tạm thời di tản” khỏi thủ đô. Lompar nghĩ rằng đây chỉ là sự chuẩn bị hờ mà thôi. Tuy nhiên, khi người cán bộ nói: “Ông phải rời ngay đây trong khoảng một tiếng đồng đồ.” thì Lompar thấy vẽ kinh hãi trong mắt người cán bộ Khmer. Có phải vậy là chấm dứt chế độ Kampuchia Dân chủ? Trong vòng mấy tiếng đồng hồ, một đoàn dài gồm xe tải và xe du lịch chở tất cả đoàn ngoại giao, ngoại trừ Lào, hướng về Battambang. Đại sứ Lompar gặp đồng nghiệp Trung Hoa, ông Sun Hao, con người thường vui vẻ. Ông nầy hết sức khó chịu. Việc triệt thoái làm cho ông ta kinh ngạc.

Sau khi trãi qua một đêm ở Battambang, các đoàn đaị sứ Nam Tư và Trung Hoa quay lại Phnom Pênh bằng đường bộ. Đã có sắp xếp đưa hai đoàn nầy ra khỏi Kampuchia bằng máy bay đi Bắc Kinh. Ngày 6 tháng Giêng, súng nổ gần thủ đô hơn, vài trăm người Khmer và Trung Hoa chờ máy bay ở phi trường Pochentong. Với ngoại lệ đáng kể do Pol Pot chỉ thị, tất cả các nhà lãnh đạo Khmer Đỏ đều có mặt. Ai nấy mặt mày nghiêm nghị. Lompar biết ngay tại sao họ có mặt ở đây: Ông nhận ra khuôn mặt quen nhưng đã lâu không gặp của ông hoàng Sihanouk. Những người chủ Khmer Đỏ đều có mặt ở đây để miễn cưỡng tiễn ông Hoàng ra đi. Năm ngoái, Lompar yêu cầu được thăm ông hoàng vì ông là bạn cũ của Jozip Broz (Thống chế Tito) nhưng bị từ chối khéo. Cuối cùng, việc giam giữ ông hoàng qua rồi. Ieng Sary tới gần đại sứ Nam Tư xin lỗi một cách lịch sự. Còn rất nhiều người chờ chuyến bay nhưng tòa đại sứ của họ chỉ đưọc dành cho có 4 chỗ. Sary nói với ông ta như vậy. Cả đại sứ Trung Hoa và Nam Tư chọn ở lại để dành chỗ cho các người đang chờ.

Đến trưa, chiếc phi cơ sơn màu xanh bạc Boeing 707 của hãng Hàng không Trung Hoa hạ cánh. Sihanouk đầm đìa nước mắt - ông vui vì bây giờ ông được tự do thật sự, nhưng buồn vì thêm một lần trốn chạy khỏi quê hương. Ông ta ôm lấy đại sứ Nam Tư và nói bằng giọng nghẹn ngào: “Cho tôi gởi lời chào thống chế Tito và thưa với ông ta rằng nhân dân chúng tôi không bao giờ đầu hàng.” Sau khi máy bay cất cánh, hai ông đại sứ lại lên đường đi Battambang.

Từ sáng sớm ngày 7 tháng Giêng, khu vực chung quanh nhà ga Phnom Pênh rất xáo trộn. Hàng ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ em - cán bộ chính quyền và gia đình họ sống ở những trại bên ngoài thủ đô, -chạy tới đây bằng xe tải, xe gắn máy và xe đạp. Nhưng không đủ chỗ cho họ: Hai toa tàu trên sân ga đầy nhóc thương binh và những nhân viên dân sự đang lo sợ kinh hãi. Ieng Sary, con người thường gây rắc rối và cán bộ bộ Ngoại giao của ông đang cố gắng trấn an đám đông, dành thêm chỗ cho thương binh. Dưới ánh nắng gay gắt, phòng ốc dần dần trở thành cái lò. Sau 9 giờ một chút, tin điện đưa tới báo cho Ieng Sary biết một đạo quân Việt Nam cách thủ đô có ba dặm. Ieng Sary ra lệnh khởi hành. Hàng trăm người tuyệt vọng ngồi trên nóc toa, đeo vào thành cửa. Chuyến tàu cuối cùng hết sức hỗn độn rời khỏi sân ga, hướng về Battambang.

Ngồi trên sân thượng tòa đại sứ, Khamphan lấy làm lạ tại sao mọi sự chấm dứt. Từ bình minh lửa cháy ầm ầm cùng với tiếng súng nổ. Khoảng mười giờ sáng, một chiếc xe Jeep lái vào tòa đại sứ đang bị canh giữ để đón những người lính cuối cùng đang đứng gác. Trước khi rời đi, một người trong bọn họ bất thình lình bắn một loạt đạn AK-47. Chẳng ai bị thương. -Một nhân viên Lào đang đứng nhìn nơi của sổ bỗng cúi đầu xuống như vịt. Nhưng một viên đạn trúng vào chân dung thủ tướng Kaysone và hai khung cửa kiếng bể rơi xuống đất.

Thành phố ma quái ngày trước bây giờ gần như điên dại. Thỉnh thoảng, những chiếc xe tải do Trung Hoa chế tạo chất đầy người chạy xuống đại lộ Monivong với một tốc độ khủng khiếp. Tiếng đại pháo nổ đều đặn bị át đi bởi tiếng trực thăng ầm ầm, tiếng cánh quạt ù ù, làm xáo động không khí buổi sáng sớm. Máy bay vội vàng biến mất ở chân trời phía tây. Có phải Pol Pot ở trên đó? Khamphan tự hỏi như vậy. Đứng trên sân thượng tòa đại sứ Lào, ông ta chứng kiến thời điểm chấm dứt một giai đoạn. Khoảng trưa, ông nhận ra những tiếng động mạnh khác thường. Ông nhìn xuống. Ở cuối đường, khoảng nằm giữa những khu nhà cao tầng ở hai bên đại lộ Monivong là con đường chính của thành phố Phnom Pênh: Nhiều chiến xa nối đuôi nhau, mang cờ đỏ vàng bay phất phới, khói xe màu xanh nhạt tỏa lên không. Quân Việt Nam đang tới. Ông gọi to nhân viên trong tòa đại sứ: “Treo cờ lên! Treo cờ lên.”

Một giờ sau, bí thư thứ hai của tòa đại sứ bước ra đường, nồng nhiệt ra dấu cho một toán nhỏ quân tuần tiểu Việt Nam đang đi xuống đại lộ vắng tanh. Ngạc nhiên vì tiếng gọi của ông, họ đưa súng về phía đó. Ông ta vội đưa tay lên quá đầu. Khi họ tới gần, ông ta giải thích với một người Khmer độc nhất trong nhóm biết rằng ông ta là nhà ngoại giao Lào, rồi chỉ vào tòa đại sứ. Tối ấy, khoảng một chục binh lính Việt Nam đến canh giữ tòa đại sứ. Cơn ác mộng đã qua. Khamphan phấn khởi, ra lệnh mở tiệc với cơm và thịt hộp thết đãi những người đến giải phóng họ. (1)

Hiệp ước hữu nghị, chẳng có ai

Trong khi những nhà ngoại giao Lào và những người lính mới đến canh giữ tòa đại sứ mở tiệc mừng thì thế giới ngạc nhiên. Chỉ có hai tuần lễ, Việt Nam đã đè bẹp nước Xã hội Chủ nghĩa láng giềng, lật đổ quyền lực đồng minh độc nhất của Trung Hoa ở Đông Nam Á. Thời điểm cuối cùng đã tới sau nhiều tháng ngoại giao căng thẳng và chuẩn bị quân sự ở cả hai phía Việt Nam và Trung Hoa. Thỏa hiệp Việt-Xô xảy ra tiếp sau Hoa-Mỹ bình thường quan hệ ngoại giao, sự kiện nầy lại đưọc tiếp nối bằng việc Việt Nam xâm lăng Kampuchia và Trung Hoa xâm lăng Việt Nam. Trong vòng ba tháng, bản đồ chính trị châu Á vẽ lại bằng những đổi thay bi thảm.

Trong tiến trình trục xuất Hoa kiều ra khỏi Việt Nam hồi mùa hè năm 1978, Việt Nam cố gắng vẽ ra một nước Trung Hoa như là mối đe dọa cho toàn vùng Đông Nam Á. Đồng thời, họ cố gắng một cách tuyệt vọng để củng cố quan hệ với các nước Đông Nam Á, kiếm tìm thông cảm, ủng hộ họ chống lại Trung Hoa và Kampuchia. Trong việc nầy, họ thực hiện một điều trở trái làm mặt vì họ đã từng khinh miệt các nước trong Hiệp hội Đông Nam Á,(ASEAN). Hồi năm 1967, trong khi Việt Nam CS đang chống lại Hoa Kỳ, đảng Cọng sản Việt Nam thường ngày gọi các nước ASEAN “là sản phẩm của chính sách đế quốc Mỹ nhằm can thiệp và xâm lược.” (2)

Nhưng giữa năm 1976, Hà Nội yêu cầu các nước ASEAN hãy thiết lập quan hệ bình thường và hợp tác với Hà Nội dù cho vẫn còn một khoảng cách.

Tuy nhiên, chủ trương của Hà Nội đối với các nưóc ASEAN có khuynh hướng thân Tây phương đành phải lặng lẽ gác lại khi xung đột Hoa-Việt lên cao. Bắc Kinh và Hà Nội bắt đầu tranh giành gay gắt “trái tim và khối óc” của các nước ASEAN. Tháng Sáu/1978, khi Việt Nam bắt đầu oanh tạc hạn chế khu vực ở Kampuchia, khoảng ba chục phi vụ một ngày, họ tuyên bố sẵn sàng hợp tác với khối ASEAN, -đến bây giờ vẫn còn khăng khăng từ chối. Tháng Bảy/1978, Phan Hiền đi thăm Mã Lai và tuyên bố ủng hộ hòa bình và trung lập khu vực nầy.

Tháng Chín/1978, thủ tướng Phạm văn Đồng thực hiện chuyến đi thăm lịch sử, ve vản các nước chống cọng Đông Nam Á. Trong một hành động đặc biệt đối với Mã Lai chống Cọng, Đồng đến đặt vòng hoa tại đài tưởng niệm các chiến sĩ trận vong trong cuộc tiểu trừ Cọng sản nổi loạn. Ông ta còn xin lỗi riêng với các nhà lãnh đạo Mã Lai vì Hà Nội đã viện trợ cho cuộc nổi loạn nầy, cuộc nổi loạn đã bị bỏ rơi vì “sự thông cảm bị sứt mẻ”. Ở Bangkok, Đồng bảo đảm với thủ tướng Thái Lan là Việt Nam không ủng hộ đảng Cọng sản Thái Lan (CPT), xác nhận đó là đảng phi pháp. Thực ra, nhà lãnh đạo Việt Nam khẩn khoản muốn ký một thỏa ước thân hữu và hợp tác với các nước trong khối ASEAN để hợp thức hóa một tiến trình mới, xích lại gần nhau hơn. Đề nghị đó bị nhóm nầy từ chối một cách lịch sự, họ quyết định không ký kết bất cứ một thỏa ước chính thức nào với Việt Nam. Thực ra, họ có ký một bản thông cáo chung ít quan trọng hơn, giao kết tình trạng hữu nghị giữa các nước nầy với Việt Nam.

Cố gắng của Việt Nam nhằm lôi kéo Thái Lan vào liên minh chống Trung hoa cũng bị thất bại. Trong khi Kriangsak và Đồng ký thông cáo chung chủ trương không “thực hiện những cuộc lật đổ, trực tiếp hay gián tiếp, để chống đối lẫn nhau và xử dụng lực lượng để đe dọa hay chống đối nhau” thì Thái Lan từ chối đề nghị của Việt Nam gài thêm danh từ “nước thứ ba” xử dụng lãnh thổ của mỗi bên nhằm mục đích thù địch. Điều nầy là để đả kích Trung Hoa hiện đang xử dụng Kampuchia trong mưu đồ chốngViệt Nam.

Việc các nước ASEAN từ chối ký thỏa hiệp thân hữu làm cho Hà Nội phải đảo lộn kế hoạch dùng lá chắn ngoại giao đối với hành động quân sự mạo hiểm của họ ở Kampuchia. Với sự ngây thơ đáng ngạc nhiên, Việt Nam hy vọng đề nghị ký thỏa ước của họ sẽ triệt tiêu nỗi sợ hãi về chủ nghĩa bành trướng của Việt Nam, và là một bằng chứng lòng thành thực của họ đối với quan hệ hữu nghị vớI các nước ASEAN, dù cho họ có những hành động quân sự ở Kampuchia. Một loạt thỏa ước hữu nghị với các nước láng giềng và bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ là điều các nhà lãnh đạo Hà Nội tính toán, giúp Hà Nội giải trừ được lo ngại khi họ tiến tới ký thỏa ước với Moscow.

Quá trình ngoại giao do Việt Nam thực hiện mau lẹ hồi mùa thu có liên hệ chặt chẽ với thời biểu tính toán hoạt động quân sự của họ. Cuối mùa hè 1978, khi Hà Nội đề nghị chuyến viếng thăm của Đồng tới các nước trong khối ASEAN, các nước nầy ngạc nhiên vì Việt Nam muốn thực hiện chuyến viếng thăm đó không trễ hơn tháng Mười. Nhiều nhà ngoại giao khối ASEAN cho rằng Việt Nam muốn giành trước chuyến đi thăm của phó chủ tịch Đặng Tiều Bình tới Thái Lan và Tân Gia Ba sẽ diễn ra vào tháng Mười một. Chẳng phải chỉ là vấn đề thời biểu của các cuộc thăm viếng nầy. Hà Nội cũng gây áp lực lớn với một vài nước ASEAN để đạt đưọc thỏa hiệp hữu nghị. Các nhà ngoại giao Mã Lai ở Hà Nội -từ bí thư thứ hai của đại sứ -được những người đối thoại phía Việt Nam báo cho biết nếu chuyến đi của Đồng thất bại, Việt Nam sẽ cứu xét lại chính sách ngoại giao của họ.(3) Dù việc “thành công” đó không được xác định rõ, như Việt Nam đã nói trong khi đề nghị ký thỏa hiệp thân hữu, bên kia nửa địa cầu, tại Nữu Ước, bộ trưởng ngoại giao Việt Nam, thúc đẩy chính phủ Hoa Kỳ tiến nhanh hơn trong việc ký một bản thông cáo chung về việc thiết lập quan hệ ngoại giao hai bên.

Nhìn chung, công việc ngoại giao của Việt Nam được xúc tiến nhanh có lẽ là do quyết định tiến vào Kampuchia vào mùa khô bắt đầu vào tháng Chạp. - Đất đai cứng để chiến xa có thể di chuyển được và vụ mùa thu hoạch xong có sẵn lương thực cho quân kháng chiến Kampuchia do Hà Nội huấn luyện từ đầu năm 1978. Thời điểm xâm lược không thể quá kề cận với ngày ký thỏa ước với Liên Xô vì nó có thể tạo ra ấn tượng vai trò Liên Xô trực tiếp và chỉ đạo trong cuộc phiêu lưu ở Kampuchia hơn là do Hà Nội muốn cho mọi người thấy chính họ mới là chủ động. Điều này cũng làm cho Hà Nội mau lẹ thực hiện thỏa uớc ký với Moscow hồi mùa thu, việc bình thường quan hệ với Hoa Thịnh Đốn và ký hiệp ước thân hữu với các nước ASEAN trước khi mọi việc xảy ra ở Kampuchia. Trong khi tìm cái dù che Liên Xô, Việt Nam cũng tìm kiếm bảo đảm từ các cửa ngõ khác của Tây phương, không đóng sầm lại vì sự xung đột với Trung Hoa và Kampuchia, không thể làm cho Việt Nam bị cô lập. Việt Nam có lẽ cũng tính toán việc củng cố vị trí ngoại giao, tăng cường thế mạnh của họ khi nói chuyện với Liên Xô.

Tìm kiếm bảo đảm từ phía Liên Xô

Vào giữa tháng Mười, khi Phạm Văn Đồng đi thăm các nước Đông Nam Á trở về thì kế hoạch của Việt Nam tuồng như gặp trở ngại. Các nước trong hiệp hội Đông Nam Á nghi ngại nên từ chối ký thỏa ước. Lúc đó Việt Nam lại gặp phải nhiều trận mưa bất ngờ dữ dội, lũ lụt và giông bão khắp khu vực sông Hồng, miền Trung Việt Nam và đồng bằng sông Mêkông trong suốt hai tháng Tám và Chín. Gần một triệu ruởi tấn lúa gạo bị hư hại, 20 phần trăm gia súc bị dịch chết. Theo dự đoán, sự thiếu hụt lương thực trong năm đạt tới con số bi đát: ba triệu tấn. (4)

Lụt gây ảnh hưởng không những ở quân khu 9 của Việt Nam - quân khu được giao nhiệm vụ tấn công Kampuchia- mà còn ở cả một vùng rộng lớn phía đông Kampuchia nữa. Đây là vùng sông Mêkông chảy về phía Nam. Điều ấy cho thấy một vùng sủng nước rộng lớn đang chờ đón chiến xa Việt Nam một thời gian lâu dài sau khi mưa đã dứt. Điều đáng quan ngại là chẳng thấy tin tức gì từ phía Hoa Kỳ. Richard Holbrooke rời Mỹ, thực hiện chuyến đi thăm các nước châu Á trong khi Thạch nôn nóng chờ đợi ở Nữu Ước để ký một thỏa ước bình thường quan hệ ngoại giao.

Vì tháng Mười đã gần hết, bộ chính trị đảng Cọng sản Việt Nam tuồng như quyết định, dù tình hình không thuận lợi lắm, họ cũng không thể trì hoãn ký thỏa ước với Moscow và ra lệnh cho Thạch đi Liên Xô. (5)

Tối ngày thứ Tư, 1 tháng Mười một, tuyết nhẹ bao phủ phi đạo phi trường Vnukovo của thủ đô Moscow, khi chiếc phi cơ phản lực đặc biệt hạ cánh giữa tiếng vỗ tay chào mừng. Trong bầu không khí ấm áp bất thường, năm thành viên bộ chính trị đảng Cọng sản Liên Xô và chín thành viên trung ương đảng, vài chục viên chức cao cấp chính quyền tập trung tại phi trường. Tổng bí thư đảng Cọng sản Liên xô Leonid Brezhnev ăn vận quần áo ấm nặng nề bước tới cửa máy bay - dưới ông kính truyền hình - ôm hôn thắm thiết tổng bí thư đảng Cọng sản Việt Nam Lê Duẫn. Sau các bản quốc thiều, và sau khi Lê Duẫn cùng Phạm Văn Đồng duyệt hàng quân danh dự, đoàn đại biểu lên xe về nhà quốc khách. Dọc đưòng có treo cờ đỏ sao vàng của nước Cọng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bên cạnh cờ búa liềm của Liên Xô. Biểu ngữ chăng ngang đường với hàng chữ “Chào mừng bạn hữu Việt Nam thân mến”, “Chào nước Cọng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam “Tiền đồn Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Nam Á”.


Каталог: upload
upload -> -
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 1.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   23   24   25   26   27   28   29   30   ...   35




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương