Nayan Chanda hoànglonghải



tải về 1.97 Mb.
trang25/35
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.97 Mb.
#13140
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   ...   35

Brzezinski dự trù nếu các nhà lãnh đạo Trung Hoa thấy được tính cách nghiêm trọng trong chính sách chống Liên Xô của chính quyền Carter, thì Trung Hoa sẽ uyển chuyển hơn đối với quan hệ không chính thức của Hoa Kỳ với Đài Loan. Ngay Trung Hoa cũng không nhượng bộ về vấn đề Đài Loan, thì vấn đề hợp tác an ninh sẽ đẩy họ tiến tới gần Hoa Kỳ hơn mà không cần thiết lập quan hệ ngoại giao hoàn toàn. Ông ta bảo đảm với Đặng là Hoa Kỳ chấp nhận điều kiện của Trung Hoa về việc cắt đứt quan hệ chính thức với Đài Loan - đúng ra, đây là phương hướng thứ hai của Vance, hồi tháng Tám/1977, ông ta đã thủ sẵn trong túi nhưng không bày tỏ cho Trung Hoa biết- Ông ta cũng nói với Đặng là tổng thống Carter quan tâm đến những vấn đề nầy. Như là một chứng cớ bày tỏ sự nghiêm chỉnh của Hoa Kỳ trong khi tìm kiếm hợp tác với Trung Hoa, Brzezinski mang tới cho Đặng một “món quà” mà chắc chắn sẽ gây nên ấn tượng sâu xa.

Samuel Huntington, một thành viên tham mưu của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, người đã có lần làm cố vấn cho chính quyền tổng thống Johnson về vấn đề đánh dẹp bạo loạn ở Việt Nam, thảo luận với Trung Hoa về vấn đề tối mật “Hiệu Đính Giác Thư Ngoại giao số 10 của Tổng Thống” -một bản đánh giá tình hình thế giới, đặc biệt quan tâm đến sức mạnh của Liên Xô. Công việc nầy nhằm thuyết phục Trung Hoa là Hoa Thạnh Đốn coi Trung Hoa là thành viên trong liên minh chống Moscow. Brzezinski thông báo cho Trung Hoa hay rằng từ nay trở đi, Hoa Kỳ quan tâm đến việc bán kỷ thuật “xử dụng song phương” cho Trung Hoa dễ dãi hơn và Hoa Kỳ sẽ không chống lại các nước

đồng minh Hoa Kỳ bán vũ khí cho Trung Hoa. Để chứng tỏ sự nghiêm chỉnh, Hoa Kỳ sẵn sàng trao kỷ thuật và phát triển quan hệ giữa hai nước, Brzezinski để Benjamin Huberman, cố vấn khoa học và kỷ thuật của tổng thống và Morton Abramowitz, phụ tá thứ trưởng Quốc phòng về an ninh nội bộ cùng tháp tùng phái đoàn ông ta.

Abramowitz, một quan chức bộ Quốc phòng, người có thời gian lâu dài tham gia kế hoạch hợp tác quân sự Hoa-Mỹ. Ông ta là người chỉ đạo một trong những chương trình sớm nhất của Ngũ Giác đài, nghiên cứu khả năng thiết lập quan hệ quân sự và chiến lược với Trung Hoa.(22) Bây giờ ông ta trở thành quan chức đầu tiên của bộ Quốc Phòng Mỹ tới thăm Trung Hoa. Ông ta tách khỏi phái đoàn để họp mật với một quan chức cao cấp của bộ Quốc Phòng Trung Hoa. Sau nầy, một thành viên của nhóm ông ta kể lại: “Thực ra, đó không phải là những cuộc thảo luận, mà là độc thoại. Abramowitz nói hơn một giờ đồng hồ, đánh giá về việc quân đội Liên Xô triển khai dọc biên giới Hoa-Nga.” Trong cái gọi là lần đầu tiên chia xẻ tin tức tình báo quốc phòng ở cấp bộ trưởng, ông ta cung cấp cho Trung Hoa tin tức vũ khí chiến lược Liên Xô. Để thỏa mãn quan chức Trung Hoa, ông ta lôi trong cặp ra phóng ảnh tình báo tối mật về việc Liên Xô triển khai quân đội và chiến xa dọc theo biên giới Nga-Hoa. Benjamin Huberman cũng vậy, ông ta thực hiện một cuộc họp riêng với Trung Hoa về khả năng Hoa-Mỹ hợp tác trong lãnh vực khoa học kỷ thuật, đặc biệt về kỷ thuật tình báo điện tử để thu thập tin tức Liên Xô. Ý kiến được nêu lên trong suốt cuộc thảo luận là năm tới Hoa Kỳ sẽ thiết lập các trạm kiểm soát do Mỹ huấn luyện dọc theo biên giới Nga-Hoa, để theo dõi các cuộc thử nghiệm hỏa tiển của Liên Xô. (5)

Ngay cả Vance, người chủ trương mạnh mẽ kế hoạch hợp tác an ninh với Trung Hoa cũng không chống lại việc thiết lập hệ thống đài quan sát, bởi vì, như một nhân vật thân cận với ông ta sau nầy giải thích, sẽ thúc đẩy Liên Xô ký thỏa hiệp SALT (Thỏa ước giới hạn vũ khí chiến lược -nd) và thực hiện thỏa hiệp có thể bán vũ khí được quốc hội thông qua.

Dĩ nhiên, Brzezinski có mục tiêu hoàn toàn khác biệt trong khi thúc đẩy hợp tác an ninh và tình báo. Sau nầy, một thành viên trong toán ông ta giải thích: “Brzezinski cố gắng làm tình làm tội Trung Hoa, ngụ ý cho họ hy vọng nhiều hơn như chúng ta nghĩ.” Khi trở về Hoa Thạnh Đốn, William Gleysteen viết một bài đã kích chiến thuật của Brzezinski trong việc tính toán nhằm nâng cao hy vọng của Trung Hoa nhận được hỗ trợ từ phía Hoa Kỳ nhưng không được chấp thuận hay thảo luận ở cấp cao nhất. Vance thi vui thích với bài viết ấy còn Brzezinski thì không quan tâm tới nó.

Trong chính cuộc thảo luận của ông ta với Hoàng Hoa và Đặng Tiểu Bình, ông cũng thêm ân huệ cho Trung Hoa bằng cách nhấn mạnh tới nhu cầu hợp tác chặt chẽ hơn “trên những vấn dề như Afghanistan, viện trợ cho Pakistan và hỗ trợ cho những cố gắng ở vùng Đông Nam Á, xem lại hoạt động của Liên Xô giúp Việt Nam bành trướng. (24) Lời nói nầy coi như là sự hưởng ứng đối với việc Trung Hoa hỗ trợ cho Khmer Đỏ bởi vì chỉ có một quốc gia ở Đông Nam Á lúc bấy giờ chống “chủ nghĩa bành trướng Việt Nam” là nước Kampuchia Dân chủ của Pol Pot mà thôi. Về sau, một cọng sự viên của Brzezinski nhắc lại: “Brzezinski không những nuốt trọn mối đe dọa của Liên Xô đối với Trung Hoa mà còn cả Việt Nam, bù nhìn của Liên Xô nữa. Ông ta còn thừa nhận lập luận của Trung Hoa rằng phương cách trừ bỏ đe dọa của Liên Xô từ phía Việt Nam là thúc đẩy họ hợp tác chặt chẽ với nhau hơn. Điều nầy, cuối cùng tạo ra sự cọ xát giữa hai bên khiến cho sự hiện diện của Liên Xô phải chấm dứt.” (25) Brzezinski cũng công khai tuyên bố Hoa Kỳ xích gần lại Trung Hoa bằng cách hỗ trợ Trung Hoa chống “bá quyền thế giới và khu vực” trong bữa tiệc do Trung Hoa khoản đãi. Vance băn khoăn khi nghe những lời tuyên bố như thế, đối với ông là không rõ ràng lắm. Vance nhấn mạnh bằng một cái nháy mắt tinh quái: “Thật là ngu xuẩn. Lời phát biểu của Brzezinski và những điều ông ta nói khi thăm Vạn Lý Trường Thành chắc chắn làm vui lòng người Trung Hoa. Nhưng nó chẳng đạt được gì hết” (26)

Trong khi thăm Vạn Lý Trường Thành, Brzezinski thách người thông dịch viên Trung Hoa, Nancy Tang (Nancy Đường) “Ai lên đỉnh trường thành trước nhất thì coi như người đánh thắng Liên Xô ở Ethiopia.” Ông ta lên tới đỉnh trường thành trước sự sửng sờ của người đồng hành. Trên đường đi xuống, ông ta gặp một số sinh viên sĩ quan hải quân đang đứng họp nhau lại để chụp hình. Ông ta bước ngay vào giữa đám họ và chụp hình chung. “Người ta cảm thấy gì khi đứng chung với những con mồi lớn nhất của Liên Xô trên thế giới”. Đó là câu ông ta hỏi một sinh viên đang bối rối, người nầy chẳng có một ý niệm gì về con người có “cái mũi dài quỉ quái” là ai.

Tuy nhiên, sự phiền bực cái trò hề nầy có thể có đối với Vance. Chuyến đi Trung Hoa của Brzezinski tạo nên một động lực mới cho tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Điều quan trọng hơn đối với Trung Hoa là sự hỗ trợ của ông ta cũng như sự thông cảm cho vị thế của Đặng, đem lại cho Đặng một sự hợp tác thực tế trong buổi họp quyết định của bộ Chính Trị hồi tháng Bảy/ 1978, đưa tới việc “dạy cho Việt Nam một bài học.”

Một tháng sau khi Brzezinski từ Trung Hoa về, một cuộc họp triệu tập tất các cố vấn về chính sách của Carter. Vance, Harols Brown, Brzezinski, và Hamilton Jordan cùng họp với Carter để quyết định chọn một ngày giữa tháng 12 cho việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Hồi đầu tháng Bảy, một cách bí mật, Woodcock ở Bắc Kinh thực hiện một bản tường trình chi tiết để giải quyết sự dị biệt giữa Trung Hoa và Đài Loan. Về sau, Vance viết: “Mỉa mai thay, như nó cho thấy, ý nghĩ xử dụng băng tầng của Tòa Bạch Ốc (mật danh Voyager) để liên lạc với Woodcock là chính của Woodcock và của tôi.” (27) Họ nghĩ rằng ít nguy cơ tiết lộ hơn có thể tạo ra sự nguy hiểm cho những cuộc thảo luận rất nhạy cảm nầy. Cuối cùng, có điều cho thấy có một sự sắp đặt sẵn có thể làm cho Brzezinski đẩy bộ Ngoại giao ra khỏi tiến trình bình thường hóa nầy vào những giờ phút quyết định nhứt.

Kế hoạch dựng tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội

Sau cuộc họp ngày 27 tháng Chín ở Nữu Ước, văn phòng đặc trách về Việt Nam tại bộ Ngoại giao thành lập một nhóm công tác đặc biệt để nghiên cứu việc thiết lập tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội. Biết rõ những khó khăn của người Úc, Tây Đức và các tòa đại sứ khác đã gặp phải trong khi vội vã, Holbrooke muốn ký một thỏa hiệp chi tiết với Việt Nam trước khi Hoa Kỳ trương cờ lên ở Hà Nội. Phụ tá thứ trưởng ngoại giao Robert Oakly và nhân viên văn phòng về Việt Nam, Lào và Kampuchia, Steve Lyne thực hiện mấy chuyến đi Nữu Ước để bàn sâu vấn đề với phụ tá đặc biệt của Thạch, Trần quang Cơ, những chi tiết -từ số nhân viên ngoại giao và phương cách gởi các bưu kiện ngoại giao và việc phi cơ khổng lồ C-5A Galaxy đáp xuống Hà Nội để vận chuyển dụng cụ.

Tại bộ Ngoại giao, người ta bắt đầu tuyển chọn nhân viên cho tòa đại sứ Mỹ tại Hà Nội. Phụ tá đặc biệt của Holbrooke, Ken Quinn, viết cho ông ta một bản lưu ý về lý do an ninh, không ai có vợ Việt Nam được đi Hà Nội cả. Douglas Pike, một chuyên viên đặc biệt có tham gia chiến tranh Việt Nam làm việc với Phòng Thông tin Hoa Kỳ nhiều năm ở Saigon, phân tích các bản tường tình về tài liệu bị đánh cắp và lời khai trong các cuộc phỏng vấn, nghe nói tới việc bình thường hóa, khi ông ta đang ở tình trạng lững lơ vì bị bãi việc ở Ngũ Giác Đài, bèn làm đơn xin làm việc ở Hà Nội. Tuy nhiên, với một vài ngoại lệ, các nhân viên ngoại giao không gặp trở ngại. Steve Lyne kể lại lần gặp một đồng sự ở hành lang bộ Ngoại giao. Nguời ấy nói:“Tôi nghe ông đang tìm người đi Hà Nội, đừng quên là ông có biết tôi.”

Việc chuẩn bị bình thường hóa quan hệ với Việt Nam bắt đầu được phổ biến cho công chúng và quốc hội. Sự thăm dò cho thấy công chúng ủng hộ. Ngày 29 tháng Chín/1978 -hai ngày sau khi Thạch bỏ điều kiện tiên quyết- phụ tá Bộ trưởng ngoại giao về “Quan hệ Công chúng” Hodding Carter phân tích kết quả cuộc thăm dò của thông tấn NBC và kết luận”ít ra có thể thu hoạch được sự ủng hộ đông đảo việc công nhận (Việt Nam) nếu như việc viện trợ tài chánh không đạt tới mức độ lớn trong bình thường hóa như thế, và việc giới hạn cần được giải thích, công chúng thấy rằng Việt Nam đã thực hiện những cố gắng đáng kể để làm rõ vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam.”

Trong việc chuẩn bị để đương đầu với các nhà lãnh đạo quốc hội, Holbrook chỉ thị cho bộ tham mưu của ông soạn sẵn những lý do chính, ngắn gọn, tại sao bây giờ phải thiết lập quan hệ với Việt Nam. Bản ghi nhận có tiêu đề “Quan hệ Ngoại giao với Việt Nam -hiện nay” ghi nhận rằng Việt Nam trở thành một võ trường xung đột giữa Liên Bang Xô Viết và Trung Hoa và Liên Xô đã gia tăng sự có mặt ở đây cũng như viện trợ cho Việt Nam trong cuộc xung đột với Kampuchia. Bản ghi nhận nầy viết: “Sự hiện diện của Mỹ ở Hà Nội có thể làm cho tình hình tốt đẹp hơn để điều hướng cuộc cạnh tranh nầy, và có thể đưa ra những đường hướng nhằm điều chỉnh cả hai nước Cọng sản mạnh nầy.” Bản ghi nhận viết tiếp, nếu không có quan hệ với Việt Nam “Rõ ràng hiện giờ Hoa Kỳ không có ảnh hưởng gì cũng như không hiểu biết gì về tình hình Việt Nam hoặc những hành động tương tự như vậy.” Một tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội “có thể làm cho việc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh có hiệu quả hơn là qua những cuộc họp bất thường ở Paris và Băngcốc và những cuộc họp không chuẩn bị trước với Việt Nam và các cuộc thăm viếng của quan chức chính phủ cũng như của các nhân vật thuộc khối lập pháp.” Sự có mặt của tòa đại sứ cũng có thể giúp đỡ các công ty Mỹ trong việc làm ăn với các công ty tương ứng ở các nước khác.

Trong khi đó thì nhóm hành động đặc biệt bận bịu tìm kiếm những điều quan yếu để thiết lập tòa đại sứ ở Hà Nội. Có ai nhắm tới tòa lãnh sự Mỹ cũ ở Hà Nội? Michael Eiland, một đại tá nói được tiếng Việt làm việc tại Cơ quan Quân sự Chính trị của bộ Ngoại giao đến có mang theo một phim ảnh do ông chụp tòa nhà lãnh sự nầy ở Hà Nội trong cuộc viếng thăm của các nhân vật quốc hội hồi hai tháng trước. Eiland cũng không khó khăn khi chụp hình một biệt thự trên đường Hai Bà Trưng ở trung tâm thành phố Hà Nội. Ông ta kể lại: “Đó chỉ là tòa nhà màu xanh lá cây ở Hà Nội, giống một đôla.” Khi ông ta nâng máy ảnh để chụp hình ngôi nhà lịch sử đó, ngôi nhà phía Việt Nam đã sơn lại màu sáng với hy vọng người Mỹ sẽ xử dụng nó thì một người lính chạy tới cản ông ta. Kết quả là tấm phim không được rõ. Tuy nhiên đó chỉ là ngôi nhà độc nhất trong kế hoạch của bộ Ngoại giao. Cuối cùng, nhóm hành động đặc biệt tìm trong văn khố bản in môt tòa nhà có thể xử dụng được. Michel Oksenberg kể lại: “Trong một lần đến bộ Ngoại giao, tôi ngạc nhiên thấy vô số tài liệu đem ra xử dụng cho viễn ảnh cuộc bình thường hóa nầy -hàng trăm vấn đề khó khăn, vấn đề vị trí tòa đại sứ, vấn dề liên lạc -toàn bộ công việc.” (28)

Có quyết định cho Dennis Harter, một quan chức khác nói được tiếng Việt đi thăm Việt Nam vào tháng Chạp, mang theo kế hoạch tìm kiếm địa điểm tòa đại sứ.

Từ khi Việt Nam CS chiếm tòa đại sứ Mỹ cũ ở Saigon, nay Harter đi một vòng thanh sát. Như ông ta kể lại, đó là chuyến hành trình xuyên lịch sử. Các tấm thảm đã ẫm mốc, sơn tường tróc lỡ, nói cách khác thì thời gian đã ngừng lại kể từ tháng Năm/1975 khi các viên chức ngoại giao hết nhiệm vụ. Các số báo TIMES và NEWSWEEK mô tả lại vết thương cuối cùng đối với Miền Nam Việt Nam còn lại trên bàn, như những chén bát chưa rữa của bữa ăn cuối cùng. Văn phòng Xây dựng thuộc bộ Ngoại giao từ chối đảm nhận việc sửa chữa mặc dù được bảo đảm sẽ được bồi hoàn sở phí sau nầy. Văn phòng nầy bối rối vì họ đã chi trả mua một số xe hơi nay vẫn còn nằm trong kho. Bây giờ không cần phải sơn phết hay chùi rửa tòa nhà. Bộ ngoại giao không biết rằng một kế hoạch khác đang được chuẩn bị ở tòa Bạch ốc.


Đánh lá bài Trung Hoa

Vào buổi tối 27 tháng Chín, khi một toán người Mỹ đảm trách vấn đề Việt Nam ra về sau khi thảo luận với Thạch về việc mở tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội, tưởng như có khả năng tiến tới được. Vài người có vẽ bi quan. Michel Oksenberg nhớ có nói với Holbrooke: “Dick, Việt Nam họ trêu ghẹo anh. Họ chọc quê anh.” Oksenberg ngạc nhiên bởi vì Thạch dai dẵng đòi viện trợ. Oksenberg nói: “Ông ta chỉ bỏ điều kiện tiên quyết vào phút chót mà kết quả là do Holbrooke bền bỉ từ khước.

Xong rồi, tức thì ông ta đòi ký một thỏa ước ngoại giao. Ông ta phải biết rằng cung cách ngoại giao không phải là làm như vậy.” Ông ta được biết Việt Nam làm như vậy là chỉ muốn quảng cáo cho họ -họ muốn được xem là một trong những người thực hiện được việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao, nhưng họ thiếu nghiêm chỉnh về việc ấy. Bốn năm sau, hồi tưởng giai đoạn ấy, Oksenberg nghĩ rằng hồi mùa thu năm 1978, có những động lực đã lôi kéo hai nước đi về hai hướng khác nhau. “Tay đã đưa ra nhưng có sự nhận thức rằng họ không thể bắt tay nhau được”. (29)

Người ta biết như vậy là do nhận xét của Oksenberg về thái độ chống đối bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam của Brzezinski. Hoặc ông ta nói ra là vì ông ta biết thế mà thôi. Trái với điều ông ta nghĩ, quả thật Việt Nam rất nôn nóng, hầu như tuyệt vọng nữa, muốn ký một thỏa ước ngoại giao với Hoa Kỳ. Chiến thuật của Thạch, như Holbrooke đoán đúng, chỉ là một cố gắng cuối cùng bảo đảm lời hứa viện trợ của Mỹ trước khi họ từ bỏ yêu sách của họ. Việt Nam muốn xúc tiến công việc nầy chẳng qua họ được thuyết phục rằng một khi họ từ bỏ điều kiện tiên quyết thì họ có thể mau lẹ ký được một thỏa ước với Hoa Kỳ.

Holbrooke không bi quan như Oksenberg. Ông ta biết có trở ngại nhưng không phải là không vượt qua được. Holbrooke cũng biết quan điểm của Brzezinski. Ông ta cũng biết Việt Nam và Kampuchia đang ở trên bờ vực chiến tranh và sự liên hệ của họ với siêu cường. Một thời gian ngắn trước khi gặp Thạch, máy bay thám thính RC 135 của Hoa Kỳ bay gần bờ biển miền Trung Việt Nam thu nhận được tín hiệu cho biết một sư đoàn cọng sản Việt Nam đang triển khai ở biên giới Kampuchia. Các tin tình báo khác cũng cho biết hoạt động quân sự đang triển khai ở biên giới Kampuchia-Viêt Nam và đang hâm nóng chiến tranh biên giới. Raphael Iungerich, trưởng ban phân tích về Đông Dương của cơ quan tình báo bộ Ngoại giao, hồi tháng Tám viết một bản nhận định, tiên đoán Việt Nam trù định kế hoạch lật đổ Pol Pot trong vòng 6 tháng. (30)

Hoa Kỳ cũng quan tâm về việc Việt Nam thắt chặt hơn nữa quan hệ với Moscow bằng cách tham gia khối Comecon. Holbrooke nói rõ mối quan tâm nầy với Thạch. Thạch trấn an ông ta: “Chủ ý của chúng tôi đối với Kampuchia chỉ là phòng vệ.” Câu trả lời của Thạch có thể chấp nhận được vì đã có lúc Hoa Kỳ biết bọn Khmer Đỏ tàn ác tấn công các làng Việt Nam dọc theo biên giới. Iungerich nói với tôi: “Thực ra, Holbrooke và tất cả chúng tôi nói chuyện với phía Việt Nam là vào thời điểm tháng Chạp 1978. Lúc đó Việt Nam đang bị phục kích bên trong lãnh thổ Việt Nam, Điều đó cũng nhằm chống Thái Lan vào mùa hè năm đó. Vì vậy chúng tôi nhìn con chó hoang Pol Pot như là kẻ mà cả vùng ai cũng căm ghét, coi như là tên khủng bố chính yếu. Vì vậy chúng tôi rất thiên về quan điểm của người Việt vào thời gian đó,” (31)

Vance và Holbrooke cho rằng sự căng thẳng ở trong khu vực là một lý do khác để củng cố sự hiện diện của Hoa Kỳ. Quan hệ bình thường với cả Trung Hoa và Việt Nam có thể tạo cho Hoa Kỳ đòn bẩy để giảm căng thẳng trong vùng. Sự xung đột trong nội bộ cọng sản ở châu Á tạo ra đe dọa cho vùng nầy nhưng cũng là một cơ hội để thúc đẩy Hoa Kỳ trở lại. Bộ trưởng bộ Ngoại giao Úc, Andrew Peacock, bạn thân của Holbrooke hoàn toàn chia xẻ quan điểm của Holbrooke và Vance. Sau nầu ông ta nói với tôi ông ta hết sức phấn khởi nghe tin bình thường hóa đang tiến tới với Việt Nam và ông ta cũng có ý kiến về hành động bổ sung. Peacock kể lại: “Lúc ấy tưỏng như mọi việc đã tới nơi rồi và tôi đề nghị với họ (Vance và Holbrooke) đó là ý kiến hay, nếu những nước như Úc bắt đầu nói chuyện với Kampuchia về một vài hình thức trao đổi ngoại giao và từng bước chậm rãi tiến chung con đường với Trung Hoa. Trung Hoa có thể thấy chúng ta đang canh chừng họ. Những nước như Canada và Tân Tây Lan cũng có thể được yêu cầu làm như chúng ta. Do đó, chúng ta đóng một vai trò kềm giữ bất cứ một sự đối nghịch nào trong việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ qua mối quan hệ Mỹ-Hoa” (31) Holbrooke sau nầy cũng không nhắc lại những ý kiến như vậy đã được bàn thảo, nhưng ông ta nói: “Tôi không nhớ, nhưng nếu Andrew cho rằng việc ấy xảy ra thật thì tôi chẳng tranh cải gì cả.” (33)

Ngày 27 tháng Chín, một ngày đơn giản trong chuỗi biến cố thế giới, cũng như mọi buổi tối khác, một bản tóm tắt về việc Holbrooke họp với Thạch được chuyển từ bộ Ngoại giao tới tòa Bạch ốc, có ghi thêm lời nhận xét của bộ trưởng ngoại giao Vance về việc thực hiện những bước tiến nhằm bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Điều nầy đúng như những gì Carter đã suy nghĩ vì hồi đầu tháng Chín, tổng thống đã chỉ thị cho Brzezinski phải nhắm vào mục đích “công nhận đồng thời với cả Trung Hoa lẫn Việt Nam”. (34)

Brzezinski chống lại những điều ông ta cho là cố gắng của Vance và Holbrooke “để đưa Việt Nam vào tiến trình bình thường hóa quan hệ Mỹ-Hoa và Trung Hoa cho rằng chúng ta cũng bình thường hóa với Việt Nam.” Trong mục tiêu chiến lược đối đầu với người Nga, những vấn đề khu vực trở nên kém trọng yếu. Ông ta cũng chẳng lưu tâm nhiều tới mối hận thù giữa người Trung Hoa và Việt Nam và nỗi sợ hãi của Trung Hoa đối với các nước chung quanh. Ông ta loại trừ mối sợ hãi của các nước trong khu vực đối với việc Trung Hoa có thể bành trướng xuống phương Nam, bởi vì, như ông ta nói với tôi “chẳng phải vì lý do lịch sử hay lý do chiến lược mà lo sợ như thế.” Với ông, Việt Nam chỉ là kẻ được Liên Xô ủy nhiệm. Việc Trung Hoa lo lắng Việt Nam trở thành một căn cứ của Liên Xô chính là điều Hoa Kỳ quan tâm nhứt. Ông ta nói: “Vance và Holbrooke thúc đẩy việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, theo nhận định của ông, chỉ làm hỏng việc bình thường hóa quan hệ Mỹ-Hoa, có khả năng phát triển quan hệ chiến lược với Trung Hoa.” Ông ta cho rằng chính Holbrooke, nôn nóng trong việc quan hệ với Việt Nam, là người đã xúi Việt Nam từ bỏ yêu cầu viện trợ. Ông ta tuyên bố một cách tự hào: “Tôi cho rằng Holbrooke đến đó (gặp phái đoàn Việt Nam tại Nữu Ước hồi tháng Chín/ 1978) để chứng tỏ rằng họ muốn làm cho việc quan hệ bình thường thêm được dễ dàng, và tôi từ chối việc ấy.” (35)

Ông ta cho biết đã thảo luận về hoạt động vô ích đó, và Carter đồng ý những điều ông ta phân tích, quyết định trì hoãn việc bình thường hóa với Việt Nam. Năm 1981, khi Brzezinski nói với tôi việc nầy thì Việt Nam đã trở thành một quốc gia bị nhiều người kinh tởm vì họ chiếm đóng Kampuchia và hàng vạn người vượt biên bằng thuyền. Lời ông ta phát biểu giống như lời tố cáo của một chính khách mà chỉ một mình ông ta tấn công vào việc bình thường quan hệ với Hà Nội. Một người khác, có thể tố cáo như vậy, nếu không được người ta “tin tưởng” lắm đối với việc cản trở quan hệ bình thường như trên thì mai mỉa thay, người đó lại là Leonard Woodcock, người đã hướng dẫn phái đoàn của tòa Bạch ốc đi Hà Nội hồi mùa xuân năm 1977 để dọn đường cho công việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

Là người giữ nhiệm vụ trưởng phòng liên lạc của Mỹ ở Bắc Kinh, và là người được giao nhiệm vụ thương thuyết bình thường hóa Mỹ-Hoa, Woodcock bây giờ khác xa với những quyền hạn ưu tiên trong khi hướng dẫn phái đoàn thăm viếng Hà Nội trước kia. Việc bí mật thương nghị với Trung Hoa về quan hệ bình thường giữa hai nước bắt đầu ở Bắc Kinh hồi tháng Bảy, đạt tới một mức độ nhạy cảm và cần phải thận trọng hơn nữa. Có nhiều điều hết sức nhạy bén do bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Hoa của Trung Hoa đề nghị hôm 3 tháng Mười mà ông đem về theo. Cùng với Vance, Holbrooke và Oksenberg gặp phái đoàn Trung Hoa để thảo luận trong bữa ăn tối. Cũng tối hôm đó, George Quintin chỉ huy một đám đốt pháo bông ở công viên Central Park, cách chỗ phái đoàn Trung Hoa chỉ có mấy căn nhà. Tiếng pháo nổ dội vào khung cửa kính tăng thêm vẽ bi tráng của cuộc đối đầu nóng bỏng. Bộ trưởng Hoàng Hoa với vẽ hiếu chiến, kịch liệt đã kích Vance về việc Hoa Kỳ cương quyết duy trì quan hệ và bán vũ khí cho Đài Loan. Tới mười giờ đêm, khi họ nghĩ tới bữa ăn tối, thì các đĩa thức ăn ngon do Trung Hoa dọn ra trên bàn đã nguội lạnh. Holbrook tiếc rẽ nhớ lại bữa ăn tối với thức ăn lạnh ấy. “Chúng ta ở đây, chẳng thấy được pháo bông, nhưng tiếng nổ thì nghe như súng cối, giống Saigon trong thời chiến.”

Woodcock chán nãn toàn bộ công việc. Tuy nhiên, ông ta thấy có một chút hy vọng khi một người phụ tá của Hoàng Hoa len lén tới gần để nói nhỏ với ông. Ông ta trở lại Bắc Kinh để định lại một vòng thương thuyết mới. Đó là dấu hiệu bí mật của người Trung Hoa: mặc dù tranh cải với Vance, nhưng lại uyển chuyển với Woodcock vì ông nầy làm việc gần gủi với Carter và Brzezinski hơn.

Do đó, trong cuộc họp với Brzezinski ở phòng Bầu Dục hôm 11 tháng Mười/1978, Carter hỏi Woodcock về quan điểm của ông đối với tiến trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, ông nầy trả lời nhanh là “Không”. Ông trình bày với Carter ý nghĩ sâu sắc của ông là nếu có quan hệ với Việt Nam tại thời điểm đó thì nó sẽ là “bưng đổ mối quan hệ với Trung Hoa xuống nước.” Woodcock sau nầy kể lại, theo ông ta, nhiệm vụ của ông đơn thuần có liên hệ tới lòng mong muốn kết thúc thỏa hiệp bình thường quan hệ với Trung Hoa. Tuy nhiên, có phải Trung Hoa muốn chỉ cho ông ta thấy rằng họ có nhận xét không chắc lắm về việc thiết lập quan hệ Mỹ Việt? Woodcock nói rằng không bao giờ ông ta trắc nghiệm người Tàu về vấn đề nầy. Những vấn đề nầy lại nổi lên khi một người nào đó đi thăm Trung Hoa. “Một lần, trong khi người nào đó có thể hỏi: Ông nghĩ thế nào nếu chúng tôi lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Câu trả lời có thể đó là công việc của ông, nhưng chúng tôi nghĩ là chẳng khôn ngoan khi nói vì lý do nầy hay vì lý do kia mà không nói rõ ra rằng điều đó không làm cho chúng tôi vui.” Lý do ông ta sợ phản ứng tiêu cực của Trung Hoa là không phải họ biểu lộ sự chống đối nhưng bởi vì vấn đề không được đem ra thảo luận gì cả. Woodcock giải thích: “Từ tháng Bảy, tôi đã nói chuyện với họ một cách nghiêm chỉnh, và lúc bấy giờ là tháng Mười. Chúng tôi đã sẵn sàng cho hành động chót. Chưa bao giờ nói chuyện với Trung Hoa về Việt Nam trong khoảng thời gian đó, không nói với họ việc quan hệ bình thường với Hà Nội. Tôi nghĩ rằng có thể đặt ra trong trí họ niềm tin nơi chúng tôi.” (36)

Brzezinski và Woodcock đọc được phản ứng của Trung Hoa bằng sự đối nghịch với Holbrooke. Holbrooke nói: “Tôi nhớ rất rõ, năm 1978, trong khi Đại hội đồng Liên hợp Quốc họp thì người Trung Hoa nói với chúng tôi: “Những điều ông làm để bình thường hóa quan hệ với Việt Nam là việc của ông. Chúng tôi không chống lại việc bình thường hóa quan hệ của Hoa Kỳ với bất cứ một nước xã hội chủ nghĩa nào.” Do đó, tất cả chúng tôi biết rằng dù họ không nhiệt tình với công việc ấy bởi vì họ muốn tái lập quan hệ với chúng tôi, họ không chống lại việc quan hệ bình thường giữa chúng tôi và Việt Nam.” (37) Nhưng Carter đồng ý với Brzezinski và Woodcock “Quan hệ đối với Trung Hoa là điều quan trọng nhất” và quyết định trì hoãn quan hệ với Việt Nam cho đến khi việc quan hệ với Trung Hoa hoàn tất. (38)


Каталог: upload
upload -> -
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 1.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   ...   35




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương