Một trong những nhiệm vụ then chốt của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu



tải về 0.96 Mb.
trang2/12
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.96 Mb.
#30917
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

I.2. ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI


Châu Phi là lục địa có lịch sử lâu đời. Nền văn minh cổ đại đầu tiên của loài người xuất hiện ở Ai Cập từ 3400 năm trước Công nguyên (CN). Ở Bắc Phi, người Phenisi thành lập đế chế Carthage vào thế kỷ thứ 9 trước CN và đến thế kỷ thứ nhất trước CN mở rộng bờ cõi ra toàn vùng đông bắc Châu Phi. Năm 146 sau CN, người La Mã chinh phục đế chế Carthage và cai quản toàn bộ vùng Bắc Phi đến thế kỷ thứ 4. Vào thế kỷ thứ 17, người Arập bắt đầu chinh phục vùng này và các thương gia Hồi giáo truyền bá đạo Hồi khắp vùng, qua cả sa mạc Sahara tới Vương quốc Tây Sudan, một vương quốc hùng mạnh thời Trung cổ ở sát phía nam sa mạc Sahara.

Từ giữa thế kỷ 19, các nước Bắc Phi chịu sự thống trị của các cường quốc Châu Âu. Hai thực dân lớn nhất tại châu Phi là Pháp và Anh, trong đó Pháp đô hộ chủ yếu ở phía Tây và Tây Bắc lục địa đồng thời lập chế độ bảo hộ Angiêri, Maroc và Tuynidi.

Vào nửa cuối thế kỷ đã 20 diễn ra phong trào đấu tranh giành độc lập trên khắp Châu Phi. Trên thực tế, một vài quốc gia Châu Phi đã bắt đầu độc lập từ đầu thế kỷ 20. Từ năm 1922 Ai Cập đã thiết lập được một phần chủ quyền quốc gia (tuy đến năm 1952 mới hoàn toàn độc lập). Nhưng chỉ đến sau Chiến tranh thế giới thứ II, cùng với sự hình thành phe xã hội chủ nghĩa (XHCN), sự suy yếu của chủ nghĩa thực dân, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, thì các nước Châu Phi mới thực sự bắt đầu quá trình giành lại độc lập từ tay đế quốc thực dân Châu Âu. Một loạt các quốc gia Bắc Phi độc lập lần lượt ra đời: Libi (1951), Ai Cập (1952), Maroc, Tuynidi (1956) và Angiêri (1962).

Hiện nay, hầu hết các nước Bắc Phi tham gia tổ chức Thống nhất Châu Phi (OAU). Từ tháng 7/2000, OAU được thay thế bằng Liên minh Châu Phi (AU), với sự tham gia của 53 quốc gia châu Phi (trừ Maroc do vấn đề Tây Sahara).

Chịu tác động bởi sự tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc lớn, đặc biệt là Mỹ và Liên Xô (cũ), các nước Bắc Phi có 2 mô hình phát triển xã hội chính sau khi giành được độc lập.

Những nước lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa (TBCN) như Maroc, Tuynidi, Ai Cập ... thường do giai cấp tư sản mại bản hoặc phong kiến nắm chính quyền sau khi được đế quốc thực dân trao trả độc lập chủ yếu thông qua thương lượng thỏa hiệp. Chính phủ các quốc gia này duy trì quan hệ mật thiết với các nước phương Tây nhằm tranh thủ giúp đỡ về kinh tế, quân sự và chủ trương phát triển đất nước theo mô hình TBCN.

Trong khi đó những nước có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa như Angieri, Libi giành độc lập thông qua đấu tranh vũ trang hoặc bạo lực chính trị. Ở những nước này, giới lãnh đạo có ý thức dân tộc chủ trương ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, có quan hệ hữu nghị với các nước XHCN. Họ muốn đưa đất nước phát triển theo con đường phi TBCN, nhưng không theo hệ tư tưởng của CNXH khoa học. Họ tranh thủ viện trợ kinh tế kỹ thuật từ các phía khác nhau nhưng không chấp nhận một số điều kiện chính trị kèm theo.

Sau ngày độc lập, tình hình xã hội các nước Bắc Phi có nhiều biến động. Mâu thuẫn tôn giáo hoặc chính trị dẫn đến các cuộc xung đột, khủng bố đẫm máu ở Ai Cập, Angieri, Libi… Tuy nhiên hiện nay, tình hình chung của các nước Bắc Phi là khá ổn định.

Tôn giáo chính của tất cả các nước Bắc Phi là đạo Hồi (khoảng 90-95% dân số). Các tôn giáo khác là: đạo Orthodox, đạo Thiên chúa, đạo Do thái... Các thành phố lớn nhất của châu Phi phần lớn tập trung ở Bắc Phi như Cairo và Alexandria (Ai Cập), Casablanca (Maroc).

Dân số Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung đã bùng nổ nhanh chóng trong thế kỷ 20 và dự kiến vẫn tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới, với tốc độ cao nhất so với các châu lục khác trên thế giới. Dân số Châu Phi là 814,4 triệu người vào năm 2001, chiếm 13% dân số thế giới, đứng thứ hai sau Châu Á (xin xem phụ lục 1).

I.3. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ

Các nước Bắc Phi là những nước đang phát triển, nhưng ở một trình độ cao hơn nhiều so với hầu hết các nước Châu Phi khác. Năm 2003, tổng GDP của 5 nước Bắc Phi đạt 324,5 tỷ USD, chiếm 42,6% GDP của toàn Châu Phi, trong khi dân số chỉ chiếm 17,2%. Bình quân GDP/người năm 2003 đạt 1.717 USD, cao hơn 2,5 lần so với bình quân chung của châu lục và 3,6 lần so với Châu Phi nam Sahara (xin xem phụ lục 2).

Công nghiệp giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế phần lớn các nước Bắc Phi. Năm 2003, lĩnh vực này đóng góp bình quân khoảng 35,2% GDP, cao nhất là ở Libi: 66,3%, và thấp nhất là ở Maroc: 29,7%. Công nghiệp khai khoáng là ngành then chốt ở các nước này, chủ yếu là khai thác và chế biến dầu khí, khai thác phốt-phát và chế biến các sản phẩm từ phốt-phát. Các nước Bắc Phi cũng đang cố gắng phát triển các ngành dệt may, giày dép, sản xuất đồ gia dụng, thiết bị điện, cơ khí, chế biến nông sản. Một số nước như Ai Cập, Tuynidi đang tích cực đầu tư vào lĩnh vực điện tử - tin học, coi đây là một hướng ưu tiên phát triển trong tương lai.

Nông nghiệp đóng góp một phần rất nhỏ trong kinh tế các nước Bắc Phi. Năm 2003, nông nghiệp chiếm tỷ trọng bình quân 13,2% GDP, cao nhất là ở Maroc (18,3%) và thấp nhất là ở Libi (khoảng 5%). Tỷ trọng nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần ở các nước Bắc Phi. Nhìn chung điều kiện để phát triển nông nghiệp ở Bắc Phi không thật sự thuận lợi (diện tích đất canh tác hạn chế, khí hậu sa mạc khắc nghiệt). Một số ngành chính là trồng lúa mì, khoai tây, hoa quả vùng Địa Trung Hải, chăn nuôi bò, dê, đánh bắt cá và các loại thủy sản.

Lĩnh vực dịch vụ của các nước Bắc Phi tương đối phát triển, tỷ trọng năm 2003 lên đến 51,6%, cao nhất là ở Tuynidi: 59,8% và thấp nhất là ở Libi: 28,8%. Những ngành phát triển nhất là du lịch, dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông... Mối quan hệ gần gũi với EU cũng cho phép các nước Bắc Phi đẩy mạnh các dịch vụ tài chính, ngân hàng... Ngoài ra một số nước như Ai Cập, Maroc còn xuất khẩu nhiều lao động ra nước ngoài.

II. THỊ TRƯỜNG BẮC PHI VÀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CỦA BẮC PHI

II.1. THỊ TRƯỜNG BẮC PHI

So với toàn bộ Châu Phi, các nước Bắc Phi có nền ngoại thương khá phát triển. Năm 2003, tổng xuất khẩu đạt 63,4 tỷ USD, nhập khẩp đạt 58,7 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 35,1% xuất khẩu và 38% nhập khẩu của cả châu lục. Tuy nhiên nếu Angieri và Libi xuất siêu nhờ có nguồn dầu mỏ dồi dào thì ba nước Ai Cập, Maroc và Tuynidi lại nhập siêu lớn, nên tính chung lại khu vực Bắc Phi thường bị nhập siêu trong thập kỷ 90.

Sản phẩm xuất khẩu của các nước Bắc Phi chủ yếu là nhiên liệu khoáng sản (dầu mỏ, khí đốt, phốt-phát), hàng dệt may, giày dép, một số hàng nông sản. Nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng, lương thực thực phẩm. Bạn hàng lớn nhất của các nước Bắc Phi là Liên minh Châu Âu. Ngoài ra một số đối tác quan trọng khác là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, các nước vùng Vịnh...

Các nước Bắc Phi đều có thế mạnh xuất khẩu trong thương mại dịch vụ (trừ Libi), đặc biệt về du lịch, giao thông vận tải, xuất khẩu lao động... Năm 2003, xuất khẩu dịch vụ các nước Bắc Phi ước đạt 16,4 tỷ USD (trong đó riêng Ai Cập chiếm khoảng 60%) và nhập khẩu ước đạt 11 tỷ USD (Ai Cập chiếm khoảng 63%).

II.2. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CỦA BẮC PHI



Hợp tác giữa các nước Bắc Phi:

Bên cạnh việc tham gia các tổ chức quốc tế thế giới và châu Phi, trong Bắc Phi còn có Liên minh Arập Maghreb (UMA).

Ra đời năm 1989, tập hợp 4 nước Bắc Phi là Maroc, Angieri, Tuynidi, Libi, ngoài ra có thêm Mauritania. Đây là tổ chức hợp tác toàn diện giữa các nước Bắc Phi trên mọi lĩnh vực chính trị, quốc phòng, kinh tế thương mại, văn hóa… Về kinh tế thương mại, tiến trình hội nhập sẽ diễn ra qua ba giai đoạn. Giai đoạn 1 là thiết lập khu mậu dịch tự do giữa các nước thành viên trong buôn bán hàng hóa và dịch vụ. Giai đoạn 2 là thiết lập một liên minh thuế quan và thị trường chung, với việc hợp nhất biểu thuế xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Giai đoạn 3 là thiết lập một liên minh kinh tế tổng thể. Hiện nay, các nước UMA vẫn đang trong giai đoạn đầu, hướng tới thiết lập một khu mậu dịch tự do.

Hợp tác với các nước ngoài Bắc Phi:

Với EU và các nước Tây Âu

Mối quan hệ nhiều mặt giữa các nước Châu Phi và Tây Âu đã hình thành từ lâu đời. Đặc biệt trong lịch sử cận đại, hầu hết các quốc gia Châu Phi đều từng là thuộc địa của các nước Tây Âu. Vì vậy, đến ngày nay, ảnh hưởng của các nước Tây Âu tại Châu Phi vẫn rất lớn, được thể hiện qua mối quan hệ chính trị ngoại giao chặt chẽ cũng như mối quan hệ kinh tế thương mại sâu rộng. Ngày nay, EU là thị trường nhập khẩu khoáng sản, nhiên liệu và một khối lượng lớn hàng nông sản của Châu Phi, đồng thời cũng xuất sang đây rất nhiều chủng loại hàng hóa khác nhau.

Các nước Bắc Phi cũng trở thành đối tác đặc biệt của EU thông qua Chương trình hợp tác Châu Âu - Địa Trung Hải, gọi tắt là MEDA (riêng Libi hưởng quy chế quan sát viên). Hình thức hợp tác Bắc – Nam này nhằm giúp đỡ sự phát triển kinh tế - xã hội tại các nước khu vực nam Địa Trung Hải. Về kinh tế thương mại, EU sẽ giúp các nước Địa Trung Hải tái cơ cấu kinh tế, hướng đến việc bắt đầu thiết lập dần một khu vực mậu dịch tự do EU - Địa Trung Hải từ năm 2010. Trong khuôn khổ đó, bốn nước Bắc Phi là Ai Cập, Maroc, Angieri và Tuynidi cũng đã ký hiệp định hợp tác riêng với EU nhằm tự do hóa dần quan hệ thương mại giữa từng nước với EU.

Với Mỹ

Mỹ quan tâm đến lợi ích của mình ở Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung trên nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, thương mại, đầu tư… và ngày càng tăng cường ảnh hưởng của mình ở đây, nhất là từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc.

Những năm gần đây kinh tế Mỹ phát triển ổn định, chính quyền Mỹ lại càng ra sức mở rộng ảnh hưởng đến Châu Phi. Quyết tâm mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với Châu Phi bước đầu thể hiện bằng đạo luật “Tăng trưởng kinh tế và cơ hội cho Châu Phi”, được Hạ viện Mỹ thông qua tháng 3/1998. Đạo luật này cho phép mở cửa thị trường Mỹ ngày càng nhiều đối với sản phẩm của các nước Châu Phi, thông qua việc không áp hạn ngạch và thuế nhập khẩu. Điều này đang tạo ra sự năng động mới trong buôn bán giữa Châu Phi với Mỹ.

Mỹ chọn 5 nước Châu Phi làm trọng điểm gồm: Cộng hòa Nam Phi ở miền Nam Châu Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo ở Trung Phi, Nigeria ở Tây Phi, Kenya ở Đông Phi và Ai Cập ở Bắc Phi. Năm nước này có tầm quan trọng đặc biệt đối với Mỹ vì là những nước lớn, đông dân, có nền kinh tế tương đối mạnh, đồng thời là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Mỹ ở Châu Phi.



Với Nga và các nước SNG

Thời kỳ Chiến tranh lạnh, để tranh giành ảnh hưởng với Mỹ, Liên Xô đã viện trợ quân sự, kinh tế và ủng hộ về chính trị đối với nhiều nước Châu Phi. Tổng số tiền nợ vũ khí mà Liên Xô bán cho các nước Châu Phi lên tới 18 tỷ USD. Ngoài ra, Liên Xô còn viện trợ không hoàn lại và cho một số nước Châu Phi vay với lãi suất thấp tổng cộng khoảng 2,5 tỷ USD. Sau Chiến tranh lạnh, do thế và lực suy giảm nên Nga và các nước SNG đã thu hẹp quan hệ chính trị cũng như kinh tế thương mại với khu vực Châu Phi.

Hiện nay, Nga chú trọng quan hệ kinh tế thương mại với những nước có vai trò và tiềm năng kinh tế như Ai Cập, Angieri, Maroc... Về lâu dài, Châu Phi sẽ vẫn là khu vực Nga có điều kiện phát huy ảnh hưởng và tăng cường quan hệ mọi mặt vì ở châu lục này có hàng vạn chuyên gia và lao động được Liên Xô đào tạo, có nhiều cơ sở kinh tế và các dự án hợp tác thiết lập trước đây.

Với các nước Châu Á

Buôn bán giữa các nước Châu Phi và Châu Á đã có bước tăng trưởng nhanh trong thập kỷ 90. Xuất khẩu từ Châu Phi sang Châu Á tăng trung bình 8,9%/năm, từ 8,1 tỷ USD năm 1991 lên 20,7 tỷ USD năm 2001. Tỷ trọng của Châu Á trong xuất khẩu của Châu Phi cũng tăng tương ứng từ 7,7% lên 14,7%. Những quốc gia Châu Á nhập khẩu nhiều nhất từ Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung là Nhật Bản và Trung Quốc, chủ yếu là các loại khoáng sản, nguyên nhiên liệu.

Nhập khẩu của Châu Phi từ Châu Á cũng tăng nhanh, từ 11,6 tỷ USD năm 1991 lên 25,5 tỷ USD năm 2001 (bình quân tăng 7,4%/năm). Tỷ trọng của Châu Á trong nhập khẩu chung của Châu Phi tăng tương ứng từ 11,7% lên 18,8%. Những nước xuất khẩu nhiều nhất vào Châu Phi là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc…, với các mặt hàng máy móc thiết bị, đồ điện, điện tử, hàng tiêu dùng…

Đến năm 2001, Châu Á đã trở thành đối tác lớn thứ hai sau Châu Âu trong quan hệ thương mại của các nước Châu Phi.

Về đầu tư, theo tài liệu của UNCTAD, năm 2001 các nước Bắc Phi thu hút được 5,3 tỷ USD đầu tư nước ngoài, chiếm 30,8% tổng số vốn FDI vào Châu Phi. Nước thu hút vốn cao nhất là Maroc, khoảng 2,9 tỷ USD. Đầu tư vào Bắc Phi chủ yếu từ các nước EU và Mỹ, tập trung ở một số lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI

VIỆT NAM-BẮC PHI THỜI KỲ 1991-2004
I. TỔNG QUAN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ BẮC PHI THỜI KỲ 1991-2004

I.1. ĐÔI NÉT VỀ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO

Quan hệ chính trị ngoại giao là nền tảng cho các hoạt động kinh tế thương mại và đây chính là một điểm mạnh trong quan hệ Việt Nam-Bắc Phi nói riêng và với Châu Phi nói chung. Tình đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam và các nước Bắc Phi luôn được duy trì bất chấp mọi biến động. Điều này xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử hai bên có những điểm tương đồng. Việt Nam và các nước Bắc Phi trước đây đều bị đế quốc thực dân thống trị, phải đấu tranh gian khổ để giành độc lập. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta đã tác động tích cực đến nhiều nước ở khu vực này trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Có thế nói hình ảnh của Việt Nam rất được tôn trọng và ngưỡng mộ ở các nước Bắc Phi.

Công cuộc đổi mới của Việt Nam từ năm 1986 được các nước Bắc Phi đánh giá cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ hợp tác giữa nước ta với khu vực này. Ta hiện đã có quan hệ ngoại giao và quan hệ thương mại với tất cả các nước Bắc Phi. Ta đã đặt ba cơ quan đại diện ngoại giao ở Angiêri, Libi và Ai Cập (trên tổng số 5 cơ quan ở toàn Châu Phi). 3 nước Bắc Phi nói trên cũng đã có đại diện thường trú ngoại giao tại Hà Nội. Theo kế hoạch, trong năm nay, Việt Nam và Maroc sẽ đặt đại sứ quán và cơ quan thương vụ tại mỗi nước.

Việt Nam và Bắc Phi đã trao đổi nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao trong thập kỷ 90. Về phía Việt Nam, một số đoàn tiêu biểu thăm Bắc Phi là: Chủ tịch nước Võ Chí Công thăm Angiêri (1990), Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh thăm Ai Cập, Tuynidi (1994), Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình thăm Angiêri, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm thăm Maroc (1997), Chủ tịch nước Trần Đức Lương năm Angiêri (1999). Gần đây nhất là chuyến thăm Angiêri và Maroc của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải (11/2004). Đây là đoàn Thủ tướng của ta lần đầu tiên thăm Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung sau 30 năm qua. Những chuyến thăm này thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc tăng cường hợp tác nhiều mặt với các nước Bắc Phi trước thềm thế kỷ 21.

Phía Bắc Phi cũng có nhiều đoàn cấp cao thăm Việt Nam như Tổng thống Angiêri (1996, 2000) và dự kiến năm 2005, Việt Nam sẽ đón đoàn của Thủ tướng Maroc, Chủ tịch Hạ viện Angiêri sang thăm.

Những năm qua, Việt Nam đã phối hợp tích cực với các nước Bắc Phi trong Phong trào không liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, tại Liên hiệp quốc và các diễn đàn quốc tế khác trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam với các nước châu Phi là điều kiện thuận lợi góp phần thúc đẩy sự hợp tác giữa hai bên trên nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, y tế, giáo dục…. và đặc biệt trong lĩnh vực thương mại.

Sau Hội thảo quốc tế đầu tiên “Việt Nam-Châu Phi: Cơ hội hợp tác và phát triển trong thế kỷ 21” tổ chức tại Hà Nội vào tháng 5/2003, Chính phủ đã thông qua Chương trình Hành động Việt Nam-Châu Phi.

Riêng trong năm 2004, một loạt các hoạt động đã được triển khai ở các bộ ngành. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có chương trình hành động riêng về nông nghiệp. Bộ Thủy sản thành lập nhóm công tác. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã thành lập Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam-Châu Phi (28/10/2004) lập cổng giao dịch Internet và tổ chức hội thảo giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp các nước châu Phi (Angiêri, Maroc, Nam Phi…). Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam thành lập Hội hữu nghị và hợp tác Việt Nam-châu Phi (17/11/2004) và Viện Khoa học-Xã hội Việt Nam thành lập Phân viện nghiên cứu châu Phi-Trung Đông (11/2004).

I.2. TỔNG QUAN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ BẮC PHI THỜI KỲ 1991-2004

Buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và các nước Bắc Phi tăng trưởng đáng kể trong thập kỷ 90. Kim ngạch buôn bán tăng từ 15,5 triệu USD năm 1991 lên 68 triệu USD năm 2004. Nhưng sự tăng trưởng này là không ổn định, thay đổi tùy từng năm. Đáng lưu ý là Việt Nam luôn xuất siêu sang Bắc Phi khá lớn (xin xem phụ lục 3).

Các thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của nước ta trong khu vực là Ai Cập, Angieri và Libi. Đối với Angieri và Libi, có thể nói trong giai đoạn từ 1991 đến 1997 đây là hai thị trường chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực. Từ năm 1997 đến nay, Ai Cập nổi lên là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta ở Bắc Phi. Các mặt hàng xuất khẩu chính là máy móc thiết bị điện và cơ khí, cà phê, hạt tiêu, hàng dệt may, giày dép…

Nhập khẩu của Việt Nam từ các nước Bắc Phi chỉ thực sự có ý nghĩa trong vài năm gần đây, chủ yếu do việc nhập khẩu phân bón từ Tuynidi và một số mặt hàng như thảm, đồng, bông, chà là từ Ai Cập và Maroc.

Quan hệ về thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và các nước Bắc Phi chưa phát triển. Trước đây nước ta đã cử một số chuyên gia y tế và giáo dục sang làm việc tại Angieri. Cuối những năm 90, hầu hết số chuyên gia này đã rút về nước. Hiện nay, nước ta đang có gần 2.000 lao động xuất khẩu tại Libi, theo hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp.

Về đầu tư, Việt Nam chưa thu hút được dự án đầu tư nào từ các nước Bắc Phi. Nhưng năm 2002, nước ta đã có dự án đầu tư đầu tiên vào Bắc Phi, cụ thể là tại Angieri. Dự án này thuộc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, trong lĩnh vực khai thác dầu khí có trị giá hợp đồng lên tới 21 triệu USD.

II. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM - BẮC PHI


Каталог: luanvan
luanvan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN

tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương