Một trong những nhiệm vụ then chốt của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu



tải về 0.96 Mb.
trang4/12
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.96 Mb.
#30917
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

1.2. ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI


Vào thế kỷ 16, Angiêri bị Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng. Năm 1893, Pháp xâm lược Angiêri và thiết lập chế độ thuộc địa. Nhờ tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân Angiêri cùng bối cảnh quốc tế thuận lợi như Pháp đại bại ở Việt Nam tháng 5/1954, hệ thống thuộc địa của Pháp bắt đầu tan rã. Tháng 3/1962, Pháp buộc phải ký Hiệp định Evian trao trả độc lập cho Angiêri.Tháng 7/1962, Angiêri được độc lập. Ngày 20/9/1962, Angiêri tiến hành cuộc bầu cử lập hiến đầu tiên và quyết định lấy ngày 1/11 làm ngày quốc khánh.

Đảng mặt trận giải phóng dân tộc (FLN) là đảng duy nhất cầm quyền ở Angiêri cho đến tháng 10/1988. Cương lĩnh của FLN là xây dựng một nước Angiêri xã hội chủ nghĩa Hồi giáo. FLN đã thiết lập quan hệ với một số đảng cộng sản khác trên thế giới trong đó có Đảng cộng sản Việt Nam.

Từ khi độc lập, Angiêri đã trải qua nhiều thời Tổng thống. Cuối năm 1988, Angiêri ban hành Đạo luật về dân chủ đa đảng. Đến cuối năm 1997, Angiêri đã hoàn thành chế độ dân chủ đa nguyên.

Ngày 15/4/1999, Angiêri đã tổ chức bầu cử Tổng thống mới. Đây là cuộc bầu cử Tổng thống lần thứ 7 của Angiêri kể từ ngày độc lập cho đến nay. Ông Abdelaziz Bouteflika đã thắng cử và trở thành Tổng thống dân sự đầu tiên của Angiêri trong 34 năm qua. Từ khi Tổng thống Bouteflika lên cầm quyền, thực hiện chính sách hoà giải dân tộc, tình hình Angiêri đã có những chuyển biến tích cực, tình hình chính trị, an ninh từng bước đi vào ổn định.

Về tôn giáo, đạo Hồi là quốc đạo, chiếm 95% dân số, ngoài ra có đạo Thiên chúa. Ngôn ngữ chính thức: Tiếng A-rập, ngoài ra còn có tiếng Pháp, tiếng địa phương Béc-be.

1.3. TÌNH HÌNH KINH TẾ

Angiêri có trữ lượng khí tự nhiên đứng thứ năm trên thế giới, đứng thứ hai về xuất khẩu khí tự nhiên và đứng thứ 14 về trữ lượng dầu mỏ. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã quan tâm hơn tới nông nghiệp nhưng vẫn chưa đảm bảo tự túc lương thực. Các sản phẩm nông nghiệp chính của Angiêri là lúa mì, lúa mạch, yến mạch, nho, ôliu, cam, quýt, gia súc.

Chính phủ đã có nhiều cố gắng để đa dạng hoá nền kinh tế bằng việc thu hút các nguồn đầu tư trong nước và ngoài nước vào lĩnh vực năng lượng, giảm tỷ lệ người thất nghiệp và nâng cao mức sống của người dân.

Trong “12 năm hoàng kim” từ 1973 đến 1985, thời kỳ vàng của dầu mỏ, Angiêri đã có một sự tăng trưởng kinh tế đáng kể nhờ vào nguồn lợi dầu mỏ tương đối dồi dào và được bán với giá cao. Trong thời kỳ này, GDP của Angiêri tăng trung bình 8%/năm. Angiêri tập trung đến 60% thu nhập quốc dân vào ngành công nghiệp hoá dầu, ít chú ý đến các ngành công nghiệp và nông nghiệp khác. Nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào bao cấp của Nhà nước.

Do giá dầu khí giảm mạnh trên thị trường thế giới, tỷ lệ tăng dân số quá cao cộng với mất cân đối trong cơ cấu phát triển kinh tế, nền kinh tế Angiêri đã dần đi vào thế đình trệ và suy thoái, đặc biệt trong giai đoạn từ 1986 đến 1992. Mặt khác, do nguồn thu ngoại tệ từ các nguồn khác ngoài dầu mỏ không đáng kể, Angiêri đã phải vay nợ nước ngoài rất nhiều.

Cùng với các nỗ lực nhằm cân bằng nền kinh tế, giảm bớt thâm hụt ngân sách và cán cân thương mại, năm 1988, Chính phủ Angiêri đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ hệ thống tập trung, bao cấp do Nhà nước quản lý sang nền kinh tế thị trường, từ bỏ độc quyền ngoại thương.

Những năm qua, mặc dù gặp khủng hoảng chính trị-xã hội, tình hình kinh tế nước này đã có nhiều tiến bộ. Năm 2003, GDP đạt 66,6 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người khoảng 2000 USD/năm. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm 10,2%, công nghiệp 55,1% và dịch vụ 34,7%.



2. THỊ TRƯỜNG ANGIÊRI

2. 1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG ANGIÊRI

Với số dân 32 triệu và thu nhập bình quân đầu người khoảng 2000 USD/năm, Angiêri là một trị trường tiêu thụ nông sản-thực phẩm rất lớn trong khu vực Bắc Phi nói riêng và thị trường châu Phi nói chung. Mỗi năm Angiêri nhập khẩu khoảng 3,3 tỷ USD loại mặt hàng này.

Về ngoại thương, năm 2003, xuất khẩu của Angiêri ra thế giới đạt khoảng 25 tỷ USD trong đó khí tự nhiên 9,6 tỷ USD, sản phẩm dầu tinh lọc 4 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp 476 triệu USD. Các bạn hàng xuất khẩu chính là Italia (19,3%), Pháp (15,71%), Tây Ban Nha (15,63%), Mỹ (9,85%), Hà Lan (7,94%), Canada (5,47%)... Châu Á mới chỉ chiếm 2% xuất khẩu của Angiêri.

Nhập khẩu của Angiêri năm 2003 đạt 12,4 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm tư liệu sản xuất, lương thực, thực phẩm và đồ uống, hàng tiêu dùng. Các bạn hàng nhập khẩu là Pháp (24,73%), Italia (7,05%), Đức (6,51%), Mỹ (5,70%), Tây Ban Nha (5,26%), Trung Quốc (5,18%)... Châu Á chiếm 9% giá trị nhập khẩu của Angiêri.

Giá dầu mỏ liên tục tăng trong năm 2004 đã tạo điều kiện cho kim ngạch xuất khẩu của Angiêri tăng mạnh (dầu mỏ chiếm 97% kim ngạch xuất khẩu).

Các sản phẩm xuất khẩu khác của Angiêri còn hạn chế về mặt chất lượng, khả năng cạnh tranh thấp (thiết bị công-nông nghiệp).

Về nhập khẩu, vốn là một nước chủ yếu sản xuất dầu khí (chiếm 34% tổng sản lượng quốc dân), nông nghiệp, công nghiệp chế biến còn rất hạn chế, Angiêri là một thị trường nhập khẩu lớn (3 tỷ USD/năm về thực phẩm, 5 tỷ USD về thiết bị công nghiệp, 2 tỷ USD về hàng tiêu dùng...).


2.2. TÌNH HÌNH HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG
Angiêri theo đường lối đối ngoại độc lập dân tộc và không liên kết tích cực, đa dạng hoá quan hệ với các nước để tranh thủ điều kiện có lợi nhất cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Angiêri là thành viên của rất nhiều tổ chức quốc tế như AFDB, ECA, FAO, G-77, IAEA, ICAO, IBRD, ILO, IMF, IMO, Interpol, OPEC, UN, UNCTAD, UNESCO, WHO... Cũng giống như Việt Nam, Angiêri đang tích cực đẩy mạnh đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) dự kiến vào cuối năm 2005.

Do chưa phải là thành viên của WTO nên Angiêri chưa áp dụng một hiệp định riêng rẽ nào về ưu đãi thuế quan mà chỉ áp dụng một biểu thuế duy nhất cho tất cả các nước. Tuy nhiên mức thuế nhập khẩu rất cao: Nhóm nguyên liệu: 5%; Nhóm bán thành phẩm: 15% và nhóm thành phẩm: 30%

Ngoài ra, để bảo hộ sản xuất trong nước, Angiêri còn áp dụng thuế phụ thu tạm thời 12% hoặc 16% đối với nhiều sản phẩm.

Hiện nay Angiêri ưu tiên cải cách kinh tế chú trọng phát triển quan hệ kinh tế với Mỹ, Pháp, EU (tháng 4/2002, Angiêri đã ký Hiệp định hợp tác với EU) nhằm tranh thủ đầu tư và viện trợ của các nước này, giải quyết khủng hoảng kinh tế trong nước. Quan hệ với các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu vẫn duy trì ở mức bình thường.

Angiêri tích cực đóng góp vào việc thành lập Liên minh Maghreb và sự đoàn kết trong OUA, trong nội bộ các nước A-rập, cải thiện quan hệ với Marốc, ký Hiệp định hợp tác hữu nghị với Tuynidi, Hiệp định biên giới với Mali, Nigiê...

Năm 1988, nước này đã bỏ chế độ độc quyền ngoại thương.

3. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-ANGIÊRI

3.1. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-ANGIÊRI

Việt Nam và Angiêri đã có quan hệ truyền thống tốt đẹp từ lâu đời. Hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 28/10/1962. Tháng 11/1962, ta đặt Đại sứ quán tại Angiêri và tháng 4/1968, Angiêri đặt Đại sứ quán tại Hà Nội. Hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao sang thăm viếng lẫn nhau. Gần đây nhất là chuyến thăm của đoàn Chủ tịch nước Trần Đức Lương sang Angiêri năm 1999, đoàn Uỷ ban đối ngoại Quốc hội Việt Nam (1/2003) và đoàn của Thủ tướng Phan Văn Khải (11/2004).

Phía Bạn cũng đã có các đoàn cấp cao sang ta như Tổng thống Abdelaziz Boutelflika thăm Việt Nam tháng 10/2000, Bộ trưởng Bộ Tài chính (2/2001), Bộ trưởng Xí nghiệp vừa và nhỏ và Thủ công nghiệp (1/2004).

Hai nước đã ký nhiều văn bản pháp lý quan trọng trong đó có Hiệp định Thương mại (ký lại năm 1994) với điều khoản Tối huệ quốc, Hiệp định hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật, Hiệp định miễn thị thực đối với hộ chiếu ngoại giao và công vụ, Hiệp định khyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần.

Sau kỳ họp thứ 2 của UBHH Việt Nam-Angiêri tại Hà Nội (tháng 2/1982), quan hệ hợp tác giữa hai nước mở rộng thêm trong nhiều lĩnh vực: Y tế, giáo dục. Năm 1985 ta cử trên 1000 công nhân và kỹ sư sang Angiêri xây dựng trường học Oran. Số chuyên gia (y tế, giáo dục) của ta ở Angiêri thời kỳ đông nhất lên đến 500 người.

Ngày 10/7/2002, Công ty đầu tư và phát triển dầu khí PIDC thuộc Tổng Công ty dầu khí Việt Nam và Công ty dầu khí quốc gia Angiêri (Sonatrach) đã ký hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí. Giá trị hợp đồng giai đoạn một là 21 triệu USD hoàn toàn do PIDC đầu tư. Tỷ lệ chia là: phía Việt Nam 75%, phía Angiêri là 25%. Hợp đồng trên được coi là bước đột phá của ngành dầu khí Việt Nam trong việc mở rộng hợp tác khai thác dầu khí ở châu Phi.

Năm 2003, phía Angiêri yêu cầu Việt Nam giao 10 triệu USD trả nợ bằng gạo. Tổng Công ty Lương thực miền Bắc (Vinafood I) đã thực hiện xong hợp đồng này.

Tháng 1/2004, nhân kỳ Họp UBHH Việt Nam-Angiêri lần thứ 6 tại Hà Nội, hai bên đã ký kết Biên bản kỳ họp và Bản ghi nhớ về hợp tác giữa Bộ xí nghiệp vừa và nhỏ và Thủ công nghiệp Angiêri với Liên minh các hợp tác xã Việt Nam.

Tháng 4/2004, Bộ Thương mại đã cử tham tán thương mại quay trở lại Angiêri khôi phục lại thị trường này sau 10 năm đóng cửa cơ quan đại diện thương mại.

Tháng 6/2004, 7 doanh nghiệp Việt Nam thuộc các lĩnh vực nông sản, trang thiết bị nông nghiệp, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng dệt may, thiết bị điện... đã tham dự Hội chợ quốc tế Angiêri. Tại đây, các doanh nghiệp hai nước đã ký biên bản thoả thuận hợp tác.

Giai đoạn từ 1989 đến 2001, mỗi năm Việt Nam giao sang Angiêri khoảng 10-15 triệu USD trong khuôn khổ trả nợ. Quan hệ giữa các doanh nghiệp hai nước có bước phát triển tốt. Tuy nhiên ngoại thương theo hợp đồng thông thường hầu như chưa đáng kể.

Giai đoạn từ năm 2002 đến nay, gần như không còn việc giao hàng trả nợ và giao hàng theo các hợp đồng ngoại thương thông thường đã có bước phát triển khá, mặc dù kim ngạch còn khiêm tốn.

Bảng sau cho thấy trong thời gian qua, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đã có những bước tăng đáng kể. Đáng chú ý trong trao đổi thương mại hai nước, Việt Nam xuất siêu gần như tuyệt đối (xin xem phụ lục 7).

Các mặt hàng xuất khẩu chính của ta gồm gạo, cà phê, hạt tiêu, săm lốp các loại, máy móc thiết bị phụ tùng, máy vi tính và linh kiện, sản phẩm hoá chất.... Gạo là mặt hàng truyền thống đã xuất sang Angiêri từ năm 2002 đến nay và liên tục tăng. Năm 2004 đẵ tăng 150% so với năm 2003. Hiện nay gạo Việt Nam đã chiếm vị trí số 1 trên thị trường Angiêri. Năm 2005 dự kiến kim ngạch sẽ tăng 20%. Tuy nhiên, lương thực chính tại Angiêri là bột mỳ nên khả năng tăng cao hơn là khó.

Cà phê cũng là một mặt hàng truyền thống đã xuất sang Angiêri từ năm 2002 đến nay. Năm 2004 xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường này đã tăng 53% so với năm 2003. Năm 2005 khả năng con số này sẽ tăng 25% vì nhu cầu cà phê của Angiêri rất lớn (nhập khoảng 100 triệu USD/năm).

Hạt tiêu cũng là mặt hàng truyền thống của Việt Nam xuất sang Angiêri. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này tăng 30%, năm 2005 dự kiến tăng 20%.

May mặc và giày dép cũng là hai mặt hàng thế mạnh của Việt Nam nhưng chưa phát huy được lợi thế tại Angiêri. Nguyên nhân là do rào cản thuế quan quá cao, tổng thuế nhập khẩu lên tới 47% đối với giày dép. Sức mua của người dân còn thấp, đa phần chỉ mua hàng rẻ, chất lượng trung bình.

Tới đây chúng ta có thể xuất khẩu sang Angiêri các mặt hàng mới như lạc nhân vì Angiêri mỗi năm phải nhập khoảng 5000 TM; hạt vừng (2000 TM), đồ gỗ (Angiêri có nhu cầu nhập khoảng 300 triệu USD/năm), dụng cụ cầm tay và khoá (38 triệu USD/năm) (xin xem phụ lục 8).

Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Angiêri rất ít, nhiều năm hầu như không có chủ yếu là thức ăn gia súc, giấy phế liệu, phốt phát, sắt thép.

3.2. NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-ANGIÊRI


  • Thuận lợi

Hai nước có mối quan hệ truyền thống tốt đẹp. Bạn đánh giá cao và khâm phục chiến thắng Điện Biên Phủ, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của ta. Lãnh đạo Bạn rất kính trọng và có cảm tình đặc biệt với Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định CT Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ của nhân dân Việt Nam mà còn của cả nhân dân Angiêri và Châu Phi. Hàng năm lãnh đạo hai nước đều có những chuyến thăm lẫn nhau.

Việt Nam và Angiêri đã ký Hiệp định thương mại trong đó có điều khoản Tối huệ quốc, Hiệp định miễn thị thực đối với hộ chiếu ngoại giao và công vụ. Hai bên cũng đã đặt cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại, tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường, xúc tiến thương mại. Từ khi tham tán thương mại Việt Nam trở lại Angiêri vào tháng 5/2004, các doanh nghiệp của Việt Nam lại tích cực tham gia vào Triển lãm quốc tế Angiê và đã ký được nhiều hợp đồng quan trọng. Kim ngạch xuất khẩu của ta sang thị trường này đã tăng nhanh trong thời gian qua.

Nhiều mặt hàng Angiêri có nhu cầu nhập khẩu với giá trị cao lại là những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như cà phê, hạt tiêu, gia vị, vải sợi, hàng may mặc, giày dép, gạo, chè, đường, các loại hạt khô, dừa, hạt điều, đồ điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ...

Sau hơn mười năm ở trong tình trạng khủng bố, nay tình hình chính trị xã hội của Angiêri đã đi vào thế ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác kinh tế, phát triển trao đổi thương mại giữa hai nước.

Sự năng động của các doanh nghiệp của Việt Nam và Angiêri trong cơ chế thị trường sẽ là động lực quan trọng cho phát triển trao đổi thương mại song phương.

Giá dầu mỏ trong những năm qua và năm 2005 sẽ vẫn ở mức cao, tạo điều kiện để Angiêri tăng thu xuất khẩu, cải thiện tình hình kinh tế và gia tăng ngân sách nhập khẩu (hiện nay dự trữ ngoại tệ của Angiêri khoảng 35 tỷ USD tương đương gần 3 năm nhập khẩu).



  • Khó khăn

Như đã trình bày, kể từ năm 2002, hai nước mới tiến hành buôn bán thông thường vì trước đó Việt Nam xuất hàng sang Angiêri chủ yếu trong khuôn khổ chương trình trả nợ dầu khí mà bạn đã cho ta vay trong những năm kháng chiến. Chính vì vậy mà vài năm trở lại đây, mặc dù có sự tăng trưởng nhưng kim ngạch xuất khẩu của ta vẫn còn khiêm tốn.

Mặt khác, Angiêri vừa mới ra khỏi tình trạng khủng bố. An ninh chính trị thực sự chỉ mới có được từ vài năm trở lại đây. Chính điều đó đã hạn chế rất lớn đến sự giao lưu, hợp tác của các doanh nghiệp hai nước những năm trước đây.

Mặc dù đã chiếm khoảng 50% trị giá doanh thu nhưng hầu hết các công ty tư nhân của Angiêri đều mới thành lập, khả năng vốn hạn chế, phương thức thanh toán trả chậm khá phổ biến, phương tiện thông tin còn lạc hậu, tác phong kinh doanh còn chậm chạp.

Do khoảng cách quá xa dẫn đến phí vận tải, phí kho bãi cao nên doanh nghiệp hai bên vẫn chưa thực sự quan tâm nhiều đến thị trường của nhau.

Ngoài ra, do trong buôn bán hai chiều hiện nay, Việt Nam xuất siêu gần như tuyệt đối nên muốn đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa vào thị trường Angiêri không phải là đơn giản.
C. VƯƠNG QUỐC MAROC

1. TỔNG QUAN VỀ MAROC

1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Vương quốc Maroc nằm ở tây bắc Châu Phi, phía bắc là Địa Trung Hải, phía đông giáp Angieri, phía nam giáp Tây Sahara và phía tây là Đại Tây Dương. Diện tích Maroc rộng 446.550 km2, dân số 32 triệu người (năm 2003), trong đó 99% là người Arập Berbe. Thủ đô Rabat có khoảng 1 triệu dân. Các thành phố lớn khác là Casablanca, Marrakech, Tanger... Do có hai mặt giáp biển, lại nằm trên eo biển Gibralta là điểm ngắn nhất ngăn cách Châu Âu với Châu Phi nên Maroc có một vị trí địa lý, chính trị quan trọng ở khu vực Bắc Phi.

Ở phía bắc và trong nội địa, địa hình Maroc là núi đồi với những cao nguyên rộng lớn. Xen kẽ giữa các dãy núi là các thung lũng và những dải đồng bằng phì nhiêu. Phía nam lãnh thổ Maroc nằm trong sa mạc Sahara. Khí hậu Maroc mang tính cận nhiệt đới ở ven biển và mang tính sa mạc ở trong nội địa. Tài nguyên thiên nhiên của Maroc chủ yếu là khoáng sản, quan trọng nhất là phốt-phát (với trữ lượng khoảng 11 tỷ tấn, đứng thứ ba thế giới). Ngoài ra còn có than đá, cobalt, sắt, chì, mangan, dầu mỏ, bạc, thiếc và kẽm.

1.2. ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI

Maroc vốn là xứ sở của người Berbe. Năm 682, người Arập xâm chiếm Maroc. Đến giữa thế kỉ 19, Maroc bị xâu xé bởi nhiều cường quốc phương Tây. Từ năm 1912, Pháp và Tây Ban Nha đô hộ n ước này.

Đến tháng 3/1956, Pháp thừa nhận nền độc lập của Maroc. Tháng 4/1956, Tây Ban Nha cũng thừa nhận nền độc lập của vùng đất Maroc thuộc Tây Ban Nha. Tháng 8/1957, Mohamed V lên ngôi vua, lập ra vương quốc Maroc.

Maroc có chế độ quân chủ lập hiến và đa nguyên chính trị. Vua là người đứng đầu Nhà nước (hiện là Mohamed VI). Thủ tướng đứng đầu Chính phủ. Cơ quan lập pháp là Quốc hội gồm Thượng viện có nhiệm kỳ 9 năm và Hạ viện có nhiệm kỳ 5 năm.

Tình hình chính trị xã hội Maroc hiện nay nhìn chung ổn định. Tuy nhiên vấn đề Tây Sahara vẫn đang là một điểm nóng chính trị của Maroc. Giải pháp do Liên hiệp quốc đưa ra từ hơn 10 năm nay nhằm tổ chức trưng cầu dân ý để nhân dân Tây Sahara tự quyết định tương lai của mình vẫn không thực hiện được. Trong khi đó chính quyền ở đây đã tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Arập Xarauy Dân chủ, tuy chưa được Liên hiệp quốc và nhiều nước trên thế giới công nhận.

Đạo Hồi là tôn giáo chính thức của Maroc (98,7% dân số). Các tôn giáo khác là đạo Thiên chúa, đạo Do thái.

1.3. TÌNH HÌNH KINH TẾ

Đối với nền kinh tế Maroc, thập kỷ 90 được đánh dấu bằng một sự tăng trưởng không cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình chỉ đạt 2,2%/năm giai đoạn 1990-2000 (giai đoạn 1980-1990, con số này là 4,2%/năm). Năm 2004, GDP nước này tăng trưởng 3,3% đạt 44,5 tỷ USD, thu nhập bình quân của người dân là 1.400 USD/người.

Mấy năm gần đây, kinh tế Maroc cũng đạt được những thành tựu đáng khích lệ: ổn định vĩ mô được giữ vững, tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, dự trữ ngoại hối khá cao, nợ nước ngoài giảm... Cải cách kinh tế mà Chính phủ Maroc đang tiến hành thu được nhiều tiến bộ. Công tác điều hành vĩ mô và hệ thống pháp lý ngày càng hiệu quả và minh bạch.

Lĩnh vực nông nghiệp của Maroc sử dụng 40% lực lượng lao động, nhưng trình độ kỹ thuật chưa cao, phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Trong thập kỷ 90, do thời tiết không thuận, nông nghiệp Maroc đã sụt giảm với tốc độ 1,3%/năm. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm 18,3% năm 2003. Một số nông sản chính là lúa mì, mía, ngô, khoai tây, cam...

Công nghiệp của Maroc tăng trưởng với tốc độ trung bình 3,3%/năm đầu những năm 2000, chiếm 29,7% GDP năm 2003. Ngành khai khoáng giữ một vai trò quan trọng. Maroc đứng đầu thế giới về khai thác phốt-phát, với sản lượng hàng năm đạt 11 triệu tấn. Maroc cũng là n­ước sản xuất kim loại màu quan trọng trong khu vực Bắc Phi. Công nghiệp chế tạo chiếm tỷ trọng khoảng 16,4% trong kinh tế Maroc. Các ngành chính là vật liệu xây dựng, hóa chất, dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm, hóa dầu. Riêng về dệt may, phần lớn sản xuất được thực hiện theo hợp đồng với các công ty Châu Âu.

Lĩnh vực dịch vụ của Maroc tăng trưởng với tốc độ 2,7% trong thập kỷ 90 và 2,9% năm 2003, đóng góp 52% vào GDP năm 2003. Một số ngành quan trọng là du lịch, giao thông vận tải, viễn thông... Sau một thời gian dài (1990-1997) tăng trưởng chậm, từ năm 1998, du lịch Maroc đã đạt tốc độ tăng trưởng trung bình trên 10%/năm. Năm 2003, Maroc thu hút được 2,5 triệu lượt du khách, thu nhập từ du lịch đạt khoảng 2 tỷ USD. Maroc cũng có một hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc thuộc diện phát triển nhất khu vực Bắc Phi. Năm 2003, hai ngành này đóng góp 2,3 tỷ USD vào GDP của Maroc.



2. THỊ TRƯỜNG MAROC

2.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯƠNG MAROC

Ngoại thương Maroc khá phát triển so với các nước Châu Phi khác và tăng trưởng đáng kể trong thập kỷ 90, bình quân 5,6%/năm (xuất khẩu tăng 5,8%/năm, nhập khẩu tăng 5,4%/năm). Năm 2003, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Maroc đạt 21,4 tỷ USD, trong đó xuất khẩu 8,1 tỷ USD, nhập khẩu 13,2 tỷ USD. Đáng lưu ý là cán cân thương mại hàng hóa của Maroc vẫn bị thâm hụt kinh niên, kim ngạch xuất khẩu nhìn chung chỉ bằng 65-70% kim ngạch nhập khẩu (xin xem phụ lục 9).

Hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng cao trong trao đổi thương mại của Maroc (39% xuất khẩu và 24% nhập khẩu năm 2003). Tiếp theo là bán thành phẩm (22% xuất khẩu và 21% nhập khẩu), nông sản và lương thực thực phẩm (20% xuất khẩu và 12% nhập khẩu). Nguyên nhân thâm hụt thương mại của Maroc là do hàng năm nước này phải nhập khẩu một khối lượng lớn các sản phẩm nhiên liệu và máy móc thiết bị, mỗi nhóm hàng chiếm 18% nhập khẩu năm 2003.

Xét về mặt hàng, trong nhóm bán thành phẩm, Maroc nhập khẩu chủ yếu các loại hóa chất, chất dẻo nhân tạo… và xuất khẩu các sản phẩm từ phốt-phát, phân bón… Trong nhóm hàng tiêu dùng, Maroc nhập khẩu chủ yếu xe con và phụ kiện, dược phẩm, vải, hàng điện tử… và xuất khẩu quần áo may sẵn, giày dép, thảm… Đối với hàng nông sản và lương thực thực phẩm, Maroc chủ yếu nhập khẩu lúa mì, đường, sữa, cà phê, chè, thuốc lá và xuất khẩu các loại quả họ cam quýt, rau tươi, thủy sản… Ngoài ra, hàng năm Maroc phải nhập hầu như toàn bộ nhu cầu trong nước về dầu mỏ và khí đốt.

Bạn hàng lớn nhất của Maroc là các nước EU, thường xuyên chiếm đến trên 2/3 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Maroc, trong đó riêng buôn bán với Pháp đã chiếm tỷ trọng trên 30%. Maroc nhập từ EU các mặt hàng máy móc thiết bị, vải, phương tiện giao thông, hóa chất và xuất khẩu sang EU hàng dệt may, nông sản. Mỹ cũng là một bạn hàng quan trọng, hàng năm chiếm khoảng 5% kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong các nước Arập, bạn hàng lớn nhất của Maroc là Arập Xêút, còn ở Châu Phi, đối tác chính là Libi.

Hiện nay Châu Á đứng thứ hai trong cơ cấu bạn hàng của Maroc (sau Châu Âu), với tỷ trọng 10,8% xuất khẩu và 19,2% nhập khẩu của Maroc năm 2003. Hai bạn hàng Châu Á lớn nhất của Maroc là Nhật Bản và Trung Quốc.

Maroc có lĩnh vực thương mại dịch vụ khá phát triển và đạt thặng dư cao. Xuất khẩu dịch vụ tăng từ 1,9 tỷ USD năm 1990 lên 3,2 tỷ USD năm 2003, bình quân tăng 5,5%/năm. Trong cùng thời kỳ, nhập khẩu dịch vụ chỉ tăng từ 932 triệu USD lên 1,1 tỷ USD. Năm 2003, doanh thu từ du khách quốc tế đạt trên 2 tỷ USD. Đội ngũ lao động và kiều dân Maroc ở nước ngoài (chủ yếu ở các nước EU) cũng đem lại khoảng 2 tỷ USD/năm.

Về đầu tư, tỷ trọng của FDI trong GDP Maroc còn thấp (từ 1-3%, tức là khoảng vài trăm triệu USD/năm). Riêng năm 2003, đầu tư nước ngoài tăng đột biến đến 2,9 tỷ USD do việc Chính phủ Maroc quyết định tư nhân hóa Công ty viễn thông Nhà nước Maroc Telecom và bán 35% cổ phần cho tập đoàn Vivendi của Pháp với số tiền 2,3 tỷ USD. Các nước đầu tư nhiều nhất vào Maroc là Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Đức và Anh. Đầu tư chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực công nghiệp, viễn thông, bất động sản, ngân hàng… Năm 2003, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của Maroc đạt 500 triệu USD, tập trung ở một số nước trong khu vực.

2.2. TÌNH HÌNH HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG

Trong hợp tác quốc tế, Maroc chủ yếu hướng về các nước EU. Hai bên đã ký Hiệp định hợp tác Maroc – EU, có hiệu lực từ 1/3/2000. Hiệp định này nằm trong khuôn khổ chương trình hợp tác Châu Âu - Địa Trung Hải, dự kiến tự do hóa từng bước quan hệ thương mại song phương trong giai đoạn 12 năm. Theo một hiệp định ký năm 1976, tất cả các sản phẩm công nghiệp của Maroc đã hoàn toàn được tự do vào EU. Với hiệp định mới này, các mặt hàng thủy sản của Maroc cũng được tự do vào EU không chịu thuế và hạn ngạch. Còn các mặt hàng nông sản vẫn chịu khống chế bằng hạn ngạch. Đối với EU, tác động lớn nhất của hiệp định này là việc Maroc từng bước loại bỏ thuế quan đối với hàng hóa EU trong thời hạn 12 năm.

Maroc và Mỹ có quan hệ song phương khá phát triển. Maroc chú trọng thu hút các công ty Mỹ vào đầu tư kinh doanh. Hiệp định thương mại và đầu tư ký năm 1995 giữa Mỹ và Maroc quy định các bên sẽ áp dụng những biện pháp khuyến khích thương mại hàng hóa và dịch vụ, và thiết lập các điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quan hệ thương mại và đầu tư dài hạn. Các nhóm công tác hỗn hợp gồm các quan chức Mỹ, Maroc và các đại diện khu vực tư nhân đã được lập để xác định các giải pháp cụ thể cho những mục tiêu trên.

Maroc đóng một vai trò tích cực trong các sáng kiến hội nhập khu vực. Tháng 5/2001, Maroc đã ký Tuyên bố Agadir cùng với Tuynidi, Ai Cập và Jordani hướng tới mục tiêu thành lập một khu thương mại tự do giữa các nước phía nam Địa Trung Hải trước đó đã ký Hiệp định hợp tác với EU. Maroc cũng là thành viên tích cực trong Liên minh Arập Maghreb (UMA).

Maroc ngày càng quan tâm phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước Châu Á. Với Trung Quốc, Maroc đã ký nhiều hiệp định và thỏa thuận về thương mại, khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật, vận tải hàng không, vận tải đường biển, thanh toán... Với Nhật Bản, Maroc cố gắng tranh thủ vốn vay và đầu tư. Hiệp định thương mại song phương được ký từ năm 1961, với nhiều lần điều chỉnh bổ sung. Ngoài ra hai nước còn ký nhiều thỏa thuận qua đó Nhật Bản cho Maroc vay vốn để phát triển kinh tế xã hội.

Về mở cửa thị trường, phù hợp với các cam kết trong khuôn khổ WTO, Chính phủ Maroc đã từng bước giảm bớt các rào cản thương mại trong thập kỉ qua, tuy nhiên nhìn chung mức độ bảo hộ vẫn còn cao. Mức thuế nhập khẩu trung bình hiện nay là 35%. Thuế nhập khẩu dao động từ 2,5% đối với nguyên liệu thô, máy móc thiết bị lên đến 349% đối với một số mặt hàng thực phẩm. Hàng nhập khẩu còn phải chịu thuế giá trị gia tăng ở mức 0-20%, trong khi hàng sản xuất trong nước thường không phải chịu loại thuế này. Nói chung, hạn chế định lượng đối với các mặt hàng nông sản và thực phẩm đã được thay bằng thuế nhập khẩu ở mức cao, bình quân các loại phí và thuế nhập khẩu gộp lại khoảng 80%.

Hiện nay, 95% các mặt hàng được tự do nhập khẩu vào Maroc. Hầu hết các quy định cấm nhập khẩu hoặc giấy phép nhập khẩu đã được loại bỏ, ngoại trừ vũ khí, chất nổ, quần áo và lốp xe đã qua sử dụng. Như vậy thuế quan là cơ sở duy nhất để điều chỉnh các hoạt động ngoại thương. Tuy nhiên thuế nhập khẩu ở mức cao được coi là cản trở chính đối với hàng hóa nhập khẩu vào Maroc.

Về xuất khẩu, hầu hết các mặt hàng đều được xuất khẩu tự do, trừ các mặt hàng sau phải có giấy phép của Bộ Ngoại thương Maroc: đồ cổ hơn 100 năm tuổi, các sản phẩm khảo cổ, lịch sử, cổ sinh vật học, những mẫu vật về giải phẫu, thực vật, khoáng chất và động vật học, than củi và bột ngũ cốc, ngoại trừ bột gạo.

Chính phủ Maroc đã có nhiều biện pháp cải thiện môi trường đầu tư trong những năm gần đây, như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài tham gia chương trình tư nhân hóa, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước…



3. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-MAROC

3.1. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-MAROC

Việt Nam và Maroc thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 27/3/1961. Hiện nay, Đại sứ quán Maroc tại Thái Lan kiêm nhiệm Việt Nam. Đại sứ quán Việt Nam tại Ai-cập kiêm nhiệm Maroc. Hai bên cũng đã trao đổi một số đoàn cấp cao. Gần đây nhất, tháng 11/2004, Thủ tướng Phan Văn Khải đã sang thăm và làm việc tại Maroc. Cùng đi có đại diện các bộ, ngành và đông đảo các doanh nghiệp.

Tháng 6/2001, Việt Nam và Maroc đã ký Hiệp định thương mại, quy định dành cho nhau quy chế MFN trong buôn bán song phương. Đây là hiệp định đầu tiên được ký giữa hai nước. Tháng 6/2004, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép mở thương vụ tại Maroc. Theo kế hoạch, giữa năm 2005, Tham tán Thương mại Việt Nam sẽ lên đường nhận nhiệm vụ tại Marốc. Đây sẽ là một điều kiện thuận lợi để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước trong thời gian tới.

Trong lĩnh vực ngoại thương, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Maroc còn ở mức thấp và tăng giảm thất thường. Thống kê trong giai đoạn 1991-2001 cho thấy trước năm 1995, buôn bán giữa hai nước chưa có gì. Năm 1995, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang Maroc và năm 1996 thì bắt đầu nhập khẩu từ Maroc. Từ đó đến nay buôn bán hai chiều dao động trong khoảng 1-3 triệu USD/năm. Riêng năm 2004, xuất khẩu của ta sang thị trường này đã đạt trên 8 triệu USD và theo số liệu của Tổng cục hải quan Việt Nam thì quý I/2005, Việt Nam đã xuất sang thị trường Maroc 3,6 triệu USD. Phần lớn thời gian qua Việt Nam xuất siêu, ngoại trừ năm 1999 Việt Nam nhập siêu 1,47 triệu USD (xin xem phụ lục 10).

Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Maroc là cà phê, hạt tiêu, cao su và các sản phẩm cao su, giày dép, dệt may, sản phẩm giấy... Các mặt hàng nhập khẩu là đồng, gỗ, phân bón, bông... Tuy nhiên giá trị xuất nhập khẩu từng mặt hàng rất thấp và thay đổi thất thường. Đặc biệt, sản phẩm nhập khẩu từ Maroc thay đổi từng năm, giá trị nhập khẩu chỉ khoảng vài chục nghìn USD. Riêng năm 1999, nước ta nhập từ Maroc gần 2 triệu USD phân phốt-phát làm cho kim ngạch nhập khẩu tăng đột biến (xin xem phụ lục 11).

Giữa Việt Nam và Maroc chưa phát triển thương mại dịch vụ cũng như hoạt động đầu tư. Hai nước chưa có hợp tác song phương về sở hữu trí tuệ. Nước ta và Maroc đều là thành viên của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), cùng ký kết Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Thỏa ước Madrid về đăng ký nhãn hiệu hàng hóa quốc tế và Hiệp ước hợp tác sáng chế (PCT).

3.2. NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-MAROC



  • Thuận lợi

Maroc có tình hình chính trị xã hội ổn định, có một nền kinh tế mở và đang lấy lại đà phát triển sau thời kỳ tăng trưởng chậm của những năm 90. Chính phủ Maroc áp dụng nhiều chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, thúc đẩy ngoại thương, mở cửa thị trường, tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế… Quan hệ chính trị ngoại giao giữa Việt Nam và Maroc phát triển đáng kể trong thập niên 90, tạo nền tảng cho việc xây dựng và phát triển quan hệ kinh tế thương mại. Buôn bán hai chiều đã bắt đầu được triển khai và có mức tăng trưởng nhất định, hàng hóa của hai nước đã bước đầu xâm nhập thị trường của nhau. Chính phủ Việt Nam đã cho phép thành lập cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại tại Marốc. Theo kế hoạch, các cơ quan này sẽ được mở trong năm 2005. Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại song phương được ký tháng 6/2001 với điều khoản MFN đã tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho trao đổi thương mại giữa hai nước.

Thị trường Maroc có nhu cầu lớn đối với các sản phẩm bình dân, chất lượng vừa phải và giá không cao. Maroc lại có những thế mạnh riêng với một số sản phẩm, đặc biệt là phốt-phát. Vì vậy, Việt Nam và Maroc có nhiều cơ hội trao đổi các sản phẩm thế mạnh của nhau. Một số mặt hàng của nước ta như dệt may, giày dép, cà phê, cao su, giấy và sản phẩm giấy… đã xâm nhập thị trường Maroc một cách ổn định trong thời gian qua.

Với vị trí địa lý của mình, Maroc có thể là điểm trung chuyển để đưa hàng Việt Nam sang các nước Tây Bắc Phi cũng như EU. Ngoài ra, các chính sách ưu đãi của Chính phủ Maroc cũng mở ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư liên doanh với các đối tác Maroc, đặc biệt tại các khu công nghiệp hay khu thương mại tự do, từ đó xuất hàng vào nội địa và sang các nước lân cận.


  • Khó khăn

Tuy Maroc đã thực hiện lộ trình cắt giảm thuế theo cam kết với WTO nhưng nhìn chung thuế nhập khẩu còn cao, đặc biệt đối với hàng nông sản là những mặt hàng nước ta có thế mạnh và bước đầu đã xâm nhập được vào đây. Điều này làm giảm nhiều khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, nhất là đối với những nước mà Maroc đã có thỏa thuận quan hệ thương mại tự do.

Quan hệ thương mại truyền thống của Maroc là hướng đến EU, các nước Arập và một số nước lớn trên thế giới. Khi mở rộng giao lưu với Châu Á, Maroc cũng thường chú ý đến các nước như Trung Quốc, Nhật Bản... Vì vậy, hàng hóa Việt Nam còn rất xa lạ đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng Maroc. Khối lượng các mặt hàng được xuất sang thị trường này hàng năm còn quá nhỏ, chưa gây được tác động tích cực đến thị hiếu của người tiêu dùng Maroc.

Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, Maroc tỏ ra là một thị trường xa lạ. Các doanh nghiệp hầu như chưa quan tâm đến thị trường này khi mở rộng hoạt động kinh doanh. Buôn bán với các doanh nghiệp Maroc mang tính thời vụ chứ không ổn định, từ đó chưa xây dựng được quan hệ đối tác tin cậy, lâu bền. Các hoạt động xúc tiến thương mại như quảng bá sản phẩm, tham dự hội chợ, triển lãm, trao đổi thông tin... hầu như chưa được tiến hành tại thị trường Maroc.
D. GIAMABIRIIA ARẬP LIBI NHÂN DÂN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. TỔNG QUAN VỀ LIBI

1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Libi nằm trong khu vực Bắc Phi, giáp Địa Trung Hải, Ai Cập, Xu-đăng, CH Sát, Nigiê, Angiêri và Tuynidi. Với diện tích 1.759.540 km2, lớn thứ 3 ở châu Phi, Libi có dân số khoảng 5,6 triệu người (2003). Thủ đô là Tripoli, các thành phố lớn khác là Banghazi, Az Zawiyah, Misratah…

Địa hình đa dạng: trên 90% là sa mạc và bán sa mạc. Địa hình gồm có đất cằn, bằng phẳng đến những đồng bằng nhấp nhô, các cao nguyên và vùng đất trũng.

Khí hậu Địa Trung Hải dọc theo bờ biển và khô, sa mạc trong nội địa. Ở các vùng sa mạc khí hậu khắc nghiệt, ít mưa, mùa hè nhiệt độ có lúc lên tới 500C. Nhiệt độ trung bình tháng 1 từ 110 đến 120C; tháng 7 từ 27 đến 290C. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 25 đến 625mm.

Về tài nguyên thiên nhiên có dầu mỏ, khí tự nhiên, thạch cao.



Каталог: luanvan
luanvan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN

tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương