Một trong những nhiệm vụ then chốt của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu



tải về 0.96 Mb.
trang9/12
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.96 Mb.
#30917
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

I.4.1. Công tác thông tin

Vấn đề thông tin có vai trò to lớn trong việc xúc tiến các hoạt động thương mại. Thực tế là hiện nay thông tin hai chiều giữa nước ta với 5 nước Bắc Phi vẫn còn thiếu thốn. Hơn nữa, nếu có thông tin thì chủ yếu chỉ dừng lại ở cấp lãnh đạo và các cơ quan quản lý Nhà nước, chưa xuống đến các doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước phải quan tâm phát triển công tác thông tin nhằm đảm bảo có sự hợp tác chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, tạo ra nguồn thông tin phong phú, đáng tin cậy về thị trường các nước Bắc Phi, từ đó nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp và các đơn vị có liên quan về tiềm năng to lớn của thị trường này. Khi mà doanh nghiệp chưa có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về thị trường Bắc Phi do thiếu thông tin thì mọi chủ trương của Nhà nước đều rất khó phát huy hiệu quả.

Cho đến nay nước ta đã có rất nhiều sách, báo, tạp chí, rất nhiều cơ quan tham gia cung cấp thông tin phục vụ hoạt động kinh tế cũng như các hoạt động xuất nhập khẩu cụ thể. Tuy nhiên, thông tin về thị trường các nước Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung còn rất ít, rất tản mát và thiếu đồng bộ. Cần nghiên cứu tạo ra một dạng chuyên san dành riêng nói về thị trường Bắc Phi, trong đó cập nhật nhanh và đầy đủ các thông tin liên quan đến thị trường trong nước cũng như thị trường các nước Bắc Phi, các ngành hàng, mặt hàng, khả năng cung cấp và tiêu thụ, điều kiện cung cấp hoặc tiêu thụ, các mặt hàng cùng loại, các mặt hàng có khả năng thay thế, các thông tin liên quan đến tình hình hoạt động của các đối thủ cạnh tranh, hàng rào thuế quan, phi thuế quan hoặc các biện pháp bảo hộ trên từng thị trường, các thông tin về trợ giúp khi cần thiết... Chuyên san này có thể thuộc một cơ quan quản lý Nhà nước (chẳng hạn Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch Đầu tư…) hay do Hội hữu nghị và hợp tác Việt Nam-Châu Phi.

Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp đều có thể trực tiếp vào mạng và hòa mạng Internet để khai thác và cung cấp thông tin. Chỉ cần có địa chỉ và xác định rõ nhu cầu thông tin cần thiết thì có thể tìm thấy và thỏa mãn phần nào nhu cầu đó trên Internet, từ cẩm nang thương mại, phương pháp làm ăn trên thị trường sở tại, tình hình cung cầu các loại sản phẩm đến địa chỉ của các công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn của từng nước và những đề xuất kiếm tìm đối tác v.v… Vì vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước, cũng như các cơ quan đại diện Việt Nam ở Châu Phi cần sớm quan tâm đầu tư xây dựng và hoàn thiện trang web của mình, làm cho trang web thực sự trở thành một “cổng chào” đối với các cơ quan quản lý và doanh nghiệp sở tại.

Ngược lại thì các đơn vị trong nước cũng phải đẩy mạnh việc khai thác thông tin trên mạng Internet. Hiện nay, các tổ chức khu vực, các cơ quan quản lý Nhà nước và nhiều doanh nghiệp ở các nước Châu Phi đã xây dựng những trang web khá đầy đủ và phong phú về nội dung (đặc biệt Ai Cập, Maroc). Điều quan trọng là phải xác định đúng nhu cầu thông tin của mình, và đúng địa chỉ cần tìm. Đặc biệt là Nhà nước cần sớm có định hướng cho các doanh nghiệp về vấn đề này, chẳng hạn tổ chức những khóa tập huấn về khai thác mạng Internet, quảng bá trên báo chí và phương tiện truyền thông những trang web đáng quan tâm khi các doanh nghiệp muốn kinh doanh với các nước Châu Phi.

Sau khi Chính phủ thông qua Chương trình hành động Việt Nam-Châu Phi, năm 2004, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã thành lập cổng giao dịch Internet giới thiệu các thị trường lớn như Nam Phi, Angiêri, Marốc... Đây là một yếu tố quan trọng góp phần tăng cường trao đổi thông tin giữa Việt Nam và các nước Bắc Phi.



I.4.2. Thương mại điện tử

Mặc dù mới ra đời cùng với sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin và Internet, thương mại điện tử (TMĐT) đang ngày càng phổ biến ở khắp nơi trên thế giới bởi những ưu thế của nó, đặc biệt là trên các phương diện thời gian, không gian và chi phí. Việc phát triển TMĐT ở nước ta hiện nay đang ở giai đoạn sơ khai, cho nên tận dụng được những ưu thế của TMĐT để góp phần thúc đẩy buôn bán với Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung là một giải pháp về mặt dài hạn, chưa thể hy vọng sớm thành hiện thực trong vài năm tới.

Chiến lược phát triển TMĐT để làm đòn bẩy phát triển hoạt động buôn bán giữa nước ta với các nước trên thế giới trước hết phụ thuộc vào các cơ quan quản lý Nhà nước, trong đó có Bộ Thương mại. Một vài giải pháp mang tính khái quát liên quan đến phát triển TMĐT ở nước ta trong những năm tới:

Về môi trường pháp lý: Các quy định của pháp luật trong lĩnh vực TMĐT chủ yếu được ban hành vào năm 1997, nay đã trở nên sơ sài, không đủ để cung cấp một khuôn khổ pháp lý cần thiết để có thể theo kịp yêu cầu phát triển của lĩnh vực này. Đây là rào cản rất lớn đối với việc phát triển TMĐT ở Việt Nam, vì các doanh nghiệp trong và ngoài nước chỉ có thể tham gia TMĐT khi họ được đảm bảo rằng hệ thống pháp luật Việt Nam hỗ trợ và công nhận hoạt động kinh doanh thực hiện thông qua TMĐT. Vì vậy trong những năm tới cần tập trung xây dựng hệ thống pháp luật về thương mại điện tử, điều chỉnh nhiều lĩnh vực liên quan như chữ ký điện tử, văn bản điện tử, bằng chứng điện tử, chứng thực điện tử, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ sở hữu trí tuệ, giao dịch điện tử, kế toán/thanh toán điện tử, tội phạm trên Internet…

Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: TMĐT ở Việt Nam chưa phát triển một phần là do cước truy cập Internet ở mức khá cao so với các nước trong khu vực và so với thu nhập của đại đa số dân chúng. Trong khi đó, tốc độ truy cập lại thấp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng phải trả một mức phí khá cao so với lợi ích thu được để xây dựng trang web hoặc biến các trang web của họ thành website TMĐT. Mức chi phí cao này cũng là yếu tố hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp - nhân tố chính của TMĐT, từ đó dẫn tới số lượng trang web phổ biến phục vụ cho việc cung cấp thông tin kinh doanh và cơ hội giao thương cũng rất ít, lại chưa được cập nhật thường xuyên.

Vì vậy, trước mắt cần phải đầu tư tăng độ rộng băng thông và tạo ra dung lượng lớn để hỗ trợ truyền thông phương tiện và dịch vụ TMĐT. Đồng thời, hạ dần cước dịch vụ ở mức chấp nhận được để đa số người dân và doanh nghiệp có thể tiếp cận Internet mà không gặp bất cứ rào cản nào. 

Công nghệ bảo mật thông tin dùng trong TMĐT cũng chưa phát triển và cũng thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chính vì vậy mà việc bảo mật thông tin giao dịch kinh tế, thương mại và ngân hàng còn nhiều hạn chế. Việc đầu tư về kỹ thuật để tạo ra độ tin cậy và bảo mật cao, duy trì sự tin tưởng của cả người sử dụng và bên cung cấp là việc làm hết sức cần thiết. 

Đặc biệt, bất kỳ một giao dịch TMĐT nào cuối cùng cũng dẫn tới mô hình thanh toán. Vì vậy, một liên minh ngân hàng và các nhà cung cấp dịch vụ TMĐT là cần thiết. Trên thực tế, hệ thống thanh toán điện tử của các ngân hàng Việt Nam chưa phát triển để có thể đáp ứng các yêu cầu của TMĐT, do mức đầu tư cho công nghệ thông tin ở phần lớn những ngân hàng Việt Nam còn quá thấp. Thanh toán không dùng tiền mặt cũng như phát triển các loại thẻ thanh toán điện tử còn hạn chế trong phạm vi hẹp hoặc mang tính chất thử nghiệm, chưa trở thành giải pháp tổng thể đối với từng ngân hàng.

Việc đầu tiên cần làm là phải thiết lập quan hệ hợp tác song phương ở cấp Chính phủ trên các khía cạnh như giao dịch điện tử, hợp đồng điện tử, chữ ký điện tử, kế toán/thanh toán điện tử... Đồng thời, khi chưa thể tận dụng TMĐT làm công cụ ký kết các giao dịch và thanh toán, thì cần tạo điều kiện để TMĐT trở thành một phương tiện đắc lực trong việc quảng bá, tuyên truyền, phổ biến thông tin, đặc biệt thông qua các trang web, như đã đề cập ở trên.

I.4.3. Phát triển nguồn nhân lực

Phát triển nguồn nhân lực là một công việc thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình phát triển của bất cứ quốc gia nào. Công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xúc tiến thương mại và hợp tác với các nước Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung cần được chú trọng nhiều hơn. Đương nhiên, về phía doanh nghiệp cũng vẫn phải chủ động đào tạo nhân lực cho mình song không thể thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước trong hoạt động này. Có nghĩa là trên cơ sở những kiến thức cơ bản về kinh doanh, thương mại quốc tế, ngoại ngữ (ngôn ngữ chính thức, ngôn ngữ địa phương), cán bộ phục vụ chiến lược xúc tiến thương mại với thị trường Bắc Phi phải được trang bị thêm những kiến thức cơ bản tối thiểu về từng thị trường (tức là trở thành hạt nhân và bộ phận không thể thiếu trong việc thực hiện chính sách mặt hàng và thị trường). Theo kinh nghiệm rút ra từ thành công trong xúc tiến thương mại của một số nước trên thế giới (Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, ...), để tìm hiểu bất cứ một thị trường nào được coi là mới và là mục tiêu thâm nhập, mở rộng, phát triển quan hệ, không có cách nào tốt hơn là cử “cán bộ nằm vùng” và hình thức hay được áp dụng là thông qua các chuyên gia thuộc các chương trình hỗ trợ nào đó (trong khuôn khổ các chương trình, dự án viện trợ phát triển) hoặc đội ngũ lưu học sinh (thuộc chương trình hợp tác đào tạo), đội ngũ lao động hay kiều dân. Chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng hình thức này, tuy nhiên để làm được thì Chính phủ cần tính toán và chấp nhận “đầu tư” cho tương lai, tức là phải đầu tư, hỗ trợ các hoạt động đào tạo nhân lực. Ngoài việc phát triển một đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn, am hiểu về thị trường sở tại, vấn đề ngoại ngữ là rất quan trọng. Trong 5 thị trường này, tiếng Pháp được sử dụng phổ biến tại Angiêri, Maroc và Tuynidi và trong chừng mực nào đó là Ai Cập (cả 4 nước đều nằm trong Cộng đồng Pháp ngữ). Ngoài ra, cần quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ sử dụng được tiếng Arập, tiếng địa phương ở Bắc Phi. Biết được tiếng Arập sẽ tạo ra một lợi thế rất lớn khi làm việc với các đối tác tại khu vực Bắc Phi.

Hình thức đào tạo có thể là đào tạo tại chỗ thông qua các khóa huấn luyện, các buổi hội thảo có mời các chuyên gia trong nước và quốc tế. Hoặc cũng có thể gửi lưu học sinh đi đào tạo tại các nước Bắc Phi, đặc biệt là ở một số nước có nền giáo dục tương đối phát triển như Ai cập, Maroc.

I.5. THÀNH LẬP TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI

Với ý nghĩa là một cơ cấu thương mại hiện đại, các Trung tâm thương mại (TTTM) Việt Nam ở nước ngoài sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao khả năng thâm nhập trực tiếp vào thị trường. Năm 2002, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Thương mại đã thực hiện công tác chuẩn bị cho việc thành lập các Trung tâm Thương mại, trực thuộc Cục Xúc tiến thương mại, tại Mỹ, Nga và các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất (Dubai), với những nhiệm vụ như : quảng bá hình ảnh quốc gia và thương hiệu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tại nước ngoài; Cung cấp thông tin, tư vấn và hướng dẫn các doanh nghiệp nước ngoài phát triển kinh doanh với Việt Nam trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư và du lịch; Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm đối tác, mở rộng bạn hàng tiêu thụ các sản phẩm xuất khẩu; Đại diện cho Cục Xúc tiến Thương mại tại nước ngoài để duy trì và phát triển quan hệ hợp tác nghiệp vụ với các cơ quan xúc tiến thương mại và các tổ chức hữu quan của nước sở tại.

Tính đến 7/2004, Trung tâm thương mại tại Mỹ và Dubai đã được khai trương và đi vào hoạt động.

Từ nay đến năm 2006 cần xúc tiến thành lập một Trung tâm như thế này ở Bắc Phi, trước hết ưu tiên lựa chọn địa bàn Ai Cập.

Trong việc thành lập và duy trì hoạt động của TTTM ở Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung, cần chú ý một số giải pháp sau:

- Do việc thành lập TTTM ở Bắc Phi sẽ đòi hỏi vốn đầu tư và kinh phí hoạt động lớn, sự hỗ trợ ban đầu về tài chính của Nhà nước là hết sức cần thiết. Về lâu dài, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia hoặc tự mình thành lập TTTM.

- Định hướng phát triển TTTM ở Bắc Phi phù hợp với chiến lược xuất nhập khẩu của Việt Nam nói chung và chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại với Châu Phi nói riêng.

- Bảo đảm nguồn cung ứng hàng hóa phong phú và ổn định cho các TTTM.

- Bên cạnh việc xúc tiến xuất khẩu, TTTM ở Bắc Phi cũng cần quan tâm thỏa đáng đến việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm nguồn hàng nhập khẩu.

- Quan tâm đầu tư thỏa đáng khâu nhân sự cho TTTM. Do đặc thù của Bắc Phi là một địa bàn mới, còn nhiều khó khăn, ngay từ đầu phải đảm bảo tính chuyên nghiệp của nhân sự được cử đi quản lý TTTM và có chế độ đãi ngộ xứng đáng. Về khía cạnh này, cũng cần có biện pháp khai thác tiềm năng của cộng đồng người Việt ở nước sở tại.

- Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết trong việc thành lập TTTM ở Bắc Phi theo các hình thức thích hợp.

Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước, thông qua mạng lưới cơ quan đại diện ngoại giao và Thương vụ của ta ở Bắc Phi, cần đề xuất và tạo điều kiện cho các nước Bắc Phi, đặc biệt là Ai Cập, thành lập Trung tâm thương mại của nước mình, hoặc một cơ cấu thương mại tương tự, tại Việt Nam.

I.6. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI CÁC NƯỚC BẮC PHI THÔNG QUA QUAN HỆ VỚI VIỆT KIỀU, CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ VÀ CÁC NƯỚC KHÁC



I.6.1. Quan hệ với Việt kiều

Cộng đồng Việt kiều ở các nước Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung, tuy không đông đảo như ở các châu lục khác, nhưng cũng đã hình thành từ lâu đời, bám rễ sâu sắc và có đóng góp đáng kể vào đời sống chính trị xã hội cũng như kinh tế thương mại của nước sở tại. Theo số liệu của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài, đến năm 2000, cộng đồng Việt kiều và người Việt sinh sống làm ăn lâu dài ở Châu Phi có khoảng trên 2000 người, trong đó đông nhất là ở Angola, khoảng 1000 người, Maroc 300 người. Ngoài ra rải rác ở các nước khác đều có kiều bào Việt Nam. Cộng đồng Việt kiều được hình thành chủ yếu theo hai dạng: những người đến định cư từ thời kỳ những năm 50-60 và những người mới ở lại sau khi đến các nước Bắc Phi bằng hình thức hợp tác chuyên gia và xuất khẩu lao động từ những năm 80-90, cùng với gia đình và họ hàng của họ.

Trong cộng đồng Việt kiều ở Bắc Phi hiện nay, nhiều người có vị trí cao trong xã hội và cũng nhiều người thành đạt trong kinh doanh. Họ đều nắm vững phong tục tập quán và pháp luật của nước sở tại, am hiểu những khía cạnh nhất định của thị trường và đặc biệt luôn có trong mình cái tâm hướng về đất nước.

Vì vậy, giữ quan hệ chặt chẽ với cộng đồng người Việt sẽ có cơ hội thúc đẩy buôn bán với các nước Bắc Phi theo nhiều cách. Việt kiều có thể đứng ra làm trung gian môi giới bán sản phẩm Việt Nam sang Bắc Phi và ngược lại, hoặc làm cố vấn cho chúng ta trong hoạt động kinh doanh tại thị trường Bắc Phi, cung cấp cho chúng ta những thông tin bổ ích. Hoặc với mối quen biết của mình, họ giới thiệu chúng ta gặp gỡ các nhân vật, các tổ chức có uy tín ở bản xứ. Hoặc bằng thế lực của mình họ đứng ra bảo lãnh các thanh toán giao dịch bằng L/C cho doanh nghiệp Việt Nam, khi L/C được mở tại Ngân hàng nước sở tại…

Tháng 10/2002, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 990/QĐ-TTg thành lập Quỹ hỗ trợ, vận động cộng đồng người Việt ở nước ngoài, giao cho Bộ Ngoại giao chịu trách nhiệm quản lý tổ chức hoạt động của Quỹ. Kinh phí hoạt động ban đầu do Ngân sách Nhà nước cấp khoảng 7 tỷ đồng. Kinh phí bổ sung hàng năm cho Quỹ được Ngân sách Nhà nước cấp căn cứ vào dự toán kinh phí thực hiện các dự án được duyệt, sau khi đã trừ đi các nguồn tài chính có được từ tài trợ, viện trợ, đóng góp của cộng đồng người Việt ở nước ngoài và các nguồn khác. Việc thành lập Quỹ hỗ trợ, vận động cộng đồng người Việt ở nước ngoài sẽ tạo thêm điều kiện thuận lợi thu hút cộng đồng người Việt hướng về Tổ quốc. Quỹ cần dành những quan tâm riêng cùng với những ưu tiên nhất định cho công tác vận động cộng đồng người Việt ở các nước Châu Phi.

Cần nói thêm rằng gián tiếp thúc đẩy buôn bán với các nước Bắc Phi thông qua cộng đồng người Việt ở các nước Tây Âu cũng là việc cần làm. Nhiều người Việt hiện nay đang giữ chức vụ lãnh đạo trong các công ty, các tập đoàn kinh tế lớn của các nước Châu Âu, có buôn bán lâu năm với thị trường Bắc Phi. Nếu có cơ hội, họ sẽ giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước mở rộng hoạt động kinh doanh sang Bắc Phi.



I.6.2. Quan hệ với các tổ chức quốc tế

Nhiều tổ chức quốc tế hàng năm vẫn duy trì cơ chế viện trợ, cho vay vốn hoặc tài trợ bằng hàng hóa và dịch vụ cho các nước Châu Phi. Duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức này sẽ tạo điều kiện nắm bắt các thông tin và cơ hội, để khi họ có nhu cầu hàng hóa và dịch vụ viện trợ cho các nước Bắc Phi và Châu Phi thì ngay lập tức các doanh nghiệp nước ta có thể tham gia đấu thầu hoặc chào hàng. Đây là một cách thức đáng quan tâm để gián tiếp thúc đẩy xuất khẩu sang khu vực này. Đặc biệt, cần lưu ý một số tổ chức quốc tế dưới đây:



  • Chương trình lương thực thế giới (PAM)

Ra đời năm 1963, Chương trình lương thực thế giới (PAM) là một cơ quan chuyên môn của Liên hiệp quốc có mục tiêu đấu tranh chống lại nạn đói trên toàn cầu. Hàng năm, Chương trình này viện trợ lương thực cho hàng chục triệu người trên khắp các châu lục, trong đó phần lớn là ở các nước Châu Phi nam Sahara.

Tính chung trên toàn bộ Châu Phi, viện trợ lương thực của PAM dao động từ vài trăm ngàn đến vài triệu tấn/năm, phụ thuộc vào tình hình xung đột, chiến tranh, khủng hoảng xã hội và yếu tố thời tiết, đặc biệt là hạn hán và nạn châu chấu. Nắm bắt thông tin và tìm cách tham gia vào chương trình viện trợ này là cơ hội thực sự để nước ta gián tiếp xuất khẩu lương thực vào Châu Phi.



  • Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (FAO)

Ra đời năm 1945, FAO là một trong những tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống Liên hiệp quốc, có mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, trong hơn 20 năm qua, FAO đã giúp thực hiện trên 100 dự án lập chính sách và chuyển giao công nghệ, kỹ thuật trị giá trên 100 triệu USD trong các lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp. Từ năm 1995, quan hệ hợp tác Việt Nam - FAO bước sang thời kỳ phát triển mới với chương trình hợp tác ba bên Việt Nam - FAO - một nước Châu Phi trong việc cử chuyên gia nông nghiệp Việt Nam sang giúp đỡ phát triển nông nghiệp ở một số nước Châu Phi.

Châu Phi là địa bàn mà FAO có nhiều dự án đảm bảo an ninh lương thực nhất. Trong số khoảng 2000 dự án mà FAO thực hiện hàng năm thời gian vừa qua, khoảng 50% là ở Châu Phi. Để thực hiện các dự án này, năm 2000 FAO đã phải mua sắm các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau trị giá 135 triệu USD, chủ yếu nông sản, sản phẩm bột, máy nông nghiệp, phương tiện vận tải.

Để tìm đối tượng cung cấp mặt hàng và dịch vụ mình cần, hiện nay FAO có trong hồ sơ của mình địa chỉ của khoảng 5000 doanh nghiệp trên toàn thế giới, phân loại theo sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp đó cung cấp. Việc đưa các doanh nghiệp nước ta vào danh sách này để tham gia cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho FAO là rất đáng quan tâm. Đặc biệt, khi đã có tiền đề hợp tác với FAO như đã nói ở trên, nước ta có điều kiện thuận lợi để nghiên cứu mở rộng sự hợp tác này sang các hình thức khác.


  • Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP)

Trong hệ thống của Liên hiệp quốc, UNDP là một tổ chức đa phương, cung cấp viện trợ không hoàn lại cho hợp tác phát triển. Thông qua mạng lưới văn phòng đại diện tại 115 nước đang phát triển và hợp tác với hơn 30 tổ chức quốc tế và khu vực, UNDP làm việc với trên 150 chính phủ các nước để khuyến khích tăng trưởng kinh tế bền vững.

Từ năm 1977 đến nay, Việt Nam đã hợp tác với UNDP có hiệu quả trong các Chương trình quốc gia do UNDP tài trợ, với chu kỳ 5 năm cho một Chương trình. Với những thành tựu đạt được trong khuôn khổ hợp tác đó, nước ta cần nghiên cứu để tham gia vào các Chương trình hỗ trợ mà UNDP dành cho các nước khác. Hiện nay, UNDP đang có nhiều dự án hỗ trợ ở các nước Châu Phi. Đây là cơ hội cho các đơn vị chức năng cũng như các doanh nghiệp nước ta tham gia vào các dự án dưới hình thức cung cấp các dịch vụ về tư vấn kỹ thuật, trợ giúp các phương tiện vật chất và trang thiết bị, hoặc tham gia các chương trình viện trợ.



  • Ngân hàng Thế giới (WB)

WB cho các nước đang phát triển vay vốn ưu đãi theo các dự án cụ thể được cam kết giữa WB và Chính phủ các nước. Hàng năm, các nước Châu Phi được vay hàng tỷ USD từ WB để thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra, số tiền viện trợ không hoàn lại cũng lên đến vài trăm triệu USD mỗi năm.

Quan hệ chặt chẽ với WB sẽ tạo cơ hội bán hàng vào Châu Phi theo hai cách. Thứ nhất là tham gia vào các mời thầu cung cấp hàng hóa và dịch vụ mà các chủ dự án được vay vốn kêu gọi. Thứ hai, các khoản viện trợ không hoàn lại của WB thường được thực hiện dưới dạng cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ. Như vậy, các nhà thầu có thể gián tiếp xuất khẩu sang Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung thông qua các khoản viện trợ không hoàn lại của WB.



1.6.3. Quan hệ với các nước khác

Chúng ta vẫn biết rằng các nước Tây Âu hiện là những nước có ảnh hưởng lớn nhất tại Châu Phi. Chính vì thế, bất cứ một nước nào muốn thâm nhập thị trường này đều phải “đặt vấn đề hợp tác” với các “công ty mẹ” ở chính quốc rồi sau đó mới tính chuyện kinh doanh ở thị trường châu lục. Đã không ít trường hợp bị đổ vỡ, thất bại khi thực hiện ý định làm ăn ở đây, một số trường hợp khác chỉ dám tham dự ở vòng ngoài hoặc dừng lại ở một mức độ kinh doanh nhất định (kể cả một số quốc gia có tiềm lực mạnh như Hàn Quốc, Trung Quốc). Từ thực tế này, nước ta cần tận dụng mối quan hệ hợp tác sẵn có giữa Việt Nam với các nước Tây Âu để đặt vấn đề thông qua họ mở đường cho doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Châu Phi.

Cần lưu ý là từng nước Châu Phi lại có quan hệ gần gũi với các nước Tây Âu khác nhau. Ai Cập, Tuynidi, Angiêri và Maroc nhìn chung có quan hệ chặt chẽ với toàn bộ EU, đặc biệt thông qua chương trình MEDA. Các nước trên đều là thành viên của Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp như Việt Nam. Đây là một cơ hội để nước ta tận dụng mối quan hệ chính trị ngoại giao và các chương trình hợp tác trong khuôn khổ Cộng đồng này nhằm mở rộng quan hệ kinh tế thương mại.

I.7. HỢP TÁC TRONG CÁC LĨNH VỰC DỊCH VỤ, ĐẦU TƯ VÀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Hiện nay hợp tác trên các lĩnh vực dịch vụ - đầu tư - sở hữu trí tuệ giữa nước ta và các nước Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung còn ở mức độ rất thấp. Trong khi đó, hợp tác trên các lĩnh vực này lại có tác động trực tiếp đến quan hệ thương mại hai chiều. Thời gian tới nước ta cần xúc tiến hợp tác với các nước Châu Phi trên một số lĩnh vực cụ thể sau:

I.7.1. Dịch vụ


  • Xuất khẩu lao động

Hợp tác chuyên gia, lao động giữa Việt Nam và các nước Châu Phi trong thập kỷ 90 đã đem lại kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên hiện nay số lượng lao động và chuyên gia Việt Nam ở các nước Châu Phi còn rất nhỏ. Đến năm 2003 nước ta chỉ có khoảng gần 3000 chuyên gia và lao động ở trên 10 nước Châu Phi trong đó Libi chiếm khoảng 300 lao động thuộc lĩnh vực xây dựng.

Trong khi đó, hiện nay các nước Bắc Phi nói riêng và Châu Phi đang có nhu cầu rất lớn về chuyên gia và cả lao động, đặc biệt trong nông nghiệp, xây dựng, thủy sản, nhiều ngành công nghiệp, y tế, giáo dục. Vì vậy, từ những kết quả đã đạt được thời gian qua, các cơ quan hữu quan cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu chuyên gia và lao động sang Bắc Phi để khai thác tiềm năng của thị trường này. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 đưa sang Bắc Phi khoảng 2-4000 chuyên gia, lao động mỗi năm.

Để làm được điều đó, các cơ quan quản lý Nhà nước cần tiếp tục ký kết các Hiệp định hợp tác ở cấp Chính phủ về xuất khẩu chuyên gia, lao động. Đây vốn là hình thức chủ yếu để đưa chuyên gia, lao động Việt Nam sang các nước Châu Phi trong thập kỷ 80 và 90, tuy nhiên đến nay đã không còn được mạnh dạn khai thác như trước. Trong khi đó, một số nước như Libi, Angiêri đã bày tỏ sẵn sàng nhận chuyên gia và lao động Việt Nam qua hình thức hợp tác song phương, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản và y tế.

Một hướng đi nữa là hoàn thiện và mở rộng mô hình hợp tác 3 bên Việt Nam - FAO - một nước Bắc Phi. Đây là hình thức mới có từ năm 1997, nhưng đã phát huy hiệu quả nhất định trong việc đưa chuyên gia nông nghiệp nước ta sang một số nước Châu Phi. Ngoài ra, hình thức hợp tác ba bên cũng có thể được mở rộng sang các lĩnh vực khác như thực thi các dự án do một nước thứ ba tài trợ ở Châu Phi.

Nhà nước cũng cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự mình ký kết các hợp đồng cung ứng lao động trực tiếp cho các doanh nghiệp Bắc Phi, hoặc cung cấp thông qua một nước thứ ba, và những chuyên gia, lao động tự tìm việc làm ở các nước Bắc Phi thông qua gia đình, bạn bè… Cơ chế khuyến khích hỗ trợ này có thể là giảm thuế với doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia sang Bắc Phi, hỗ trợ một phần kinh phí cho người lao động như chi phí đào tạo, miễn tiền đặt cọc, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi…

Bên cạnh việc xuất khẩu chuyên gia và lao động sang các nước Bắc Phi, nước ta cũng cần nghiên cứu thuê (tức là nhập khẩu) chuyên gia và lao động từ các nước Bắc Phi trên một số lĩnh vực, mà nổi bật nhất là thể dục thể thao. Gần đây nhiều cầu thủ gốc Phi đã sang thi đấu bóng đá tại Việt Nam.



  • Du lịch

Du lịch là thế mạnh trong hoạt động dịch vụ của các nước Bắc Phi như Ai Cập, Maroc… tuy nhiên hợp tác về du lịch giữa nước ta và các nước Bắc Phi có thể nói là hầu như chưa có gì. Chúng ta mới chỉ ký tắt hiệp định hợp tác về du lịch với Ai Cập, vì vậy việc tiếp tục đàm phán và ký hiệp định này với các nước Châu Phi khác là điều hết sức cần thiết trong việc tạo khung pháp lý cho hợp tác du lịch. Ngoài ra, chúng ta cần đẩy mạnh công tác xúc tiến du lịch, như tổ chức các buổi hội thảo, các hội chợ về du lịch tại các nước để quảng bá về tiềm năng du lịch của Việt Nam và phối hợp trao đổi các tour du lịch. Đẩy mạnh hợp tác về du lịch với Ai Cập và Maroc nhằm khai thác những lợi thế sau:

- Người dân Bắc Phi, đặc biệt là cộng đồng người Âu, nhìn chung có mức sống khá cao và nhu cầu du lịch khá lớn, trong khi Việt Nam lại là một điểm đến khá mới mẻ và hấp dẫn.

- Vị trí địa lý của hai nước tạo nên sự khác biệt hoàn toàn về thời tiết. Khi ở Bắc Phi đang là mùa đông thì ở nước ta là mùa hè. Điều này có tác động lớn đến nhu cầu du lịch của người dân Bắc Phi.

Nhìn chung đối với du khách các nước Bắc Phi, chúng ta cần nghiên cứu để giảm giá vé máy bay, chi phí đi lại, ăn ở… đặc biệt là thông qua các chương trình khuyến mại, tổ chức các Tuần lễ du lịch Việt Nam, hoặc thông qua các cam kết ưu đãi trong các hiệp định hợp tác du lịch song phương. Có như vậy mới tạo điều kiện thu hút được du khách các nước này đến Việt Nam nhiều hơn.

Ngược lại, trong xu thế người dân nước ta đi du lịch nước ngoài ngày càng nhiều, bên cạnh các tour du lịch Châu Á, Châu Âu hay Châu Mỹ, các cơ quan hữu quan cũng cần nghiên cứu tổ chức các tour sang Bắc Phi, đặc biệt là ở Ai Cập và Maroc là những nước có nhiều thắng cảnh nổi tiếng thế giới.


  • Tài chính ngân hàng

Hợp tác tài chính là nền tảng để thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác khác, trong đó có thương mại. Tuy nhiên hiện nay mức độ hợp tác về tài chính giữa Việt Nam và các nước Bắc Phi vẫn còn hạn chế. Vì vậy trong thời gian tới, nước ta cần thúc đẩy hợp tác với các nước Bắc Phi trên lĩnh vực này bằng những phương thức và quy mô thích hợp, theo những giai đoạn cụ thể.

- Việt Nam và các nước Bắc Phi có thể cung cấp cho nhau thông tin về tình hình tài chính quốc gia, kinh nghiệm về xử lý nợ nước ngoài, về thu hút và quản lý vốn ODA, FDI, về huy động vốn trong nước… Từ đó, hai bên có thể đưa ra những đề xuất và sáng kiến hợp tác tài chính trong phạm vi và mức độ phù hợp với khả năng của hai bên.

- Xác lập hành lang pháp lý cho hợp tác về tài chính như ký kết các văn kiện, các thỏa thuận về thanh toán, thuế thu nhập, chuyển lợi nhuận…, từ đó hai bên cụ thể hóa những quy chế, những chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng dành cho nhau.

Trong lĩnh vực ngân hàng, quan hệ giữa các ngân hàng thương mại nước ta và các nước Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung cũng chưa phát triển. Phần lớn các ngân hàng chưa mở quan hệ đại lý với nhau nên mọi khoản thanh toán đều phải thông qua một ngân hàng thứ ba gây mất thời gian và phí tổn, ảnh hưởng trực tiếp đến các giao dịch giữa doanh nghiệp hai bên. Vì vậy, việc nghiên cứu khảo sát hệ thống ngân hàng, hệ thống thanh toán của các nước Bắc Phi tiến tới ký các thỏa thuận hợp tác về ngân hàng, thiết lập quan hệ đại lý là rất cần thiết nhằm thúc đẩy các nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu, tín dụng, bảo lãnh… đáp ứng được nhu cầu thương mại của hai bên.



  • Giao thông vận tải

Hiện nay chưa có các tuyến giao thông đường biển và hàng không trực tiếp giữa nước ta với các nước Bắc Phi mà luôn phải quá cảnh qua các nước thứ ba, vì vậy chi phí vận chuyển người và hàng hóa giữa nước ta và các nước Bắc Phi tốn nhiều thời gian và chi phí. Đây thực sự là yếu tố bất lợi, cản trở hoạt động thông thương. Thời gian tới, nước ta cần xem xét ký kết với các nước Bắc Phi các hiệp định hợp tác về hàng không và hàng hải, tìm cách rút ngắn con đường chuyên chở từ nước ta sang các nước Châu Phi, với mục tiêu cao nhất là giảm chi phí và thời gian chuyên chở. Ngoài ra, cần tổ chức và phát huy hiệu quả các ngành dịch vụ phụ trợ trong hoạt động vận tải như tổ chức vận tải đa phương thức, giao nhận đường biển, giao nhận đường hàng không, đại lý hàng hải, dịch vụ tiếp vận và chuyển phát nhanh, vận chuyển hàng quá cảnh.

  • Dịch vụ xây dựng

Lĩnh vực dịch vụ xây dựng của nước ta đã có nhiều tiến bộ trong thời gian qua. Ngoài việc đảm nhận các công trình trong nước, các đơn vị xây dựng nước ta đã bắt đầu vươn ra quốc tế, thắng thầu trong nhiều công trình xây dựng ngoài nước.

Hiện nay, Bắc Phi là một thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp nước ta đấu thầu thi công các công trình xây dựng. Tuy nhiên để thành công, Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với nhau để hình thành các tổ hợp (consortium), cạnh tranh có hiệu quả với các nhà thầu nước ngoài trong các dự án đầu tư và đấu thầu quốc tế. Ngoài ra do đặc thù của các nước Bắc Phi, cũng cần phải có những bước đi tác động sau khi thắng thầu. Thực tế thời gian qua cho thấy có trường hợp doanh nghiệp nước ta đã thắng thầu một số công trình ở các nước Bắc Phi, nhưng do không chú ý đến các khâu tác động tiếp theo nên cuối cùng đối tác lại thay đổi quyết định và chọn công ty khác. Về vấn đề này, vai trò của Nhà nước trong công tác định hướng và tác động đến Chính phủ và các cơ quan chức năng của các nước Bắc Phi là hết sức quan trọng.



I.7.2. Đầu tư

Thực tế những năm 90 cho thấy hoạt động đầu tư giữa Việt Nam và các nước Châu Phi nói chung còn kém phát triển. Nước ta vẫn chưa thu hút được đầu tư từ một số nước có tiềm lực kinh tế tương đối mạnh của châu lục này như Ai Cập, Maroc…

Vì vậy công tác thu hút đầu tư vào Việt Nam từ một số nước Bắc Phi cần phải được đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới, thông qua việc ký kết các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, quảng bá Luật đầu tư và cơ hội đầu tư ở Việt Nam tại các nước Bắc Phi… Ngoài ra cần tạo điều kiện để các dự án đầu tư sản xuất hàng hóa tại Việt Nam, sau đó xuất khẩu trở lại sang thị trường Bắc Phi, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, hàng tiêu dùng, máy móc thiết bị.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh đến khía cạnh thứ hai của đầu tư mà lâu nay chúng ta chưa nhận thức đúng mức, đó là việc các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào thị trường các nước Châu Phi. Vì trên nền tảng buôn bán quốc tế thông thường, một thời gian nhất định sau khi đã củng cố quan hệ đối tác cũng như tìm hiểu đầy đủ về thị trường, các doanh nghiệp tất yếu sẽ có nhu cầu lựa chọn những mặt hàng có thể đầu tư sản xuất hoặc gia công tại chỗ, để tận dụng được những điều kiện tốt nhất làm giảm chi phí cơ hội, hạ giá thành, tận dụng thế mạnh của thị trường nước sở tại (thông qua các hiệp định thương mại, đầu tư, tài chính ưu đãi ký kết giữa nước sở tại và các nước khác), nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, gia tăng tỷ suất lợi nhuận và kết quả là tăng khả năng cạnh tranh, khả năng tài chính cũng như sức mạnh kinh tế của quốc gia.

So với các châu lục khác, Bắc Phi là một địa bàn có những yếu tố thuận lợi để các doanh nghiệp nước ta đầu tư. Tất cả các nước đều có những chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư nước ngoài và hình thành các khu công nghiệp, khu thương mại tự do cho nhà đầu tư. Có rất nhiều lĩnh vực nước ta có thể đầu tư vào Bắc Phi như dệt may, thủy sản, chế biến nông sản, chế biến gỗ, công nghiệp nhựa, dược phẩm… Để thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài nói chung và sang Châu Phi nói riêng, vai trò từ phía Nhà nước là đặc biệt quan trọng, trước hết tập trung vào những giải pháp sau:

- Xây dựng hành lang pháp luật với những cơ chế, chính sách cụ thể nhằm định hướng và hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.

- Không ngừng tăng cường năng lực và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước và các đơn vị có liên quan trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, từ các Bộ ngành trong nước, đến các Hiệp hội ngành hàng, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, hay của nước ngoài ở Việt Nam.

- Phát triển đồng bộ và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, như hỗ trợ về tài chính, về thông tin, về xúc tiến thương mại, về các thủ tục hành chính, về các biện pháp đảm bảo an ninh…



I.7.3. Sở hữu trí tuệ

Về quan hệ sở hữu trí tuệ, hiện nay nước ta vẫn chưa ký các hiệp định hợp tác song phương về sở hữu trí tuệ với bất kỳ quốc gia Bắc Phi nào. Quan hệ về sở hữu trí tuệ chỉ được điều chỉnh thông qua một số công ước, hiệp ước của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) mà nước ta và các nước Bắc Phi tham gia. Tuy vẫn chưa phát sinh vụ tranh chấp nào liên quan đến sở hữu trí tuệ giữa các doanh nghiệp nước ta và Bắc Phi, nhưng trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển buôn bán mạnh mẽ thời gian tới, chúng ta có thể dự báo việc phát sinh tranh chấp về lĩnh vực này là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy việc ký các hiệp định hợp tác về sở hữu trí tuệ với các nước Bắc Phi là điều hết sức cần thiết. Trước mắt cần chọn Ai Cập hoặc Maroc để đàm phán và ký hiệp định này vì đây là hai quốc gia có nền pháp luật tương đối hoàn thiện.



II. CÁC GIẢI PHÁP Ở CẤP VI MÔ

Ở cấp độ vi mô, đa số các doanh nghiệp nước ta vẫn còn nhiều hạn chế cản trở việc mở rộng hoạt động kinh doanh với thế giới bên ngoài. Theo các chuyên gia kinh tế, những hạn chế này của doanh nghiệp thể hiện ở 10 khía cạnh chủ yếu sau:

1- Chưa nắm vững về luật pháp, quy định, thông lệ... trong buôn bán quốc tế.

2- Thiếu thông tin thị trường.

3- Năng lực tiếp cận thị trường còn yếu.

4- Công nghệ sản xuất lạc hậu dẫn đến năng suất và chất lượng thấp.

5- Ít sử dụng chất xám.

6- Chưa tập trung đầu tư cho nghiên cứu phát triển.

7- Kiến thức và kinh nghiệm quản lý lạc hậu.

8- Hạn chế trong hoạt động đào tạo.

9- Chưa sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin.

10- Vẫn tồn tại tình trạng độc quyền.

Những hạn chế nói trên tất nhiên cũng gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp nước ta khi muốn mở rộng buôn bán với thị trường Bắc Phi. Tuy là một thị trường gồm các nước đang và chậm phát triển, nhưng thị trường Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung lại có tính cạnh tranh quyết liệt vì nhiều nước và khu vực trên thế giới đang rất quan tâm đến thị trường này và tranh giành ảnh hưởng. Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nhìn chung giống ta nhưng đã có mặt tại Bắc Phi từ trước, ít nhiều tạo được chỗ đứng vững chắc. Giá bán các sản phẩm xuất khẩu của những nước này cũng thấp hơn ta, họ lại có năng lực tài chính, công tác tiếp thị, phân phối sản phẩm tốt hơn các doanh nghiệp nước ta, nên dễ dàng đáp ứng được những yêu cầu của đối tác Bắc Phi. Vì vậy, để phát triển buôn bán với khu vực thị trường này (cũng như với mọi khu vực thị trường khác), ngoài những nỗ lực dẫn đường từ phía Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải có những bước đi riêng cho mình.

Có 5 nhóm giải pháp về phía doanh nghiệp như sau:

II.1. PHÁT TRIỂN NGÀNH HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU

Thực tế thập kỷ 90 cho thấy, trong khi tiềm năng nhập khẩu của các nước Bắc Phi rất đa dạng phong phú, thì chủng loại mặt hàng mà nước ta xuất khẩu sang thị trường này vẫn còn đơn điệu, tập trung quá nhiều vào một số nông sản và hàng công nghiệp nhẹ. Riêng gạo đã chiếm một tỷ trọng rất lớn (khoảng 60-70%). Tuy vậy ngay với mặt hàng gạo chúng ta cũng chưa khai thác hết tiềm năng của các thị trường này. Do khả năng vốn ít, ngại rủi ro trong khâu thanh toán nên doanh nghiệp thường xuất qua trung gian thường là một nước châu Âu. Do vậy, lợi nhuận không cao. Mặt khác, một số mặt hàng khác của ta đã tạo được chỗ đứng trên thị trường các nước Bắc Phi vài năm trước đây đến nay đang dần mất chỗ đứng do không thể cạnh tranh về giá cả với hàng của các nước khác, chẳng hạn hàng may mặc, thủ công mỹ nghệ.

Vì vậy, để duy trì tăng trưởng xuất khẩu ổn định sang các nước Bắc Phi, doanh nghiệp nước ta phải chủ động phát triển ngành hàng xuất khẩu theo hai hướng. Thứ nhất là phải đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, vì các nước Bắc Phi là thị trường tiềm năng cho mọi loại hàng hóa. Thứ hai là phải nâng cao tính cạnh tranh của từng sản phẩm xuất khẩu về giá cả, mẫu mã, chất lượng. Nhìn chung với các nước Bắc Phi, thị trường không đòi hỏi sản phẩm chất lượng quá cao nhưng phải có tính ổn định và giá cả ở mức trung bình. Cạnh tranh về giá thành sản phẩm đang là điểm yếu của các doanh nghiệp nước ta trước các đối thủ trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, trên thị trường Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung.

Đương nhiên để làm được điều đó, doanh nghiệp nhất thiết phải nâng cao trình độ công nghệ và đổi mới trang thiết bị sản xuất. Trong quá trình này, doanh nghiệp cần lưu tâm đến những điểm sau:

- Xác định các khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và giá thành sản phẩm để hiện đại hóa.

- Nhập các thiết bị nước ngoài nhưng phải học tập thiết kế để tự thiết kế lại và cải tiến cho phù hợp. Những chi tiết trong nước chưa đủ khả năng chế tạo thì nhập khẩu, nhưng phải nâng cao dần tỷ lệ nội địa hóa.

- Đối với các công nghệ thiết bị có giá thành nhập khẩu quá cao, các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước cùng đầu tư thiết kế và chế tạo.

Cần l­ưu ý rằng không phải cứ công nghệ cao, hiện đại mới là tốt. Vấn đề ở chỗ doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề của ng­ười lao động nhằm tối ư­u hóa việc kết hợp các nguồn lực để đạt được hiệu quả cao, từ đó tạo điều kiện tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.

Bên cạnh việc đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp nước ta cần chú trọng khâu thiết kế sản phẩm, gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm chứ không phụ thuộc hoàn toàn vào công nghệ sản xuất, đặc biệt đối với các ngành hàng chúng ta đang có thế mạnh xuất khẩu sang Bắc Phi như nông sản (gạo, hà tiêu, cà phê), hàng dệt may, máy móc thiết bị điện, cơ khí, giày dép, sản phẩm nhựa… Đặc biệt trong việc thiết kế mẫu mã và nâng cao giá trị sử dụng cho sản phẩm xuất khẩu sang Bắc Phi, nhất thiết các doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo, nắm bắt được những yếu tố tôn giáo, văn hóa của thị trường mà mình hướng tới để tạo cho sản phẩm độ hấp dẫn khác biệt so với những sản phẩm cạnh tranh. Đây đang là điểm yếu của các doanh nghiệp nước ta nếu so với một số đối thủ trong khu vực như Trung Quốc hay Thái Lan.

Song song với việc đưa vào thị trường Bắc Phi những sản phẩm có tính cạnh tranh, các doanh nghiệp cần chú ý xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đây là một giá trị đặc biệt tạo nên chỗ đứng lâu dài cho doanh nghiệp trên thị trường. Thương hiệu khi được người tiêu dùng tín nhiệm sẽ làm cho họ yên tâm khi sử dụng, tạo thuận lợi cho việc phân phối, xâm nhập những mảng thị trường mới, thu hút đầu tư.

Về nhập khẩu, doanh nghiệp nước ta có thể mua từ Bắc Phi những nguyên liệu đầu vào của nhiều ngành công nghiệp như quặng sắt, kim loại màu (cobalt, mangan, đồng, kẽm, ...), các loại nguyên liệu nông sản như bông xơ, các loại gỗ và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ và các làng nghề truyền thống (thủ công mỹ nghệ), phân bón, hoá chất phục vụ sản xuất trong nước.

Được biết một số nước Châu Âu thường nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ Châu Phi, chế biến thành các sản phẩm đồ gỗ nội thất, sau đó lại xuất khẩu ngược trở lại Châu Phi, thu lợi nhuận rất lớn. Chính vì vậy, đối với doanh nghiệp nước ta, việc quan tâm phát triển ngành hàng nhập khẩu từ thị trường Châu Phi cũng là điều hết sức cần thiết nhằm tận dụng nguồn cung nguyên liệu có chất lượng tốt và giá thành hạ.

II.2. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI

Có thể nói công tác xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp nước ta tại thị trường Bắc Phi chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù thời gian qua, một số doanh nghiệp đã tham gia tháp tùng lãnh đạo tại các chuyến thăm chính thức, hoặc tự tổ chức đi nghiên cứu thị trường, tham gia hội chợ, triển lãm quốc tế tổ chức tại một số nước Bắc Phi… nhưng nhìn chung các hoạt động này còn mang tính tự phát và thời vụ, chưa phát huy được hiệu quả như mong đợi. Ở đây, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

II.2.1. Thu thập và xử lý thông tin

Không thể nói đến xúc tiến thương mại khi không giải quyết tốt khâu thông tin. Tình trạng thiếu thông tin đang là trở ngại lớn trong việc phát triển buôn bán giữa nước ta với các nước Bắc Phi. Đa số các doanh nghiệp chỉ biết đến Bắc Phi như một thị trường rủi ro, bất trắc nên thường ít chịu tìm hiểu tiềm năng, những cơ hội hợp tác kinh doanh tại thị trường này, cũng như các chính sách thương mại, các phong tục tập quán bản địa... Vì vậy, muốn mở rộng buôn bán sang Bắc Phi, nhất thiết các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng thu thập và xử lý thông tin.

Một trong những nguồn thông tin lớn nhất chính là đi thâm nhập thực địa. Từ những chuyến đi thực tế, các doanh nghiệp có thể tìm ra được cơ hội kinh doanh ở từng thị trường Bắc Phi, tìm hiểu xem người tiêu dùng sở tại cần loại hàng gì, sở thích và sức mua của họ ra sao, những mặt hàng nào thì doanh nghiệp của mình có thể đáp ứng… Những chuyến đi như vậy không thể "cưỡi ngựa xem hoa" mà đòi hỏi phải mất nhiều thời gian, công sức và cả tiền của. Khi đã sang đến tận nơi, bằng nhiều cách thức khác nhau, các doanh nghiệp phải gặp cho được từ các quan chức chính phủ, các doanh nghiệp cho đến tận người dân, thậm chí xuống cả những vùng xa xôi hẻo lánh, có như vậy các chuyến đi mới phát huy hiệu quả. Cần lưu ý là những chuyến đi thâm nhập thực địa không chỉ đem lại thông tin về các cơ hội xuất khẩu mà cả nhập khẩu.

Một nguồn cung cấp thông tin quan trọng là các cơ quan quản lý Nhà nước như Bộ Thương mại cùng với các đơn vị chức năng… Các doanh nghiệp cũng phải chủ động liên lạc với các Thương vụ, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, cần theo dõi sát thông tin từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, từ các Hiệp hội ngành hàng… đồng thời khai thác các nguồn thông tin từ nước ngoài như Đại sứ quán, Thương vụ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức và cá nhân nước ngoài.

Thông tin trên mạng Internet cũng ngày càng quan trọng. Để khai thác có hiệu quả, doanh nghiệp phải xác định đúng nhu cầu thông tin của mình, và đúng địa chỉ trang web cần tìm. Tuy nhiên, nguồn thông tin này không phải lúc nào cũng đáng tin cậy. Nhìn chung, trong những giao dịch lần đầu với thị trường Bắc Phi, doanh nghiệp cần tham khảo ý kiến của các đơn vị chức năng của Bộ Thương mại hoặc các Bộ, ngành liên quan, hoặc nhờ Cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại Việt Nam ở nước sở tại hay kiêm nhiệm điều tra thông tin về đối tác. Với những hợp đồng lớn và có tính khả thi, doanh nghiệp có thể sang trực tiếp nước sở tại để gặp đối tác đồng thời kết hợp thăm dò thị trường.

II.2.2. Quảng bá sản phẩm và thương hiệu

Mặc dù đến nay đã có nhiều ấn phẩm giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam nhưng vẫn còn quá ít ấn phẩm về ngành hàng, về sản phẩm xuất khẩu có thế mạnh của nước ta, về thương hiệu Việt Nam được giới thiệu ở nước ngoài, và ở Bắc Phi thì lại càng ít. Thời gian tới, thông qua các Thương vụ hoặc cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại các nước Bắc Phi, các doanh nghiệp cần chủ động đẩy mạnh công tác quảng bá sản phẩm và thương hiệu của mình trên thị trường sở tại nhiều hơn nữa, dưới nhiều hình thức khác nhau, cho đối tượng là các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các doanh nghiệp Bắc Phi.

Gần đây, một số doanh nghiệp nước ta đã chủ động mở trang web trên mạng Internet để quảng cáo, giới thiệu về sản phẩm của mình, song số lượng còn ít và chất lượng chưa cao, cần phải được tăng cường hơn nữa. Các trang web của doanh nghiệp được coi như những trung tâm thông tin, văn phòng đại diện và cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp ở mọi nơi, mọi lúc. Trong khi đó, chi phí duy trì văn phòng ảo này rất thấp nếu so sánh với chi phí cho một văn phòng đại diện thực sự ở ngoài. Đối với thị trường xa xôi như các nước Bắc Phi thì các trang web lại càng tiết kiệm nhiều chi phí quảng bá sản phẩm và thương hiệu cho doanh nghiệp.

Cần lưu ý là đối với những sản phẩm ít nhiều đã tạo được chỗ đứng trên thị trường các nước Bắc Phi, doanh nghiệp nước ta cần sớm đăng ký thương hiệu và các nội dung có liên quan khác với cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại để tránh những rắc rối không cần thiết về sau.



II.2.3. Tham dự hội chợ, triển lãm

Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam đều đã nhận thức được tầm quan trọng của việc tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế. Tuy nhiên thực tế thời gian qua cho thấy, do không xác định rõ mục tiêu tham gia hội chợ, triển lãm, do chưa gắn mục tiêu tham gia với chính sách mặt hàng và chiến lược phát triển của doanh nghiệp hoặc do những hạn chế về mặt kinh phí nên hoạt động quảng bá sản phẩm, tìm kiếm đối tác thông qua tham gia hội chợ triển lãm quốc tế của doanh nghiệp nước ta còn nhiều bất cập, chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Đặc biệt là khi tham gia các hội chợ, triển lãm ở Bắc Phi (Angiêri, Ai Cập…) thì hiệu quả lại càng thấp. Đa số lần tổ chức triển lãm hoặc tham gia hội chợ, triển lãm, chúng ta chưa vượt ra được tình trạng giới thiệu “các sản phẩm truyền thống” của một số doanh nghiệp nhất định và kết thúc hội chợ, triển lãm, chỉ bán, giới thiệu được một số sản phẩm và ký được một số ít hợp đồng.

Để tham gia hội chợ, triển lãm ở Bắc Phi đạt kết quả tốt, doanh nghiệp cần lưu ý ít nhất bốn vấn đề: mục đích và đối tượng (cho đối tác hay người tiêu dùng, để giới thiệu và bán hàng hay giới thiệu và kiếm tìm đối tác, ...); quy mô hội chợ, triển lãm định tham gia, địa điểm tham gia; những mặt hàng mà doanh nghiệp tham gia và kinh phí tham gia. Doanh nghiệp cần nhận thức đầy đủ những yếu tố trên đây thì kết quả sẽ khác hơn.

Khi tham gia các triển lãm, hội chợ thường niên ở Angiêri hay Ai Cập, doanh nghiệp có thể nhờ Thương vụ tại đó giúp đỡ về thông tin, về các thủ tục tham dự cũng như hỗ trợ các hoạt động tại chỗ. Ở những địa bàn khác, doanh nghiệp có thể nhờ Sứ quán tại chỗ hoặc kiêm nhiệm. Đối với những thị trường mới như các nước Bắc Phi, việc nhờ cậy giúp đỡ từ Sứ quán và Thương vụ là rất cần thiết. Riêng về mặt kinh phí, thông qua các hiệp hội, doanh nghiệp phải biết tận dụng sự hỗ trợ kinh phí từ các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia hoặc địa phương.



II.2.4. Thành lập trung tâm thương mại

Trong khi chờ đợi Bộ Thương mại mở Trung tâm thương mại ở các nước Bắc Phi, các doanh nghiệp nước ta cũng có thể tự mình mở các trung tâm thương mại, hoặc các phòng trưng bày sản phẩm với quy mô nhỏ hơn, để giới thiệu sản phẩm và làm địa điểm giao dịch. Đây là một hình thức xúc tiến thương mại còn tương đối mới đối với doanh nghiệp, nhưng lại có hiệu quả cao nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng.

Để mở trung tâm thương mại hoặc phòng trưng bày sản phẩm ở thị trường Bắc Phi, trong hoàn cảnh tiềm lực về tài chính, về con người cũng như trình độ kinh nghiệm của các doanh nghiệp nước ta còn chưa cao, doanh nghiệp trong nước có thể liên doanh liên kết với nhau, hoặc hợp tác với các đối tác Bắc Phi, với cộng đồng người Việt ở nước sở tại. Trước mắt doanh nghiệp có thể chọn Ai Cập làm địa bàn thử nghiệm để mở trung tâm thương mại hoặc phòng trưng bày sản phẩm, vì nước này có nền kinh tế tương đối phát triển, cơ sở hạ tầng tốt, pháp luật ổn định, hơn nữa lại có Sứ quán và Thương vụ nước ta.

II.3. CÓ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH PHÙ HỢP

Đối với thị trường Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung, các doanh nghiệp cần phải kiên trì xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh phù hợp. Cần hết sức tránh tình trạng buôn bán theo kiểu chụp giật làm mất uy tín cho cả giới doanh nghiệp Việt Nam.

II.3.1. Xuất khẩu


Đây là con đường mà phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng để thâm nhập thị trường Bắc Phi. Hình thức này thích hợp với thời kỳ khai phá thị trường khi quy mô xuất khẩu của các doanh nghiệp còn nhỏ và các mặt hàng xuất khẩu còn phân tán. Trên thực tế hiện nay, đối với gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta tại Châu Phi, 60% được xuất qua trung gian, chủ yếu qua các công ty Châu Âu. Những công ty này có những lợi thế như có kinh nghiệm lâu năm trong buôn bán ở Bắc Phi, có tiềm lực tài chính mạnh, hệ thống kho bãi và phân phối hoàn chỉnh, có quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng Châu Âu và Mỹ. Trong khi đó các ngân hàng này lại kiểm soát các hoạt động thanh toán và tài chính của phần lớn các nước Bắc Phi. Do đó những vụ buôn bán lớn với các đối tác ở đây nhất thiết phải có sự hỗ trợ và chia phần của một hoặc một số nhà tài phiệt Châu Âu, nếu không thì khó thành công.

Các doanh nghiệp vẫn cần tiếp tục khai thác hình thức xuất khẩu qua trung gian sang Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.

Các doanh nghiệp lớn có tiềm lực tương đối mạnh có thể xem xét khả năng trở thành thành viên của các tập đoàn xuyên quốc gia của EU hoạt động tại Bắc Phi. Bằng cách này các doanh nghiệp có thể thâm nhập trực tiếp vào các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường Bắc Phi vì các tập đoàn xuyên quốc gia đóng vai trò chủ chốt trong các kênh phân phối này. Các nhà nhập khẩu thuộc các tập đoàn xuyên quốc gia EU thường nhập hàng từ các xí nghiệp, nhà máy thuộc tập đoàn này thì đương nhiên sản phẩm làm ra sẽ được đưa vào mạng lưới tiêu thụ.

Ngoài ra, doanh nghiệp nước ta cũng có thể đưa hàng hóa sang thị trường Bắc Phi dưới danh nghĩa của nhiều công ty nước ngoài có uy tín đã có mặt từ lâu trên thị trường này. Do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu nên liên doanh liên kết dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hóa… có thể là biện pháp hấp dẫn để thâm nhập được vào thị trường này.

Một hình thức rất đáng quan tâm là thành lập công ty liên doanh một bên là doanh nghiệp Việt Nam, một bên là đối tác nước ngoài có kinh nghiệm làm ăn tại thị trường Châu Phi. Phía Việt Nam đảm nhận nguồn hàng cung cấp ở trong nước, còn phía nước ngoài, với kinh nghiệm và mối quan hệ của mình, chịu trách nhiệm về đầu ra ở các nước Châu Phi. Như vậy, công ty liên doanh này về danh nghĩa là xuất khẩu trực tiếp nhưng thực chất là trung gian xuất khẩu sang Châu Phi cho nhiều doanh nghiệp trong nước.


  • Xuất khẩu trực tiếp

Đây cũng là một hình thức được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng, nhất là tại các quốc gia mà nước ta đã có Thương vụ hoặc cơ quan đại diện ngoại giao như Ai Cập, Angieri… và một số nước có hệ thống ngân hàng tương đối phát triển và khả năng tài chính tương đối mạnh như Maroc, Tuynidi…

Để có thể xuất khẩu trực tiếp sang các nước Bắc Phi, các doanh nghiệp cần phải đầu tư ban đầu rất lớn trên cả hai phương diện vật lực và nhân lực với sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan trong và ngoài nước. Bản thân các doanh nghiệp khi đã có những giao dịch trực tiếp với một đối tác Bắc Phi cũng cần có biện pháp duy trì mối quan hệ đó mang tính ổn định, tạo ra sự tin cậy lẫn nhau.

Tất nhiên để có thể đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sang Bắc Phi, ngoài những hỗ trợ về phía Nhà nước, các doanh nghiệp phải chủ động có những biện pháp đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp Bắc Phi, đặc biệt là ở 2 điểm: giao hàng và thanh toán. Về giao hàng, ít khi các đối tác Bắc Phi nhập những lô hàng lớn mà thường là những đơn hàng nhỏ lẻ. Điều này gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp nước ta, trong khi các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc hay Thái Lan đã có cách đáp ứng bằng cách tự mình, hoặc liên kết lại với nhau, xuất hàng sang Bắc Phi theo kiểu "bách hóa", tức là cùng một chuyến hàng có nhiều chủng loại hàng hóa khác nhau. Các doanh nghiệp nước ta cần nghiên cứu tăng cường xuất khẩu trực tiếp theo kiểu như vậy thì mới đáp ứng được những yêu cầu của thị trường Bắc Phi.

Về thanh toán, để đáp ứng được yêu cầu thanh toán chậm, các doanh nghiệp phải nắm vững thông tin và xây dựng được mối quan hệ tin cậy với đối tác Bắc Phi, phải biết dựa vào sự tư vấn của các cơ quan chức năng, đặc biệt là Sứ quán và Thương vụ. Tất nhiên trong trường hợp L/C trả chậm, doanh nghiệp khi xuất hàng phải đề nghị đối tác Bắc Phi mở L/C này tại một ngân hàng có uy tín của Mỹ hoặc Châu Âu. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần biết phát huy những cơ chế hỗ trợ tài chính sẵn có như vay vốn qua Quỹ hỗ trợ xuất khẩu thuộc Quỹ hỗ trợ phát triển để bán hàng trả chậm.

Trong buôn bán trực tiếp, những doanh nghiệp quyết tâm làm ăn lâu dài ở thị trường Bắc Phi nên xem xét lập kho ngoại quan, đặc biệt tại các nước trọng điểm mà nước ta đã có Sứ quán và cơ quan Thương vụ như Ai Cập. Đối với một số nước nhập khẩu nhiều gạo như Angiêri, Libi, cũng có thể áp dụng hình thức này. Điều này sẽ cho phép doanh nghiệp giới thiệu và bán sản phẩm một cách trực tiếp, đáp ứng được những đơn hàng mang tính thời vụ.

2.3.2. Nhập khẩu

Trong chiến lược kinh doanh tại thị trường Bắc Phi nói riêng và Châu Phi nói chung doanh nghiệp nước ta cũng cần lưu ý đến mảng nhập khẩu. Để có thể nhập khẩu từ Châu Phi các sản phẩm có tính cạnh tranh, chất lượng hợp lý và giá thành hạ, đặc biệt đối với những mặt hàng nguyên nhiên liệu và khoáng sản phục vụ sản xuất, nhất thiết doanh nghiệp phải cử người sang thâm nhập thực tế, gặp gỡ tiếp xúc các đối tác sở tại, tìm hiểu khả năng cung cấp của thị trường, từ đó xây dựng mối quan hệ lâu dài, tin cậy lẫn nhau. Doanh nghiệp cũng có thể gắn nhập khẩu với xuất khẩu thông qua phương thức hàng đổi hàng. Chẳng hạn nếu doanh nghiệp nước ta tìm được cơ hội xuất khẩu sang một nước Châu Phi nhưng khả năng thanh toán của đối tác kém thì có thể nhập khẩu để bù trừ. Ngoài ra, phương thức hàng đổi hàng có thể thực hiện thông qua sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước. Chẳng hạn một doanh nghiệp nước ta vốn dĩ đang nhập khẩu từ Bắc Phi, tuy nhiên lại chưa có nhu cầu xuất khẩu thì có thể hợp tác với một doanh nghiệp thứ ba trong nước để đề nghị đối tác Bắc Phi nhập khẩu từ doanh nghiệp thứ ba này.



II.3.3. Đầu tư

Đối với Bắc Phi, khi mà khả năng đầu tư ra bên ngoài của hầu hết các nước trong châu lục hiện vẫn còn rất hạn chế thì họ lại đang ra sức thu hút đầu tư nước ngoài với nhiều chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư.

Trong những năm 90, các doanh nghiệp nước ta đã có một số dự án đầu tư ở Libi. Gần đây, đầu tư sang Bắc Phi được mở rộng sang một số nước như Angieri, Tuynidi… trong lĩnh vực khai thác dầu khí, sản xuất đồ nhựa và dệt may.

Hoạt động đầu tư có tác động trực tiếp đến trao đổi thương mại. Đầu tư vào thị trường Bắc Phi không chỉ nhằm mục đích tiêu thụ sản phẩm làm ra ở thị trường nội địa, mà từ đó còn xuất khẩu sang các nước trong khu vực hoặc các nước EU và Mỹ, để tận dụng những ưu đãi thương mại mà các nước Bắc Phi được hưởng thông qua các thỏa thuận song phương và đa phương. Đầu tư ra nước ngoài còn là một hình thức kinh doanh mà các doanh nghiệp nước ta cần áp dụng để chuẩn bị trước cho giai đoạn phát triển cao hơn của nền kinh tế Việt Nam trong đầu thế kỷ 21.

Doanh nghiệp nước ta nên nghiên cứu khả năng đầu tư tại các nước Bắc Phi trong một số ngành sau:

Dệt may: Đầu tư vào dệt may là nhằm tái xuất sang thị trường Châu Âu và Mỹ, tận dụng quy chế free quota mà các nước Bắc Phi này được hưởng, đồng thời cũng phục vụ tiêu dùng ngay tại thị trường sở tại, nơi mà hàng dệt may Trung Quốc đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường trong tầng lớp bình dân.

Chế biến gỗ: Một số nước như Maroc có nguồn nguyên liệu gỗ khá phong phú trong khi công nghiệp chế biến gỗ chưa phát triển, thường phải xuất khẩu gỗ nguyên liệu sang Châu Âu và nhập trở lại thành phẩm. Đầu tư vào công việc chế biến gỗ cho phép tận dụng nguồn nguyên liệu gỗ tại các nước này và phát huy khả năng kỹ thuật cũng như nguồn nhân công của nước ta.

Chế biến nông sản: Mặc dù các nước Bắc Phi đã phát triển công nghiệp chế biến nông sản, nhưng đối với một số ngành hàng khả năng chế biến còn thấp

Thủy sản: Lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản của các nước Bắc Phi chưa phát triển, trong khi nước ta có thế mạnh về lĩnh vực này. Thậm chí một số nước như Libi, Tuynidi còn đề nghị đội tàu đánh cá của ta sang khai thác vùng biển của họ. Đây cũng là một khả năng để xem xét đầu tư.

Công nghiệp nhựa: Hiện nay ngành công nghiệp nhựa của nước ta đang phát triển khá nhanh và đã cho ra đời nhiều loại sản phẩm với mẫu mã hấp dẫn, chất lượng tốt và giá cả cạnh tranh. Đây chính là một lợi thế khi đầu tư vào các nước Bắc Phi, nơi mà nhu cầu về các sản phẩm nhựa gia dụng là rất lớn.

Khi tiến hành các hoạt động đầu tư, trong trường hợp khả năng tài chính của các doanh nghiệp chưa cho phép thành lập công ty đầu tư 100% vốn của Việt Nam, doanh nghiệp có thể liên doanh với một doanh nghiệp nước thứ ba (thường là của Châu Âu), hoặc một doanh nghiệp đáng tin cậy của nước sở tại, hoặc liên kết với cộng đồng người Việt.

II.4. NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO DOANH NGHIỆP VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG

Nhìn chung trình độ của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp nước ta còn yếu, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc lựa chọn những người đứng đầu doanh nghiệp có năng lực, đáp ứng được nhu cầu công việc trong bối cảnh mới, có tầm nhìn chiến lược trong sản xuất và kinh doanh là yếu tố rất quan trọng. Đặc biệt, người lãnh đạo doanh nghiệp phải tâm huyết với công việc, có ý thức dám nghĩ dám làm, mạnh dạn mở rộng hoạt động hướng về những thị trường tuy xa lạ nhưng tiềm năng như các nước Bắc Phi.

Kinh doanh ở thị trường Bắc Phi đòi hỏi người lãnh đạo doanh nghiệp phải nắm vững một số nghệ thuật kinh doanh mang tính đặc thù của thị trường này. Cụ thể là những điểm sau:

- Cần có tính kiên trì: Quá trình giải quyết giấy tờ, các thủ tục hành chính quan liêu tại một số nước (như Libi, Angiêri) làm cho công việc kinh doanh ở các nước Bắc Phi rất mất thời gian. Các doanh nghiệp không nên nghĩ rằng khi sang một nước Bắc Phi, gặp gỡ đối tác giao dịch trong một tuần là có khả năng ký được hợp đồng. Để đi đến một giao dịch, có thể phải mất sáu tháng, một năm hoặc lâu hơn.

- Cần làm quen với đặc điểm văn hóa địa phương: Các nước Bắc Phi đều có những đặc điểm văn hóa riêng. Một người kinh doanh luôn phải dành thời gian để nghiên cứu nền văn hóa bản địa. Đặc biệt ở những nước Hồi giáo như Ai Cập, Maroc, Tuynidi, Angiêri thì phải có sự hiểu biết về tín ngưỡng Hồi giáo, và biết càng nhiều tiếng Arập càng tốt.

- Cầi tỏ ra gần gũi đối tác: Khi gặp gỡ đối tác là một doanh nhân Bắc Phi, sự gần gũi cởi mở là điều hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp cần chú ý không nên đi ngay vào bàn việc kinh doanh mà trước đó có thể trò chuyện với họ về thời sự, chuyện gia đình …để tạo bầu không khĩ gần gũi, tin cậy lẫn nhau.

- Luôn linh hoạt, mềm dẻo: Thị truờng Bắc Phi có tính thay đổi cao và ít tính nhất quán. Đây thực sự là khó khăn đặc thù mà doanh nghiệp nước ta phải luôn chú ý. Chẳng hạn khi đã ký được hợp đồng, không nên lúc nào cũng nghĩ rằng các điều khoản của hợp đồng đó sẽ được giữ nguyên trong thời hạn hiệu lực. Người lãnh đạo doanh nghiệp phải linh hoạt để làm cho công việc kinh doanh phù hợp với thực tế trong từng thời điểm.

Về đội ngũ người lao động ở các doanh nghiệp nước ta, nhìn chung năng lực chưa cao. Cả nước hiện chỉ có 10,2% lực lượng lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật trở lên. Đây thực sự là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp, do cán bộ, nhân viên năng lực yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu công tác, lại ngại khó khăn gian khổ, nên việc tiếp cận và buôn bán với những thị trường xa xôi như các nước Bắc Phi không thể thực hiện được.

Vì vậy, từng doanh nghiệp đều phải có ý thức tuyển chọn và đào tạo những người lao động tinh thông về nghiệp vụ, biết ngoại ngữ và phải yêu nghề, nhiệt tình trong công tác. Suy cho cùng, nguồn nhân lực là tài sản quan trọng nhất của mỗi doanh nghiệp.

II.5. TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CÁC HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG VÀ SỰ HỢP TÁC GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP

Ở nước ta đã xuất hiện rất nhiều hiệp hội ngành hàng, nhưng chỉ trong vài năm gần đây, khi khó khăn nảy sinh ngày càng nhiều đối với các doanh nghiệp, cùng với tác động của các cuộc chiến thương mại quốc tế, chúng ta mới nhận thức đầy đủ và sâu sắc vai trò của hiệp hội, từ việc đứng ra giải quyết kiện cáo cho doanh nghiệp đến việc điều tiết thu hoạch sản phẩm, ấn định giá sàn sản phẩm, đưa ra các tiêu chuẩn về sản phẩm để bảo vệ quyền lợi cho hội viên.

Do hiệp hội ngày càng có vai trò quan trọng, việc Chính phủ ban hành Nghị định về tổ chức hoạt động của hiệp hội là một chủ trương đúng đắn cần sớm được thực hiện. Trong đó cần định hình hoạt động của hiệp hội theo các nội dung chính như: xác định phương hướng phát triển sản xuất, kinh doanh ngành hàng, các nội dung liên kết sản xuất, tiêu thụ trên cơ sở tự nguyện của các hội viên; thay mặt hội viên trong các tranh tụng quốc tế; phổ biến tiến bộ khoa học - công nghệ, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp hội viên.

Đối với Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung, các hiệp hội có thể thành lập các quỹ hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu hay quỹ bảo hiểm xuất khẩu của riêng, trong đó có những cơ chế riêng giúp đỡ cho hội viên buôn bán với thị trường Châu Phi. Nguồn vốn cho những quỹ này, ngoài một phần kinh phí do Chính phủ hỗ trợ, chủ yếu sẽ do các hội viên đóng góp, với một định mức đóng góp hàng năm theo tỷ lệ trên doanh thu.

Hiệp hội cũng cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại trên thị trường Bắc Phi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là thông qua các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia.

Về lâu dài, các Hiệp hội có thể nghiên cứu việc lập chi nhánh đại diện tại một số nước Bắc Phi trọng điểm như Ai Cập, Maroc để nắm bắt và xử lý nhanh các nhu cầu nảy sinh.

Các Hiệp hội cũng phải quan tâm động viên tinh thần hợp tác giữa các hội viên. Quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không có nghĩa là chối bỏ sự hợp tác, mà các doanh nghiệp, với tư cách là những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, phải xem hợp tác là biện pháp quan trọng để hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế cạnh tranh. Thí dụ, sự kết hợp giữa doanh nghiệp Nhà n­ước và doanh nghiệp dân doanh nhằm khắc phục một thực tế hiện nay là doanh nghiệp Nhà n­ước có tiềm lực lớn, nh­ưng hiệu quả kinh tế nói chung kém. Doanh nghiệp dân doanh tiềm lực thấp hơn như­ng hiệu quả thư­ờng cao hơn. Ngoài ra, khối các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng có những thế mạnh về trình độ công nghệ, năng lực quản lý… Chủ trư­ơng hợp tác có thể mở rộng ra thị trư­ờng thế giới trong đó có Bắc Phi, để kết hợp với các doanh nghiệp của Việt kiều nhằm tranh thủ đ­ược vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm thương trư­ờng.

Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp cần được đẩy mạnh trong vấn đề thông tin về các cơ hội kinh doanh, về kinh nghiệm làm ăn ở thị trường Bắc Phi. Đặc biệt, để thâm nhập thị trường này trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp cần liên kết trong việc góp vốn mở kho ngoại quan, mở phòng trưng bày sản phẩm, phối hợp trong phương thức hàng đổi hàng, trong đấu thầu xây dựng hoặc trong các dự án đầu tư…

KẾT LUẬN
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ, Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ chính trị ngoại giao cũng như kinh tế thương mại với khắp các quốc gia và châu lục trên thế giới. Quá trình này sẽ tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống đất nước trong đấu thế kỷ 21. Chắc chắn có nhiều công trình nghiên cứu, từ các đề tài cấp quốc gia, cấp Bộ, cho đến các bài viết hoặc các cuốn sách nghiên cứu của cá nhân và tập thể đề cập đến mọi khía cạnh của quá trình đó.

Luận văn ‘‘Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước Bắc Phi, thực trạng và giải pháp’’ đề cập đến một khía cạnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, đó là việc phát triển mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung.

Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ Bắc Phi nằm trong số những khu vực thị trường tiềm năng mà nước ta cần đẩy mạnh quan hệ thương mại. Nhưng làm thế nào để biến tiềm năng đó thành hiện thực lại là việc không đơn giản và đòi hỏi nhiều nỗ lực từ các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như từ các doanh nghiệp.

Với tinh thần đó, luận văn này có mục tiêu chủ yếu xây dựng cơ sở khoa học để đề ra một số giải pháp nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước Bắc Phi, góp phần xây dựng chính sách phát triển quan hệ thương mại song phương từ nay đến năm 2010.

Hy vọng rằng kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ góp phần nhỏ bé cho các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà doanh nghiệp trong quá trình thúc đẩy mối quan hệ thương mại của nước ta với các nước Bắc Phi nói riêng và châu Phi nói chung.

Môc lôc


Lêi nãi ®Çu…………..……………………………………………………………..
Ch­¬ng I- Tæng quan vÒ quan hÖ th­¬ng m¹i song ph­¬ng vµ ®a ph­¬ng cña B¾C PHI ……………………………………….………..

I- Giíi thiÖu tæng quan vÒ B¾C Phi .……………………………….….………..

I.1- §iÒu kiÖn ®Þa lý ….………………………………………………………….…….….

I.2- §iÒu kiÖn x· héi ….………………………………………………………….……….

I.3- Kh¸i qu¸t t×nh h×nh kinh tÕ …………………………………………….……….



II- ThÞ tr­êng B¾C Phi vµ quan hÖ th­¬ng m¹i cña B¾C Phi ………

II.1- thÞ tr­êng B¾C phi ...………………………………………………......................

II.2- Quan hÖ th­¬ng m¹i cña B¾C Phi ………………………….….......................
Ch¦¬ng II - thùc tr¹ng Quan hÖ th­¬ng m¹i ViÖt Nam – b¨c Phi Thêi kú 1991-2004............................................................................................

I. tæng quan quan hÖ th­¬ng m¹i gi÷a viÖt nam vµ b¾c phi thêi kú 1991-2004

I.1- §«i nÐt vÒ quan hÖ chÝnh trÞ ngo¹i giao……………………......................

I.2- tæng quan quan hÖ th­¬ng m¹i gi÷a viÖt nam vµ b¾c phi thêi kú 1991-2004

II.- quan hÖ th­¬ng m¹i gi÷a ViÖt Nam víi c¸c n­íc b¾c Phi………….

.


Каталог: luanvan
luanvan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN

tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương