Một trong những nhiệm vụ then chốt của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu



tải về 0.96 Mb.
trang7/12
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.96 Mb.
#30917
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

1.2. ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI


Tuynidi vốn là đất nước của người Bécbe. Vào thế kỷ IV trước công nguyên, tại đây xuất hiện đế chế Các-ta hùng mạnh. Năm 146 trước công nguyên, Các-ta bị đế chế La-mã đánh bại và đến thế kỷ II sau công nguyên mới được phục hồi. Vào thế kỷ VII, cùng với sự phát triển của đạo Hồi, người A-rập đã tràn vào Bắc Phi, thôn tính Các-ta (năm 698) và lập nên nước Tuynidi.

Cuối thế kỷ 15, vùng Địa Trung Hải trở thành đối tượng tranh giành ảnh hưởng của các đế chế hùng mạnh ở khu vực và Tuynidi lần lượt rơi vào tay Tây Ban Nha (1535), Ốttôman (1574). Đến năm 1606, sự độc lập về thực tế của Tuynidi mới được công nhận (mặc dù nó vẫn là một bộ phận của đế chế Ốttôman). Tháng 4/1881, Pháp chiếm Tuynidi và theo hiệp ước Mersa (1883), Tuynidi bị đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Năm 1934, Habib Bourguiba đã lập Đảng Neo-Destour (nay gọi là Đảng Xã hội Destour), lãnh đạo nhân dân Tuynidi đấu tranh đòi độc lập. Ngày 20/3/1956, sau thất bại ở Việt Nam, Angiêri và trước cuộc đấu tranh của nhân dân Tuynidi, Pháp buộc phải tuyên bố rút quân, trao trả độc lập cho Tuynidi và ngày 25/3/1956 nhân dân Tuynidi đã tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên với thắng lợi tuyệt đối của Đảng Neo-Destour. Ngày 25/7/1957, Quốc hội Tuynidi quyết định xoá bỏ chế độ quân chủ và tuyên bố Tuynidi là một nước Cộng hoà do Habid Bourguiba làm Tổng thống (tới năm 1987).

Từ khi ông Zin A.Ben lên làm Tổng thống (11/1997), tình hình Tuynidi có phần ổn định; chính quyền thận trọng thực hiện dân chủ hoá chính trị. Tháng 6/1990 cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên được tổ chức. Đảng Destour giành quyền thắng lợi tuyệt đối vì phe đối lập mới ra đời, chưa có ảnh hưởng.

Để giữ vững ổn định chính trị, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Destour, gần đây Tuynidi đã tăng cường các biện pháp cứng rắn nhằm ngăn ngừa và trấn áp các hoạt động chống đối, đặc biệt là của các phần tử Hồi giáo cực đoan thuộc tổ chức Phục hưng Hồi giáo (Nahdah Islamia), đồng thời chú ý giải quyết các vấn đề xã hội. Cuối tháng 7/93, Đảng Tập hợp dân chủ lập hiến tiến hành Đại hội lần thứ 2, Tổng thống Zine el-Abidine Ben Ali được bầu lại làm Chủ tịch Đảng. Năm 1994 và 1999, Tuynidi tổ chức bầu cử, ông Zine el-Abidine Ben Ali tái đắc cử Tổng thống nhiệm kỳ 5 năm.


1.3. TÌNH HÌNH KINH TẾ


Tuynidi là nước đang phát triển ở Bắc Phi, có nền kinh tế đa dạng, trong đó các ngành nông nghiệp, khai mỏ, năng lượng, du lịch và công nghiệp đóng vai trò quan trọng. Trong thập kỷ qua, chính phủ đã tăng cường tư nhân hoá, đơn giản hoá cơ cấu thuế, từng bước giải quyết vấn đề nợ nần. Việc tư nhân hoá rộng hơn, tự do hoá luật lệ đầu tư nhiều hơn để tăng đầu tư nước ngoài và cải thiện tính hiệu quả trong hoạt động của Chính phủ là những thách thức trong tương lai đối với đất nước này.

Sản xuất dầu chỉ đủ dùng trong nước (khoảng 5 triệu tấn/năm). Nông sản chính có dầu ô-liu, lúa mì, cam, chanh, nho, chà là. Chăn nuôi tương đối phát triển nhất là cừu (5,4 triệu con), dê (1 triệu con) năm 2003. Sản lượng đánh bắt cá đạt 33.000 tấn/năm. Sản lượng điện 3,7 tỷ kw. Du lịch khá phát triển, là một trong những nguồn thu chính của Tuynidi, đóng góp 25% tổng thu nhập quốc dân.

Trước đây Tuynidi duy trì 3 thành phần kinh tế: Nhà nước, tư nhân, công tư hợp doanh. Nhưng gần đây trong khuôn khổ cải cách kinh tế, Tuynidi tiến hành tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh, đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường. Điều đáng lưu ý là trong khi Tuynidi tiến hành cải cách chính trị và kinh tế, vai trò của Đảng cầm quyền Destour vẫn được giữ vững và kinh tế phát triển khá. Trong thập kỷ 90, kinh tế Tuynidi tăng trưởng bình quân 4,8% năm. Năm 2003, GDP tăng trưởng 5,6% đạt 25 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người khoảng 2.500 USD. Đây là một mức tăng trưởng cao so với khu vực Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung.

Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm 12,1%, công nghiệp 28,1% và dịch vụ 59,8%.

Về ngoại thương, kim ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 8 tỷ USD và nhập khẩu đạt 11 tỷ USD. Nợ nước ngoài khoảng 15,4 tỷ USD.

2. THỊ TRƯỜNG TUYNIDI

2.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TUYNIDI


Tuynidi tuy số dân chỉ có 10 triệu nhưng thu nhập bình quân đầu người khá cao, 2.500 USD (2003) tức là ở Bắc Phi chỉ đứng sau Libi, do vậy đây cũng là một thị trường quan trọng trong khu vực này. Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 8 tỷ USD chủ yếu là dầu thô, hàng may mặc, dầu ô-liu, phân bón... Kim ngạch nhập khẩu đạt 11 tỷ USD chủ yếu gồm thực phẩm, vải, hàng dệt may và dầu tinh chế. Đáng chú ý là từ nhiều năm nay, Tuynidi luôn trong tình trạng nhập siêu.

Các bạn hàng xuất khẩu gồm có EU (80%), các nước Bắc Phi (6%), châu Á (4%), Mỹ (1%).

Các bạn hàng nhập khẩu gồm EU (80%), các nước Bắc Phi (5,5%), Mỹ (5%)...

Ở châu Phi, Tuynidi xếp thứ 6 trong số các quốc gia có trao đổi thương mại với các nước ngoài châu lục. Giá trị xuất khẩu chiếm tới 33% GDP và 45% nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ. Còn về nhập khẩu, con số này lần lượt là 45 và 50%.

Tuynidi có vị trí gần với châu Âu, đặc biệt với Pháp nên nước này là địa điểm lý tưởng để các quốc gia khác đầu tư tái xuất thành phẩm sang châu Âu và Pháp, đặc biệt trong lĩnh vực dệt may và da giày. Pháp là đối tác thương mại số 1 của Tuynidi chiếm 26% thị trường xuất nhập khẩu của Tuynidi vượt Italia và Đức. Pháp cũng là nhà đầu tư số 1 vào Tuynidi (dệt may) với 1023 công ty của Pháp tính đến đầu năm 2004. Trong khi chờ đời thị trường Lybi mở cửa hoàn toàn, Tuynidi được xem là một sân sau rất hấp dẫn cho các nhà xuất khẩu Pháp (nhất là trong lĩnh vực dịch vụ).

Trong khu vực Bắc Phi, Libi là bạn hàng quan trọng nhất của Tuynidi, là thị trường xuất khẩu thứ 4 (453 triệu USD) và là nhà cung cấp thứ 5 (460 triệu USD) năm 2003.


2.2. TÌNH HÌNH HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG


Tuynidi tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế như AfDB, ECA, FAO, G-77, IAEA, IBRD, ICAO, ILO, IMF, IMO, Interpol, IOC, ISO, UN, UNCTAD, UNESCO,WHO, WTO...

Tuynidi theo đường lối đối ngoại độc lập, hoà bình và không liên kết, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Palestine, nhân dân Nam Phi, đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới mới công bằng hợp lý, chống sự chi phối của các nước lớn. Sau khi PLO phải rút khỏi Libăng, chính phủ Tuynidi đã cho phép PLO đặt trụ sở tại thủ đô Tunis. Là thành viên của “Liên minh A-rập Magreb”, Tuynidi chú trọng củng cố quan hệ với các nước thuộc khối này vì lợi ích kinh tế và an ninh của mình. Mặt khác, Tuynidi đồng thời chủ trương đa dạng hoá quan hệ, thúc đẩy quan hệ với Mỹ, phương Tây, đặc biệt là Pháp nhằm tranh thủ vốn đầu tư và viện trợ tài chính.

Theo hiệp định hợp tác với Cộng đồng châu Âu, có hiệu lực từ ngày 1/3/1998, Tuynidi sẽ dần bỏ các rào cản để buôn bán với EU trong thập kỷ tới. Về phần mình, Tuynidi được miễn hạn ngạch dệt may vào EU.

3. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-TUYNIDI

3.1. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-TUYNIDI

Việt Nam và Tuynidi thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 15/12/1972. Hiện nay đại sứ quán Tuynidi ở Trung Quốc kiêm nhiệm Việt Nam và đại sứ quán ta tại Libi kiêm nhiệm Tuynidi.

Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao và đã ký một số văn kiện quan trọng.

Tháng 5/1994, trong chuyến thăm Tuynidi của Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, hai bên đã ký Hiệp định Thương mại trong đó có điều khoản Tối huệ quốc. Tháng 5/1999, Bộ trưởng Ngoại giao Tuynidi đã thăm hữu nghị chính thức Việt Nam, hai bên đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật. Gần đây nhất, cuối năm 2002, Việt Nam và Tuynidi đã tiến hành kỳ họp thứ nhất Uỷ ban Liên Chính phủ tại Tunis. Tại kỳ họp này, hai bên đã ký Hiệp định khung về hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp. Quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước còn chưa phát triển, mặc dù có nhiều mặt hàng ta có thể xuất khẩu như gạo, chè, cà phê, hạt tiêu, hàng điện tử, gốm sứ.

Trước năm 2000, trao đổi thương mại giữa hai nước chỉ đạt khoảng 4 triệu USD/năm. Từ năm 2000 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Tuynidi mặc dù đã có sự tăng trưởng nhưng vẫn còn khiêm tốn. Năm cao nhất (2000) cũng chỉ đạt trên 10 triệu USD. Đáng chú ý là Việt Nam luôn nhập siêu gần như tuyệt đối (xin xem phụ lục 14).

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2004, ta xuất sang Tuynidi 1,1 triệu USD chủ yếu là cà phê, hạt tiêu, giày dép, hàng dệt may... với giá trị không lớn (xem bảng sau).

Về nhập khẩu, năm 2004, ta nhập 5,6 triệu USD trong đó phân bón chiếm tới 96% tổng giá trị nhập khẩu từ Tuynidi. Đây là mặt hàng mà ta nhập liên tục từ nhiều năm nay với giá trị luôn chiếm 90% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu khác là dầu ăn, xơ nhân tạo, đá nghiền, một số trang thiết bị cơ khí... với giá trị không đáng kể (xin xem phụ lục 15).




Каталог: luanvan
luanvan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN

tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương