Một trong những nhiệm vụ then chốt của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu


NHẬN ĐỊNH VẾ SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-TUYNIDI



tải về 0.96 Mb.
trang8/12
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.96 Mb.
#30917
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

3.1. NHẬN ĐỊNH VẾ SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-TUYNIDI

  • Thuận lợi


Cũng như đối với các nước Bắc Phi khác, quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Tuynidi phát triển khá tốt đẹp. Hơn nữa hai nước đã ký được một số văn kiện hợp tác quan trọng, tạo tiền đề thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực kinh tế thương mại nói riêng và trong các lĩnh vực khác nói chung. Trong kỳ họp Uỷ ban Liên Chính phủ vào cuối năm 2002, hai bên đều bày tỏ quyết tâm tăng cường hợp tác trong nhiều lĩnh vực và đưa ra những biện pháp như hai bên sẽ sớm đàm phán ký kết Hiệp định chống đánh thuế hai lần, Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư, Phòng Thương mại và Công nghiệp hai nước sẽ ký Biên bản ghi nhớ...

Phía bạn đánh giá cao những thành tựu và kinh nghiệm của Việt Nam trong xây dựng và phát triển kinh tế trong những năm qua và mong muốn đẩy mạnh mối quan hệ kinh tế thương mại song phương lên một tầm cao mới. Phía bạn cũng ủng hộ và cho biết sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam trong việc đàm phán gia nhập WTO.

Nhờ thành công trong cải cách kinh tế từ năm 1987, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Tuynidi trong thập kỷ 90 và đầu những năm 2000 đạt khoảng 5%/năm. Hiện nay Tuynidi là nước có nền kinh tế phát triển thuộc loại cao nhất Bắc Phi, có tình hình chính trị, xã hội ổn định, cơ sở hạ tầng hiện tương đối tốt, và đang tích cực đẩy mạnh quá trình mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế. Ngoài lợi thế có vị trí địa lý nằm giáp châu Âu, Tuynidi còn ký Hiệp định hợp tác với Liên minh châu Âu theo đó các sản phẩm công nghiệp được tự do xuất khẩu vào EU. Đây cũng là một cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam có thể xem xét đầu tư trực tiếp tại Tuynidi để tái xuất vào thị trường châu Âu. Sau kỳ họp Uỷ ban Liên chính phủ lần thứ nhất, Tổng Công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) đang xúc tiến các công việc cần thiết để xây dựng nhà máy dệt tại Tuynidi với việc sử dụng nguồn nhân công tại chỗ. Trong những năm gần đây, Tuynidi đã tăng cường càng biện pháp cải cách thủ tục hành chính, áp dụng chế độ một cửa, có nguồn nhân lực có khả năng tiếp thu cao công nghệ tiên tiến. Môi trường đầu tư còn thuận lợi hơn với giá năng lượng, nước, viễn thông, lao động, chi phí xã hội cạnh tranh...

Xét về cơ cấu xuất nhập khẩu, nhiều mặt hàng mặt hàng mà bạn cần ta hoàn toàn có khả năng đáp ứng, như gạo, hà tiêu, giày dép, dệt may... Ta cũng có nhu cầu cao về phân bón DAP mà Tuynidi lại có thế mạnh trong lĩnh vực này.

Doanh nghiệp hai nước trong thời gian qua đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến thị trường của nhau. Kim ngạch xuất nhập khẩu đã có chiều hướng gia tăng dù chưa mạnh.

  • Khó khăn


Quan hệ kinh thương mại giữa Việt Nam và Tuynidi còn chưa tương xứng với tiềm năng thực tế của mỗi nước. Nguyên nhân chủ yếu là do:

Hai nước đều trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế, khu vực tư nhân chưa phát triển. Là những nước đang phát triển nên khả năng đầu tư trực tiếp sang thị trường của nhau còn hạn chế.

Chưa có đại diện thương mại hoặc đại sứ quán tại nước sở tại nên các doanh nghiệp còn thiếu thông tin, không rõ khả năng của nhau.

Do khoảng cách địa lý xa nên chi phí vận chuyển, kho bãi tăng làm cho doanh nghiệp hai nước ngần ngại.

Các đối tác thương mại chính của Tuynidi thường là các nước châu Âu có quan hệ truyền thống và các nước khu vực lân cận do vậy doanh nghiệp Tuynidi chưa quan tâm nhiều đến thị trường châu Á.

Doanh nghiệp của hai bên phần lớn đều là vừa và nhỏ nên khả năng tài chính hạn chế, không có những chiến lược thăm dò và khai thác thị trường quy mô lớn và dài hạn.


III. ĐÁNH GIÁ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-BẮC PHI
1. Thuận lợi

Tại các nước Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung, nước ta có một lợi thế mà không phải nước nào cũng có được, đó là ấn tượng tốt đẹp về đất nước và con người Việt Nam trong lòng Chính phủ và nhân dân châu lục. Điều đó là nền tảng tạo nên mối quan hệ chính trị - ngoại giao truyền thống hữu nghị và đoàn kết. Đây thật sự là một thế mạnh nếu biết tận dụng nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại.

Chủ trương chung của Chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước (trong đó có Bộ Thương mại), cũng như của một bộ phận doanh nghiệp, đều coi Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung là một thị trường tiềm năng, cần phải tích cực thăm dò, thâm nhập và khai thác. Chủ trương đúng đắn này là tiền đề thuận lợi để có những bước đi thích hợp thúc đẩy mối quan hệ thương mại với các nước Bắc Phi.

Nước ta đã thiết lập được một số cơ sở vĩ mô ban đầu cho hoạt động kinh tế thương mại với các nước Bắc Phi. Chúng ta đã ký Hiệp định Thương mại với cả 5 nước Bắc Phi mà một số hiệp định, thỏa thuận, biên bản ghi nhớ về thương mại và đầu tư, về trao đổi đoàn cấp Nhà nước, Chính phủ, về hợp tác chuyên gia… tạo nền tảng pháp lý cho hợp tác giữa hai bên.

Việt Nam đã có một số cơ sở đại diện tại chỗ (Sứ quán, Thương vụ) có thể sử dụng như những trung tâm xúc tiến và phát triển quan hệ chính trị ngoại giao cũng như kinh tế thương mại, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến thương mại, thâm nhập và mở rộng thị trường. Trên tổng số 54 quốc gia châu Phi mới chỉ có 3 cơ quan thương vụ trong đó hai ở Bắc Phi và trong năm 2005, ta sẽ mở thêm thương vụ tại Marốc. Như vậy, trong số 5 quốc gia Bắc Phi ta đã đặt cơ quan đại diện ngoại giao tại 4 nước là Ai Cập, Angiêri, Libi, Marốc và 3 cơ quan đại diện thương mại tại Ai Cập, Angiêri và Marốc. Bộ Thương mại cũng đang kiến nghị Chính phủ cho phép mở thương vụ tại Libi.

Giữa nước ta và toàn bộ các nước Bắc Phi đều đã có trao đổi thương mại ở mức độ nhất định. Hàng hóa nước ta bước đầu đã có chỗ đứng tại thị trường lục địa này. Người tiêu dùng Bắc Phi đã biết đến các sản phẩm Việt Nam, bắt đầu có thói quen dùng hàng Việt Nam.

Đặc biệt, quan hệ thương mại có những thay đổi tích cực về chất, thể hiện ở một số điểm sau:

- Xuất khẩu của nước ta sang Bắc Phi trước đây chủ yếu là nhờ chương trình trả nợ Chính phủ, thì từ năm 1998 trở lại đây tất cả đều qua các hình thức buôn bán thông thường và đã có sự tăng trưởng khá.

- Cơ cấu mặt hàng buôn bán cũng ngày càng đa dạng. Từ chỗ chỉ xuất một số mặt hàng nông sản, đến nay nước ta đã xuất sang Bắc Phi nhiều chủng loại mặt hàng khác nhau, từ hàng nông sản, dệt may, giày dép đến các sản phẩm điện cơ, hàng tiêu dùng…

Bắc Phi là thị trường tiêu thụ nhiều chủng loại hàng hóa đa dạng, trong đó có nhiều mặt hàng là thế mạnh xuất khẩu của nước ta, như hàng nông sản, lương thực thực phẩm, dệt may, giày dép, hàng tiêu dùng… Yêu cầu về chất lượng hàng hóa cũng không khắt khe lắm. Bắc Phi có nhu cầu về những mặt hàng bình dân, chất lượng vừa phải, giá rẻ phù hợp với sức mua của người dân. Các loại hàng rào kỹ thuật chưa có nhiều. Đồng thời châu lục này cũng là nơi cung cấp nguyên, nhiên liệu, khoáng sản, trong đó có nhiều loại mang tính chiến lược mà nước ta có thể khai thác phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nhìn chung, các quốc gia Bắc Phi đều đang tích cực đẩy mạnh quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với khắp nơi trên thế giới. Bắc Phi được hưởng nhiều ưu đãi trong buôn bán với những trung tâm kinh tế lớn như EU và Mỹ (về thuế, hạn ngạch…). Bên cạnh đó, ở Bắc Phi có một số khu vực mậu dịch tự do, chẳng hạn như Liên minh A-rập Maghreb. Vì vậy nếu hàng hóa nước ta thâm nhập được vào một nước nào đó thì sẽ có điều kiện đi vào thị trường EU, Mỹ và tỏa sang các nước lân cận.

Riêng đối với Việt Nam, chính sách thương mại của các nước Bắc Phi cũng dựa trên nền tảng mối quan hệ ngoại giao hữu nghị sẵn có. Chính phủ các nước này đánh giá cao những thành tựu kinh tế thương mại của Việt Nam trong những năm qua cũng như vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, Chính phủ các nước Bắc Phi luôn mong muốn thúc đẩy hợp tác thương mại với nước ta lên tầm cao mới, xứng đáng với những tiềm năng và thế mạnh của hai bên. Mong muốn đó không chỉ được thể hiện qua các Hiệp định hay thỏa thuận hợp tác song phương đã ký (đặc biệt là hiệp định thương mại với điều khoản MFN), mà còn qua sự gắn bó trên các diễn đàn đa phương. Chẳng hạn, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam, Ai Cập đã thể hiện thiện chí miễn cho Việt Nam phải đàm phán song phương với nước mình.



2. Khó khăn

Hệ thống các cơ quan đại diện của nước ta ở Bắc Phi tuy mạnh so với khu vực châu Phi nói chung nhưng vẫn còn mới và chưa đầy đủ. Sứ quán hoặc Thương vụ đặt ở một số nước, làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, thiếu kinh phí, thiếu nhân lực nên khó phát triển mạnh các quan hệ hợp tác về mặt Nhà nước hoặc đáp ứng nhu cầu xúc tiến thương mại của doanh nghiệp.

Trong nhiều trường hợp, các quan hệ cấp Nhà nước mới chỉ dừng lại ở hình thức trao đổi đoàn cấp cao và trên thực tế, việc trao đổi đoàn không thường xuyên (mỗi năm chỉ một vài đoàn cấp cao đi thăm Bắc Phi). Mỗi lần trao đổi đoàn mới chỉ là một cơ hội đối với doanh nghiệp trong việc tiếp xúc, thâm nhập thị trường, kết thúc bằng một số hợp đồng mua bán với một số mặt hàng nhất định. Nếu thực tế vẫn tiếp tục như vậy thì sẽ khó tạo được nền tảng thúc đẩy hoạt động trao đổi thương mại và hợp tác lâu dài và bền vững, cả về chất lượng lẫn số lượng.

Hệ thống chiến lược, chính sách hỗ trợ phát triển thương mại và các quan hệ hợp tác khác hầu như chưa có hoặc mới chỉ hình thành trong thời gian gần đây, đặc biệt chưa có một chiến lược của Chính phủ về phát triển thương mại và hợp tác với các nước Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung, bao hàm đầy đủ các chính sách quan trọng như chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, hệ thống các biện pháp hỗ trợ (bộ máy hỗ trợ tại chỗ, tín dụng xuất khẩu, thông tin thị trường, hỗ trợ nghiên cứu, đặt văn phòng đại diện, hỗ trợ chi phí thuê đặt kho ngoại quan v.v...).

Xét ở góc độ doanh nghiệp, trên thực tế, hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường các nước Bắc Phi nói chung còn rất hạn chế, chủ yếu mới chỉ dựa trên những thông tin chung chung của một số tổ chức quốc tế, của cơ quan đối ngoại và quản lý trong nước (Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam), hoặc qua một vài lần khảo sát thực tế. Các thông tin đều chưa thực sự chi tiết và cụ thể (đặc biệt là những thông tin về hàng hóa như giá cả, mẫu mã, chủng loại; thông tin thị trường như thị hiếu, sức mua, thói quen tiêu dùng, tình hình cạnh tranh, cách thức thanh toán...).

Năng lực cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp nước ta tại thị trường Bắc Phi còn yếu, bao gồm khả năng cạnh tranh của sản phẩm, năng lực tài chính, năng lực quản lý. Khả năng cạnh tranh chưa thật cao của hàng hóa Việt Nam (mặc dù ta có một số lợi thế nhất định, chẳng hạn về lao động) được thể hiện ở ba mặt: mẫu mã, chất lượng và giá cả. Về mẫu mã, các doanh nghiệp nước ta mới bắt đầu quan tâm thay đổi mẫu mã từ một vài năm nay song do hạn chế về tài chính, công nghệ nên khó có thể so sánh với doanh nghiệp của các nước khác trong cùng ngành và lĩnh vực, vừa đi trước, vừa mạnh hơn hẳn về khả năng tài chính. Về giá cả và chất lượng cũng vậy, không thể sản xuất được những mặt hàng chất lượng tốt bằng những công nghệ cũ kỹ, lạc hậu. Hơn nữa, công nghệ thấp tất yếu sẽ tiêu hao nhiều lao động và nguyên liệu dẫn đến chi phí cao, tạo ra giá thành cao.

Các doanh nghiệp Việt Nam một thời gian dài hoạt động trong môi trường bảo hộ cao của Chính phủ nên ít nhiều đã quen với chế độ bảo hộ, dẫn đến ỷ lại, ít chịu va chạm với bên ngoài. Đây cũng là một bất cập lớn đối với doanh nghiệp khi muốn mở rộng quan hệ làm ăn ra thị trường nước ngoài, nhất là các thị trường còn tương đối mới và xa lạ trong đó việc thâm nhập và mở rộng quan hệ buôn bán đòi hỏi phải mất rất nhiều công sức và tiền của, thậm chí phải kiên trì đi theo một chiến lược lâu dài và ổn định. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp thường lựa chọn xuất khẩu vào Bắc Phi thông qua trung gian một công ty thứ ba của nước ngoài (chủ yếu là thương nhân của một nước Châu Âu), dẫn đến giá thành sản phẩm tăng, giảm khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam ở Bắc Phi, hơn nữa lại không cho phép thiết lập được quan hệ bạn hàng trực tiếp với các đối tác ở châu lục này.

Về mặt khách quan, bên cạnh những khó khăn vĩ mô như tình hình chính trị - xã hội tại một số nước chưa thực sự ổn định, cơ sở hạ tầng lạc hậu, nạn tham nhũng thì còn những khó khăn cụ thể sau cho các doanh nghiệp nước ta khi thâm nhập thị trường này:

- Các doanh nghiệp Bắc Phi nhìn chung khả năng tài chính cũng không phải dồi dào, dẫn đến việc các doanh nghiệp nước ta ngại làm ăn khi đối tác Bắc Phi đòi hỏi trả chậm trong thanh toán, vì rủi ro rất cao.

- Cước phí vận tải biển sang Bắc Phi vẫn cao hơn so với sang các khu vực khác. Trong khi đó, khả năng tài chính hạn hẹp không cho phép các đối tác nơi đây mua những lô hàng lớn hoặc mua cả chuyến tàu, gây khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp nước ta khi thuê tàu và làm tăng giá thành sản phẩm. (Chẳng hạn, doanh nghiệp nước ta khi xuất khẩu gạo thường thuê tàu có khối lượng khoảng 15-25 ngàn tấn cho mỗi chuyến giao hàng, nhưng nhiều đối tác Bắc Phi chỉ đề nghị mua mỗi lần 2-3 ngàn tấn. Doanh nghiệp Việt Nam rất khó đáp ứng yêu cầu giao hàng như vậy).

- Nhu cầu về các mặt hàng của thị trường Bắc Phi tuy phong phú, đa dạng, nhưng thay đổi thất thường. Đặc biệt là nhu cầu về các mặt hàng nông sản phụ thuộc nhiều vào tình hình sản xuất lương thực hàng năm. Điều này cũng dẫn đến tình trạng buôn bán mang tính thời vụ, năm nhiều năm ít, không thật sự ổn định.

CHƯƠNG III

CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC BẮC PHI ĐẾN NĂM 2010

Những nhóm giải pháp dưới đây mặc dù nhằm mục đích phát triển quan hệ thương mại với năm thị trường thuộc Bắc Phi những cũng nằm trong khuôn khổ phát triển quan hệ thương mại với Châu Phi nói chung. Các nhóm giải pháp này được chia làm hai cấp độ vĩ mô (Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước) và vi mô (các doanh nghiệp), và được xếp theo mức độ quan trọng của mỗi nhóm giải pháp.



I. CÁC GIẢI PHÁP Ở CẤP VĨ MÔ

Ở cấp độ vĩ mô, có 7 nhóm giải pháp, trong đó 6 nhóm giải pháp đầu tiên đề cập chủ yếu đến phát triển thương mại hàng hóa. Tất nhiên, việc đẩy mạnh thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ cũng liên quan đến những nhóm giải pháp này, nhưng để có một cái nhìn khái quát nên sẽ được đề cập cụ thể hơn trong nhóm giải pháp thứ 7.

I.1. CỤ THỂ HOÁ CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI CÁC NƯỚC BẮC PHI

Phát triển quan hệ thương mại với Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung là một chủ trương đã được Đảng và Nhà nước ta xác định rõ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải có những biện pháp để cụ thể hóa chủ trương đó. Một số biện pháp dưới đây được đánh giá là có thể sẽ tạo bước đột phá cho việc phát triển quan hệ thương mại với lục địa này.



a) Trước mắt, Chính phủ cần đề ra một Chiến lược phát triển kinh tế thương mại với Bắc Phi giai đoạn 2005-2010, được xây dựng với sự phối hợp của các Bộ, ngành hữu quan. Chiến lược này cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:

      • Tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc và mục tiêu cần đạt được;

      • Những biện pháp chính sách cần thực hiện;

      • Những phương tiện cần thiết để thực hiện các biện pháp chính sách;

      • Lộ trình hoặc tiến độ thực hiện chiến lược;

Chính phủ cũng cần nghiên cứu khả năng thành lập một tiểu ban, hoặc một tổ công tác hỗn hợp gồm đại diện các Bộ, ngành có nhiệm vụ chuyên trách về quan hệ kinh tế thương mại với thị trường Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung, đề xướng và điều phối các lĩnh vực hợp tác cụ thể giữa Việt Nam và các nước Bắc Phi, giống như kinh nghiệm của Trung Quốc.

b) Đặc biệt, để cụ thể hóa chủ trương phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước Bắc Phi, nhất thiết phải sớm tăng cường mạng lưới các cơ quan đại diện ngoại giao, đại diện thương mại ở nước ta tại khu vực này, giảm bớt tình trạng vừa thiếu vừa theo chế độ kiêm nhiệm như hiện nay.

Trên tinh thần này, nước ta cần đẩy nhanh việc mở cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại tại Maroc trong năm 2005 và cho phép thành lập thương vụ tại Libi.

Đồng thời cần phải củng cố các cơ quan đại diện ngoại giao đã có theo hướng chuyên sâu, đủ về số lượng, cao về chất lượng, và đảm bảo các phương tiện cần thiết chuẩn bị cho việc tìm hiểu, xúc tiến và mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực. Ngoài địa bàn sở tại, Sứ quán nước ta ở các nước Châu Phi cần được tạo điều kiện mở rộng hoạt động sang các địa bàn kiêm nhiệm.

Với mạng lưới trên 40 cơ quan Thương vụ ở khắp thế giới, Bộ Thương mại có điều kiện dựa vào những "cánh tay quyền lực vươn dài" này trong công tác phát triển thị trường. Tuy nhiên số lượng các Thương vụ vẫn còn thiếu, đặc biệt là ở Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung. Nước ta cho đến nay mới chỉ có 3 Thương vụ (2 ở Bắc Phi : Ai Cập và Angiêri) trên tổng số 54 nước châu Phi. Do vậy, mở thêm Thương vụ là giải pháp hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ thương mại với châu lục này. Thực tế của thập niên 90 đã chỉ ra là từ khi nước ta mở Thương vụ ở Ai Cập buôn bán với nước này đã tăng trưởng nhanh chóng. Việc mở thương vụ chính thức tại Maroc năm 2005 sẽ tạo điều kiện mở rộng buôn bán với EU, các nước trong UMA cũng như các nước khác ở vùng Đông Bắc Châu Phi, gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.



Hiện nay Bộ Thương mại đã xây dựng quy chế làm việc của cơ quan Thương vụ ở nước ngoài, trong đó đề ra những yêu cầu cụ thể cho cơ quan Thương vụ. Riêng đối với Bắc Phi, trong hoàn cảnh còn thiếu Thương vụ như hiện nay, cần tạo điều kiện cho Thương vụ ở Ai Cập và Angieri mở rộng hoạt động sang các địa bàn khác, ít nhất cũng là công tác nghiên cứu thị trường. Chẳng hạn, Thương vụ Ai Cập cần đảm nhận nghiên cứu thêm thị trường Tuynidi, Libi. Ngoài ra, do Ai Cập và Angieri đều có vị trí quan trọng ở Châu Phi nên hầu như tất cả các nước Châu Phi đều có đại diện ngoại giao và thương mại ở thủ đô ba nước này. Đây là điều kiện thuận lợi để Thương vụ của ta gặp gỡ tiếp xúc, tìm hiểu thêm thông tin về thị trường các nước Châu Phi và gửi về nước.

c) Tất cả các nước Bắc Phi đều cử cơ quan đại diện ở Việt Nam hoặc Trung Quốc, Thái Lan… kiêm nhiệm Việt Nam. Hiện nay, đã có Sứ quán và Thương vụ của Ai Cập, Angiêri và Libi ở Việt Nam. Việc thiếu cơ quan đại diện của các nước như Maroc và Tuynidi tại Hà Nội gây không ít khó khăn cho các đơn vị chức năng cũng như các doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến thương mại với thị trường Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung (thiếu thông tin, thủ tục đi lại khó khăn…). Vì vậy, qua con đường ngoại giao, Bộ Ngoại giao cần sớm đề nghị và tạo điều kiện cho các nước Bắc Phi mở thêm cơ quan đại diện ngoại giao và Thương vụ tại Hà Nội (đặc biệt là Maroc).

d) Chủ trương phát triển quan hệ thương mại với Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung cũng cần phải được cụ thể hóa thông qua việc thường xuyên trao đổi các đoàn lãnh đạo cao cấp. Từ các chuyến thăm của lãnh đạo cao cấp hai bên, rất nhiều vấn đề trong quan hệ song phương được khai thông. Ngoài ra qua những chuyến thăm này, chúng ta có thể ký được các Hiệp định, các biên bản ghi nhớ hoặc các hợp đồng cấp Chính phủ, mở đường cho hoạt động thương mại hai chiều. Cần lưu ý là thế hệ lãnh đạo hiện nay ở các nước Bắc Phi là thế hệ sinh ra và trưởng thành từ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trước kia, rất có cảm tình với Việt Nam. Vì vậy nhất thiết chúng ta phải biết tận dụng những cảm tình đang có đối với Việt Nam của các nhà lãnh đạo Bắc Phi, hướng nó vào phát triển quan hệ kinh tế thương mại, trước khi quyền lực được bàn giao cho những thế hệ lãnh đạo trẻ hơn, chỉ biết đến Việt Nam như một quốc gia năng động ở Châu Á giống như nhiều quốc gia khác.

e) Tháng 5/2003, lần đầu tiên ở Việt Nam đã có cuộc hội thảo quy mô quốc gia do Bộ Ngoại giao chủ trì, mang tên "Việt Nam - Châu Phi: Những cơ hội hợp tác và phát triển trong thế kỷ 21". Đây là cuôc hội thảo lần đầu tiên được tổ chức ở Việt Nam với chủ đề này, có sự tham gia của nhiều Bộ, ngành và doanh nghiệp trong nước, cùng trên 30 đoàn khách từ các nước Châu Phi và các tổ chức quốc tế. Cuộc hội thảo này có ý nghĩa hết sức quan trọng, và đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam với các nước Châu Phi. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi đạt 408 triệu USD tăng gần gấp đôi so với năm 2003 (229 triệu USD). Tuy nhiên, để đảm bảo tính liên tục và phát huy được hiệu quả của những cam kết, nhất trí đạt được qua cuộc hội thảo lần đầu này, cần tổ chức định kỳ cuộc hội thảo với chủ đề trên từ 3-5 năm một lần để hai bên (Việt Nam và các nước Châu Phi) tổng kết những tiến bộ đạt được trong hợp tác Việt Nam - Châu Phi từ sau cuộc hội thảo lần trước và xác định những phương hướng mới cho sự hợp tác này. Riêng đối với quan hệ thương mại, rút kinh nghiệm từ cuộc hội thảo lần đầu, nhất thiết phải mời đại diện các doanh nghiệp Châu Phi tham dự các cuộc hội thảo lần sau, tạo điều kiện cho họ gặp gỡ các doanh nghiệp Việt Nam thì hai bên mới có thể trực tiếp tìm hiểu những cơ hội kinh doanh cụ thể. Ngoài ra, cũng cần có cơ chế giám sát việc triển khai những thỏa thuận đạt được từ các cuộc hội thảo.

I.2. CỦNG CỐ KHUNG PHÁP LÝ CHO QUAN HỆ THƯƠNG MẠI

Trên thực tế, trong số 5 nước Bắc Phi, nước ta mới hoàn tất việc tạo lập khung pháp lý tạm đủ cho các hoạt động thương mại và đầu tư với Ai Cập (hai nước đã ký hiệp định thương mại, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hiệp định hợp tác về du lịch). Với các nước khác, về cơ bản mới chỉ dừng lại ở hiệp định thương mại.

Vì vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước cần đẩy nhanh việc đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hiệp định ngân hàng tài chính, hiệp định về du lịch, hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ... với từng nước Bắc Phi trên cơ sở có tính đến các quy định của WTO cũng như các nguyên tắc, thỏa thuận của các tổ chức liên kết kinh tế khu vực, để tạo ra những điều kiện có lợi nhất cho tiến trình thâm nhập, mở rộng thị trường và phát triển buôn bán của nước ta trong thời gian tới.

Bên cạnh đó cũng cần rà soát lại những hiệp định thương mại đã ký từ khá lâu (chẳng hạn với Ai Cập) để có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới (chẳng hạn quy chế đối xử quốc gia). Với các nước khác như Maroc, Libi, Tuynidi, Angiêri… cần xúc tiến để sớm ký hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần cũng như hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực khác, trong đó có bảo hộ sở hữu trí tuệ.

I.3. HỖ TRỢ VỀ TÀI CHÍNH

Hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước là biện pháp mang tính quyết định nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước Bắc Phi nói riêng và Châu Phi. Đặc biệt trong giai đoạn đầu có tính khai phá thị trường như hiện nay, điều kiện yếu kém về tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam càng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước với tư cách là “người mở đường” và người “bảo trợ”.

Quỹ hỗ trợ phát triển (HTPT) là đơn vị đang được Chính phủ giao thực hiện tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, để khuyến khích doanh nghiệp tận dụng hỗ trợ của Quỹ trong việc xuất khẩu sang Châu Phi, Quỹ cần có quy định riêng ưu tiên cho các hợp đồng xuất khẩu sang Châu Phi giống như quy định đã có dành cho xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Đồng thời Quỹ cũng cần có các hình thức hỗ trợ khác mà nhiều nước vẫn làm như cung cấp tín dụng cho người mua, bảo đảm rủi ro thanh toán… đặc biệt trong hoàn cảnh doanh nghiệp các nước Châu Phi thanh toán chủ yếu bằng hình thức trả chậm.

Ngoài ra, bên cạnh những mặt hàng được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu nằm trong danh mục mà Bộ Thương mại xây dựng cho từng năm, cần bổ sung thêm những mặt hàng được hỗ trợ xuất khẩu dành riêng cho thị trường Châu Phi, chẳng hạn dệt may, đồ gỗ gia dụng, đồ gia vị…

Trong tương lai gần, Chính phủ dự kiến sẽ thành lập Ngân hàng hỗ trợ phát triển quốc gia thay thế Quỹ HTPT. Đây là một bước đi rất cần thiết nhằm hoàn thiện chính sách tín dụng hỗ trợ đầu tư, xuất khẩu. Trong hoạt động của Ngân hàng này, cần có các cơ chế ưu tiên nhất định cho các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc đầu tư vào Châu Phi.

Đối với thưởng xuất khẩu, quy định năm 2003 là chỉ thưởng đối với các doanh nghiệp có sản phẩm mới, thị trường mới và các doanh nghiệp có mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân của mặt hàng đó. Tuy nhiên trong những năm tới đây khi doanh nghiệp xuất khẩu sang Châu Phi, cần nghiên cứu có những quy định riêng về thưởng xuất khẩu sau:

- không chỉ thưởng xuất khẩu đối với thị trường mới, mặt hàng mới mà với cả mặt hàng và thị trường cũ nhưng duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đương tốc độ tăng trưởng bình quân của mặt hàng đó;

- không chỉ thưởng khi doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp sang Châu Phi mà có thể thưởng cả khi xuất khẩu qua trung gian;

- mức thưởng (đồng/USD giá trị xuất khẩu) đối với các mặt hàng xuất khẩu sang Châu Phi cao hơn mức thưởng xuất khẩu mặt hàng cùng loại sang những thị trường lớn hoặc thị trường truyền thống;

Chính phủ có thể thành lập Quỹ hỗ trợ đặc biệt có nhiệm vụ hỗ trợ riêng cho các hoạt động xúc tiến, thâm nhập và phát triển quan hệ thương mại và hợp tác với Châu Phi. Về cách thức, tùy theo từng hoạt động cụ thể mà quỹ có thể hỗ trợ 100% hay chỉ ở một mức độ nhất định. Ví dụ: Đối với hoạt động viện trợ (dưới hình thức tài trợ dự án) hay hoạt động đào tạo (gửi lưu học sinh đi học tại các nước này) thì hỗ trợ 100%; đối với hoạt động xuất nhập khẩu thì có thể hỗ trợ vốn và lãi suất với mức ưu đãi cao hơn quy định của cơ chế hỗ trợ xuất khẩu hiện nay; với hoạt động xúc tiến thương mại trực tiếp thì hỗ trợ từ 30-70% tùy theo từng hoạt động và từng nước, phần còn lại do doanh nghiệp tự thu xếp; với hoạt động nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp (doanh nghiệp cử cán bộ sang nghiên cứu tại chỗ) thì hỗ trợ thêm kinh phí ăn ở và đi lại v.v...

Đặc biệt, việc thành lập kho ngoại quan ở các nước Bắc Phi có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy bán hàng tại chỗ và sang các nước Châu Phi khác. Mặc dù việc lập và duy trì hoạt động của kho ngoại quan phụ thuộc vào doanh nghiệp, nhưng Quỹ hỗ trợ đặc biệt này cần hỗ trợ chi phí thành lập và chi phí hoạt động trong một thời gian ban đầu (1 năm, 2 năm, hoặc 5 năm... tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể).

Về mặt tổ chức, Quỹ hỗ trợ đặc biệt nêu trên có thể chỉ là một đơn vị, một bộ phận trực thuộc Quỹ hỗ trợ phát triển, và cũng có thể chỉ dưới dạng một “tài khoản đặc biệt” tồn tại trong giai đoạn xúc tiến thâm nhập thị trường các nước Châu Phi.

(Cần lưu ý là các hình thức hỗ trợ tài chính nói trên không áp dụng một cách lâu dài, vì khi nước ta gia nhập WTO thì những hình thức hỗ trợ tài chính này sẽ chịu ràng buộc bởi các quy định của WTO và sẽ dần bị thu hẹp lại).

Đối với nhập khẩu, cũng cần tạo ra những hình thức hỗ trợ tài chính cho việc nhập khẩu từ Châu Phi, chẳng hạn như cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp nhập khẩu từ Châu Phi, hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp đi khảo sát nguồn hàng nhập khẩu từ Châu Phi… nhất là đối với các mặt hàng nguyên nhiên liệu và khoáng sản phục vụ sản xuất.

I.4. PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC THÔNG TIN, THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ NGUỒN NHÂN LỰC


Каталог: luanvan
luanvan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN

tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương