MỤc lục mở ĐẦU 1


Bảng 1.1. Tổng hợp các công trình nghiên cứu Sinh thái cảnh quan



tải về 1.44 Mb.
trang2/12
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích1.44 Mb.
#12687
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

Bảng 1.1. Tổng hợp các công trình nghiên cứu Sinh thái cảnh quan

Nội dung nghiên cứu

Quốc gia

Tác giả nghiên cứu

Nhóm lý thuyết:

  • Cảnh quan bền vững



Anh


Thụy Sỹ

Haines – Young (2000)

Poschin và Haines – Young (2001)

Karr (2000)



- Nghiên cứu thực trạng hệ thống sinh thái


Mỹ
Đức


Pimentel et al (2001)

Barkamann et al (2001)

Kutsch et al (2001)

Potschin và Haines – Young (2001)



  • Ứng dụng của cảnh quan trong dự án




Đức

Áo

Úc



Luz (2001)

Katter et al (2000)

Lefroy et al (1991)

Dilworth et al (2000)



Nhóm phương pháp:

  • Phương pháp phân tích trạng thái cảnh quan dựa trên các nghiên cứu “base line survey”

Đức


Leser và Klink (1988)

Zepp và Mũller (1999)


  • Định lượng phi chức năng




Đức


Bastian và Schreiber (1999)

Grabaum (1996)



  • Định lượng đa chức năng




Đức


Syrbe (1996)

Treweek (1999)



  • Đánh giá môi trường cảnh quan




Anh

Hobbs và Sauders (1993)

  • Phân tích sự tác động của các thành phần chính hay tiểu hệ thống trong cảnh quan

Úc

Thụy sỹ


Waffenshmidt và Postchin (1998)

Brandt et al (2000)



  • Nghiên cứu đánh giá cảnh quan đa chức năng

Châu Âu

Brandt và Vejre

Tress et al (2001)



Nhóm nghiên cứu sự thay đổi và quá trình phát triển:

  • Lịch sử cảnh quan học

Thụy điển

Phần Lan

Skanes (1996)

Vuorela (2001)


  • Cảnh quan và các yếu tố phá vỡ cảnh quan

Đức

Mỹ


Konold (1996)

Turner (1989)

Turner et al (2001)


Nhóm ứng dụng:

  • Dịch vụ hệ thống cảnh quan và khái niệm “natural capital”



Hà Lan
Úc


De Groot (1992)

De Groot et al (2001)

CSIRO (2001)



  • Nghiên cứu thiết kế cảnh quan

Anh

Mỹ


Turner et al (2001)

Costanza (2000)



  • Mạng lưới đa chức năng cây xanh

Hà Lan

Slovakia


Harm et al (1993)

Miklos (1988)



  • Xây dựng các khu vực nông thôn “hedgerows”

Thụy Điển

Mortberg và Wallentius (2000)

  • Bảo tồn đa dạng sinh học tự nhiên

Mỹ

Lindsey (1999)

  • Các ảnh hưởng của sự phá vỡ cảnh quan và sự biến động dân số

New Zealand

Anh


Pháp/Anh

Mỹ

Đức


Hà Lan

Viles và Rosier (2001)

Barr và Petit (2001)

Baudry et al (2000)

Forman (1995)

Blaschke (2000), Blaschke và Petch (1999), Jaeger (2001)

Opdam et al. (1995)


Tóm lại, có thể thấy Cảnh quan học trên thế giới được hình thành, phát triển ở Nga và Đông Âu vào cuối thế kỷ XIX gắn liền với việc nghiên cứu phân vùng địa lý tự nhiên. Sau đó NCCQ được xuất hiện ở các nước khác như Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan... và phát triển mạnh mẽ sau chiến tranh thế giới 2 cùng với nhiều khái niệm mới trong NCCQ ra đời. Đồng thời Cảnh quan học đi sâu vào nghiên cứu các yếu tố thành tạo, thành lập bản đồ CQ. Bên cạnh đó xu hướng nghiên cứu các quần xã sinh thái phổ biến ở các nước Tây Âu, xu hướng Sinh thái hoá đã xâm nhập vào CQ và xuất hiện 2 trường phái nghiên cứu về Sinh thái cảnh quan ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

Từ những năm 1980 trở lại đây, khoa học Cảnh quan và Sinh thái cảnh quan đã phát triển một cách nhanh chóng về cả phương pháp nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Cảnh quan học ngày càng đi sâu nghiên cứu đa dạng cấu trúc, động lực, chức năng, mối quan hệ giữa cảnh quan và sản xuất lãnh thổ, vận dụng quan điểm ứng dụng và nghiên cứu cảnh quan theo hướng sinh thái góp phần giải quyết các vấn đề sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế xã hội.

1.1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Cảnh quan ở Việt nam.

Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu cảnh quan chủ yếu dựa trên nền tảng lý luận khoa học cảnh quan của các nhà khoa học Xô Viết, tùy vào từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà khoa học Địa lý nói chung và nghiên cứu cảnh quan nói riêng có sự vận dụng để đáp ứng với nhu cầu thực tiễn.

Trong giai đoạn đầu tiên (từ 1954 đến 1980), các công trình chủ yếu phát hiện sự phân hóa lãnh thổ theo hướng phân vùng địa lý tự nhiên: Trước tiên là công trình phân chia Địa lý tự nhiên Việt Nam của T.N.Sêglova (1957) đã sử dụng hệ thống phân vị đơn giản chỉ cấp vùng và á vùng. Năm 1961, V.M.Fridlan đã tiến hành phân vùng địa lý tự nhiên với hệ thống phân chia gồm 5 cấp trong Thiên nhiên miền Bắc Việt Nam theo dấu hiệu của quy luật phi địa đới.

Các công trình của các tác giả trong nước giai đoạn này trước hết phải kể đến “Địa lý tự nhiên Việt Nam” của Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập năm 1963. Các tác giả đã đưa ra hệ thống phân vị Địa lý tự nhiên Việt nam gồm 6 cấp dựa trên cả 2 quy luật phân hoá địa đới và phi địa đới nhưng chưa có chỉ tiêu cho từng cấp phân vị vì thế nên không thể áp dụng rộng rãi. Năm 1970, Uỷ Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước đã nghiên cứu và tiến hành Phân vùng địa lý Tự nhiên lãnh thổ Việt Nam với hệ thống gồm 7 cấp phân vị, ngắn gọn và tương đối hoàn chỉnh, có chỉ tiêu cho từng cấp phân vị, đây là công trình có ý nghĩa lớn trong công tác điều tra và sử dụng lãnh thổ. Cũng trong giai đoạn này đáng chú ý là công trình “Cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam” năm 1976 của Vũ Tự Lập đã tìm ra những đặc điểm, quy luật phân hoá của địa lý Tự nhiên Việt Nam. Đây là công trình có giá trị về mặt lý luận, trong đó tác giả cũng đưa ra một hệ thống phân vị mà mỗi cấp có một chỉ tiêu riêng xác định, đưa ra khái niệm Cảnh địa lý và vận dụng quan điểm tổng hợp trong NCCQ lãnh thổ Việt Nam, phản ánh được sự thống nhất biện chứng trong các quy luật phân hoá Địa đới và Phi địa đới trong tự nhiên lãnh thổ Việt Nam [58,65,102, 126].

Có thể nói trong giai đoạn này cơ sở lý luận về khoa học cảnh quan đã được các nhà Địa lý Việt Nam tiếp thu có hệ thống, vận dụng một cách linh hoạt phù hợp điều kiện cụ thể của thiên nhiên Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu bước đầu đã đáp ứng phần nào đối với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước lúc bấy giờ và đặt nền móng cho nghiên cứu cảnh quan ở nước ta sau này.

Từ sau 1980 cho đến nay, có rất nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu CQ về cả những vấn đề lý luận và vận dụng vào thực tiễn các vùng, miền lãnh thổ Việt Nam.

Những năm 1992 Hội Địa lý Việt nam đã có nhiều Báo cáo khoa học về quan điểm và phương pháp luận nghiên cứu Sinh thái cảnh quan như: Nguyễn Thế Thôn Bàn về Sinh thái cảnh quan và Cảnh quan sinh thái (1993), Nguyễn Trần Cầu với Cảnh quan học- Sinh thái học và việc nghiên cứu thành lập bản đồ Cảnh quan sinh thái (1992)...Các báo cáo khoa học của Hội Địa lý Việt Nam năm 1995, 1996 đã nghiên cứu về vấn đề tổ chức lãnh thổ và phân vùng lãnh thổ; Nguyễn Thế Thôn năm 2000 tiếp tục nghiên cứu “Về lý thuyết cảnh quan sinh thái”, năm 2001 đưa ra “Nguyên tắc và phương pháp thiết kế mô hình kinh tế - môi trường trên cơ sở lý thuyết cảnh quan sinh thái và cảnh quan sinh thái ứng dụng”.

Song song với việc nghiên cứu về lý luận là các công trình nghiên cứu và vận dụng các vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan vào thực tiễn cảnh quan Việt Nam. Năm 1991, Trương Quang Hải Phân kiểu cảnh quan Miền Nam Việt Nam; Năm 1993, Nguyễn Thành Long và nnk thuộc Trung tâm Địa lý tự nhiên đã Nghiên cứu xây dựng bản đồ cảnh quan lãnh thổ Việt Nam; Nguyễn Cao Huần đã nghiên cứu các đơn vị phân loại cảnh quan Việt Nam vào năm 1996; Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997) đã nghiên cứu xây dựng Cơ sở cảnh quan học của việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ lãnh thổ môi trường Việt Nam; Nguyễn Cao Huần và Trần Anh Tuấn đã nghiên cứu Phân loại cảnh quan nhân sinh Việt Nam (2000); Phạm Hoàng Hải Nghiên cứu về các nguyên tắc và hệ thống phân vị cảnh quan Việt Nam (2000)…v.v. Theo hướng nghiên cứu này Phạm Hoàng Hải đã tiếp tục "Nghiên cứu đa dạng cảnh quan Việt Nam, phương pháp luận và một số kết quả thực tiễn nghiên cứu" năm 2006 và “Phân vùng sinh thái cảnh quan ven biển Việt Nam để sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường”. Các công trình này đã đưa ra các hệ thống phân loại khác nhau phù hợp với từng phạm vi lãnh thổ và mục đích nghiên cứu, đồng thời đã cung cấp những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau.

Bên cạnh đó, việc NCCQ phục vụ SDHL tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường nhằm phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững ngày càng được các nhà khoa học quan tâm. Trong những năm gần đây xu hướng nghiên cứu cảnh quan đi vào cụ thể cho một vùng lãnh thổ của vùng, miền, tỉnh ở nước ngày càng phổ biến. Năm 1990, Phạm Hoàng Hải Đánh giá tổng hợp các ĐKTN và TNTN lãnh thổ nhiệt đới ẩm gió mùa dải ven biển Việt Nam cho mục đích phát triển sản xuất Nông - Lâm nghiệp và bảo vệ môi trường; Năm 1993, tiếp tục Đánh giá tổng hợp các ĐKTN và TNTN lãnh thổ nhiệt đới ẩm gió mùa Việt Nam cho mục đích phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường. Đồng thời hướng nghiên cứu Sinh thái hoá cũng phát triển mạnh mẽ, có thể kể đến công trình của Nguyễn Văn Vinh (1996), nghiên cứu sinh thái cảnh quan vùng gò đồi Quảng Bình; Phạm Thế Vĩnh (2002), nghiên cứu cảnh quan sinh thái dải ven biển Đồng bằng Sông Hồng; Hà Văn Hành (2002), nghiên cứu cảnh quan vùng A Lưới tỉnh Thừa Thiên-Huế; Nguyễn Cao Huần, Nguyễn An Thịnh (2004) nghiên cứu, đánh giá sinh thái cảnh quan Sapa tỉnh Lào Cai; Nguyễn Xuân Độ (2005), nghiên cứu cảnh quan Đăklăk; Trương Quang Hải (2008), Nghiên cứu và xác lập cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững vùng núi đá vôi Ninh Bình... Bên cạnh đó có nhiều công trình ứng dụng công nghệ Viễn thám, GIS để nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ các mục đích khác nhau trong phát triển các ngành kinh tế xã hội.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu sự phân hóa lãnh thổ, các công trình nghiên cứu cảnh quan ứng dụng hiện nay ở nước ta có xu hướng vận dụng cho từng vùng lãnh thổ cụ thể vì thế đã xây dựng nhiều hệ thống phân loại cảnh quan khác nhau. Các công trình này chủ yếu tiến hành theo hướng phân loại cảnh quan không dựa vào cá thể địa tổng thể. Hệ thống phân vị của hầu hết các công trình này đều sử dụng các cấp Hệ →Phụ hệ→ Lớp→ Phụ lớp→ Kiểu→ Phụ kiểu →Hạng, Loại cảnh quan. Đây là những hệ thống phân loại Cảnh quan có những điểm chung, trong đó các tác giả cũng đã sử dụng các cấp phân vị chung như: Hệ, Phụ hệ, Lớp, Phụ lớp, Kiểu, Phụ kiểu và Loại cảnh quan, đồng thời cũng là những cấp phân vị phù hợp trong quá trình nghiên cứu một vùng lãnh thổ cụ thể ở Việt Nam như một vùng, miền, khu vực hoặc phạm vi lãnh thổ một tỉnh và tác giả cũng đã vận dụng các cấp phân vị này cho việc nghiên cứu cảnh quan tỉnh Quảng Bình.

1.1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến cảnh quan tỉnh Quảng Bình.

Quảng Bình là tỉnh có điều kiện tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt. Trước đây việc nghiên cứu về lãnh thổ Quảng Bình còn rất hạn chế, chỉ có các công trình nghiên cứu cho các lãnh thổ rộng hơn về Địa lý tự nhiên Việt Nam, dải ven biển Việt Nam, miền Bắc Việt Nam, Bắc Trung Bộ, khu vực Bình Trị Thiên... và các công trình có liên quan gần với nghiên cứu về ĐKTN và TNTN lãnh thổ Quảng Bình như: Nghiên cứu Đất Bình Trị Thiên và hướng dẫn sử dụng của Tôn Thất Chiểu (1986); Chương trình Đánh giá tổng hợp ĐKTN và TNTN, kinh tế xã hội tỉnh Bình Trị Thiên của Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (1989).

Từ ngày tái lập Tỉnh trở lại đây (năm 1989), Quảng Bình được Nhà nước quan tâm đầu tư phát triển kinh tế xã hội, khai thác tiềm năng vốn có để xoá đói giảm nghèo tiến kịp với các tỉnh, thành khác trong cả nước. Vì vậy đã có nhiều đề tài, dự án cấp Tỉnh, cấp Nhà nước nghiên cứu các vấn đề về điều kiện tự nhiên và TNTN phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế xã hội. Đa số các công trình nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học để phục vụ cho một mục đích sử dụng lãnh thổ cụ thể nào đó, cũng có những công trình điều tra về các nguồn lực tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên để xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu và phát triển các ngành kinh tế. Có thể tổng hợp một số công trình tiêu biểu từ 1990 đến nay theo bảng sau:



Bảng 1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan về Quảng Bình

Thời gian

Tên công trình nghiên cứu

Tác giả

Đối tượng nghiên cứu

1991

Nghiên cứu tổng hợp điều kiện tự nhiên vùng cát ven biển Quảng Bình tạo cơ sở để giải quyết vấn đề cát di động.

Lê Đức An

ĐKTN dải cồn cát

1992

Đặc điểm khí hậu, bản đồ sinh khí hậu tỉnh Quảng Bình và đánh giá mức độ thích hợp của điều kiện khí hậu 3 vùng dự án cho một số cây trồng và đời sống con người

Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Khanh Vân - Viện Địa lý

Khí hậu Quảng Bình

1995

Nghiên cứu về việc xây dựng luận cứ khoa học cho việc lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội Quảng Bình giai đoạn 1996-2010

Nguyễn Văn Phú, Viện chiến lược

Quy hoạch lãnh thổ

1997

Xây dựng luận cứ khoa học cho việc quy hoạch các khu Công nghiệp tỉnh Q. Bình

Lê Văn Tuấn, Sở Kế hoạch đầu tư

Quy hoạch các khu Công nghiệp

1998

Nghiên cứu về trữ lượng và chất lượng mỏ khoáng sản ở Bố Trạch;

Trần Ngọc Soạn

Điều tra TN Khoáng sản ở Bố trạch

1998

Điều tra môi trường nước nội thuỷ phục vụ nuôi trồng thuỷ sản Quảng Bình

Sở Thuỷ sản

Điều tra MT nước nội thuỷ

2000

Điều tra cơ bản xây dựng bản đồ đất Quảng Bình 2005, 2010

Sở Tài nguyên và môi trường

Điều tra TN Đất

2003

Xây dựng luận cứ Khoa học để quy hoạch và phát triển kinh tế miền Tây Quảng Bình sau khi xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh

Lại Vĩnh Cẩm và các tác giả Viện Địa lý

Quy hoạch miền Tây Quảng Bình

2003

Điều tra nghiên cứu tổng hợp địa chất khoáng sản phục vụ phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường Quảng Bình

Lê Dũng và nnk, Đại Học Mỏ Địa Chất

Điều tra Địac chất, Khoáng sản


2003

Nghiên cứu Di sản Thiên nhiên Thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.

Trần Nghi, Đặng Văn Bào và nnk

Vườn QG Phong Nha-Kẻ Bàng

2003

Nghiên cứu Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội hành lang quốc lộ 12A tỉnh Quảng Bình

Nguyễn Bá Ân và nnk, Viện chiến lược phát triển

Quy hoạch quốc lộ 12A

2004

Nghiên cứu đánh giá phân hạng đất đai tỉnh Quảng Bình theo phương pháp của FAO-UNESCO bằng phần mềm ALES phục vụ quy hoạch Nông-Lâm-Ngư nghiệp bền vững

Nguyễn Anh Hoành, Nguyễn Đình Kỳ - Viện Địa lý

Đánh giá đất đai

2005

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nuôi tôm trên cát và giải pháp khắc phục

Trần Như Ý, Nguyễn Xuân Tặng và nnk, Viện Địa Lý

Điều kiện nuôi tôm trên dải cồn cát

2006

Nghiên cứu về tuyến du lịch mạo hiểm Phong Nha – Kẻ Bàng

Trương Quang Hải và nnk, Trường ĐHKH Tự nhiên

Du lịch mạo hiểm Vườn QG Phong Nha-Kẻ Bàng

2006

Thu thập và chỉnh lý số liệu khí tượng thủy văn Quảng Bình từ năm 1956 đến năm 2005

Nguyễn Đại, Trung tâm Dự báo KTTV Quảng Bình

Số liệu về Khí tượng, thuỷ văn

2006

Đánh giá sức chịu tải tới hạn của hệ sinh thái môi trường tự nhiên - xã hội khu di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng tỉnh Quảng Bình, đề xuất mô hình phát triển bền vững kinh tế du lịch

Trần Nghi và nnk, Trường ĐHKH Tự nhiên

NC hệ sinh thái phụ vụ PT Du lịch Vườn QG Phong Nha-Kẻ Bàng

Các công trình nghiên cứu về ĐKTN, TNTN tỉnh Quảng Bình và một số vấn đề ứng dụng trong việc khai thác tài nguyên để phát triển các ngành kinh tế - xã hội của Tỉnh là những nguồn tài liệu quan trọng trong quá trình tác giả nghiên cứu về các yếu tố thành tạo nên CQ tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên lãnh thổ Quảng Bình vẫn chưa có công trình nào đánh giá một cách đầy đủ các ĐKTN và nguồn tài nguyên thiên nhiên làm cơ sở khoa học cho việc SDHL toàn bộ lãnh thổ tỉnh Quảng Bình.

Công trình nghiên cứu cảnh quan đáng lưu ý đối với Quảng Bình là đề tài Nghiên cứu đặc điểm cảnh quan sinh thái và phương hướng sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên vùng gò đồi Quảng Bình của tác giả Nguyễn Văn Vinh, Viện Địa lý năm 1996. Đây là một trong những tài liệu được tác giả sử dụng tham khảo về cơ sở phương pháp nghiên cứu và ứng dụng đối với lãnh thổ nghiên cứu. Năm 1999, tác giả cũng đã thực hiện đề tài luận văn Thạc sỹ Nghiên cứu điều kiện tự nhiên dải cồn cát ven biển Nam Quảng Bình đề xuất định hướng cải tạo và sử dụng cho vùng đất khắc nghiệt này.

Bên cạnh đó các tài liệu nghiên cứu quan trọng cần được kể đến là nguồn báo cáo, số liệu được các Sở, Ban ngành trong tỉnh nghiên cứu, bổ sung, cập nhật hàng năm như: Báo cáo hiện trạng môi trường, Báo cáo tình hình sử dụng đất, Quy hoạch các loại rừng...UBND tỉnh Quảng Bình, Sở kế hoạch và đầu tư năm 2009 đã tiến hành Đánh giá môi trường chiến lược, phục vụ cho dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Bình đến 2020 là những nguồn thông tin đáng tin cậy mà tác giả đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu.

Trong xu hướng chung ngày càng sử dụng công nghệ hiện đại trong nghiên cứu địa lý tổng hợp, năm 2010 tác giả đã cùng tham gia với tập thể tác giả Viện Tài nguyên - Môi trường và phát triển bền vững Huế tiến hành nghiên cứu đề tài Ứng dụng Công nghệ GIS và Viễn thám điều tra, đánh giá tổng hợp ĐKTN và TNTN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Quảng Bình. Đối với đề tài này tác giả đã thừa kế một số kết quả biên hội về ĐKTN, TNTN, các kết quả khảo sát, thực địa và phân tích ảnh viễn thám để chuẩn hoá lại các dữ liệu đã có, thành lập bản đồ thành phần, các lát cắt; tác giả cũng đã sử dụng một số kết quả trong nghiên cứu tiềm năng đất đai phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp vùng đồng bằng và gò đồi Quảng Bình.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu về lãnh thổ Quảng Bình là những kết quả nghiên cứu hết sức quan trọng về mặt lí luận và thực tiễn để khi tiến hành nghiên cứu đề tài tác giả có thể sử dụng. Trên cơ sở các tài liệu này, tác giả nghiên cứu để định ra phương pháp và nội dung nghiên cứu một cách phù hợp, vận dụng một cách hiệu quả các kết quả đã có vào công trình nghiên cứu của mình.



1.2. Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan.

1.2.1. Quan niệm Cảnh quan và Cảnh quan học

Về mặt phương pháp luận nghiên cứu, học thuyết cảnh quan được xây dựng bắt đầu từ thế kỷ XIX, tuân thủ các giai đoạn phát triển từ phân tích bộ phận, rồi đến tổng hợp; phân tích các bậc cao hơn, tổng hợp ở bậc cao hơn và ngày càng đi sâu vào bản chất của các sự vật, hiện tượng trong lớp vỏ cảnh quan. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, cảnh quan học xác định rõ nhiệm vụ của mình là học thuyết các quy luật phân hóa lãnh thổ của lớp vỏ địa lý, cảnh quan là đơn vị cơ sở của hệ thống phân vùng và có thể nhóm CQ vào bậc liên kết cao hơn. Chuyển sang giai đoạn nghiên cứu sâu cấu trúc không gian của cảnh quan, xem CQ là những hệ thống có cấu trúc không gian phức tạp, là một hệ thống động lực hở và là hệ thống có tính chất phân bậc lôgíc, khẳng định cảnh quan học đã tiến thêm một bước mới.

Trong quá trình phát triển, khái niệm “cảnh quan” dần dần được hoàn chỉnh, mỗi khái niệm đánh dấu một bước phát triển của khoa học cảnh quan trên thế giới.

Lần đầu tiên L.S. Berge (1913) đã đưa ra khái niệm coi CQ như là một miền, trong đó địa hình, khí hậu, nước, đất, lớp phủ sinh vật cũng như hoạt động của con người được gắn kết thành một thể thống nhất, hài hòa, lặp lại một cách điển hình trong một đới nhất định nào đó của trái đất. Quan điểm giải thích cảnh quan của ông được các nhà địa lý Xô Viết như: L.G.Ramenxki, X.V.Kalexnik, N.A.Xontxep, A.A.Grigôriep cùng nhiều nhà địa lý khác ủng hộ và phát triển [27, 50].

Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, khoa học về CQ mới xác định rõ nhiệm vụ và thực sự phát triển rộng rãi, hoàn thiện dần về cả lý thuyết, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu.

Năm 1948, N.A.Xolsev đã phát triển trên cơ sở quan niệm của L.S.Berge, ông đưa ra định nghĩa xác định: Cảnh quan là một lãnh thổ đồng nhất về mặt phát sinh, các thành phần địa chất, địa hình, khí hậu, đất và động thực vật có sự lặp lại một cách điển hình và có quy luật. Năm 1962, ông đã đưa ra định nghĩa cụ thể và rõ ràng hơn về CQ. Quan niệm này cho rằng CQ là một đơn vị cơ bản trong phân vùng địa lý tự nhiên “…là một thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên đồng nhất về mặt phát sinh, có một nền địa chất đồng nhất, có một kiểu địa hình, một kiểu khí hậu đồng nhất và bao gồm một tập hợp các dạng địa lý chủ yếu và thứ yếu có liên kết với nhau về mặt động lực, lặp lại một cách có quy luật trong không gian, tập hợp này chỉ thuộc riêng cho cảnh quan đó mà thôi”. Với định nghĩa này, N.A.Xolsev đã xác định được cấu trúc thẳng đứng và cấu trúc ngang của cảnh quan [27, 50].

Năm 1965, A.G.Ixatsenko đã bổ sung định nghĩa trên, ông cho rằng: Cảnh quan là một bộ phận được tách ra từ một miền, một đới địa lý và nói chung là của một đơn vị lãnh thổ bất kỳ nào đó lớn hơn, nó có đặc điểm là đồng nhất về cả tương quan địa đới và phi địa đới, có một cấu trúc riêng và một cấu tạo hình thái riêng. Cũng trên quan điểm đó năm 1991 ông đưa ra định nghĩa gắn gọn hơn cho rằng: “Cảnh quan là một địa hệ thống nhất về mặt phát sinh, đồng nhất về các dấu hiệu địa đới và phi địa đới, bao gồm một tập hợp đặc trưng các địa hệ liên kết bậc thấp”.

Ở Việt Nam, khi nghiên cứu CQ địa lý miền Bắc Việt Nam, GS.Vũ Tự Lập đã đưa ra định nghĩa: “Cảnh quan địa lý là một địa tổng thể, được phân hóa trong phạm vi một đới ngang ở đồng bằng và một đai cao ở miền núi, có một cấu trúc thẳng đứng đồng nhất về nền địa chất, kiểu địa hình, kiểu khí hậu, kiểu thủy văn, về đại tổ hợp thổ nhưỡng và đại tổ hợp thực vật, bao gồm một tập hợp có quy luật của các dạng địa lý và những đơn vị cấu tạo khác theo một cấu trúc ngang đồng nhất” [58].

Như vậy, CQ được hiểu và áp dụng khác nhau phụ thuộc vào quan điểm của người nghiên cứu. Thuật ngữ này có thể hiểu theo một trong các nội dung sau:



  1. Cảnh quan được coi là một thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên ở bất kỳ một cấp phân chia nào, đó là quan niệm chung.

  2. Cảnh quan là một đơn vị phân loại trong hệ phân vị lãnh thổ tự nhiên, trong đó cảnh quan là đơn vị chủ yếu được xem xét đến những biến đổi do tác động của con người. Quan niệm cảnh quan là đơn vị mang tính kiểu loại.

  3. Cảnh quan là những cá thể địa lý, là một phần nào đó riêng biệt của lớp vỏ địa lý, trong đó có những đặc tính chung nhất.

Trong đó quan niệm kiểu loại và quan niệm cá thể được nhiều nhà nghiên cứu cảnh quan sử dụng, phổ biến là quan niệm kiểu loại. Trong quan niệm này cảnh quan được coi là đơn vị cơ sở, là một cấp phân vị, đơn vị phân loại thể hiện rõ nét nhất cả hai quy luật địa đới và phi địa đới, đồng thời là địa hệ tự nhiên cấp cơ sở có cấu trúc hình thái riêng. Trong NCCQ có nhiều hướng khác nhau, cần phải hiểu cảnh quan theo đúng bản chất của nó, không thể hiểu theo tên gọi vì chưa có một định nghĩa cảnh quan thống nhất [27].

Trong quá trình nghiên cứu CQ lãnh thổ Quảng Bình, tác giả đã quan niệm CQ vừa là một thể tổng hợp tự nhiên, vừa là đơn vị mang tính kiểu loại, là một đơn vị nằm trong hệ thống phân loại chung của CQ lãnh thổ Việt Nam và đồng thời là một bộ phận CQ lãnh thổ Việt Nam. Cảnh quan Quảng Bình là một thể tổng hợp tự nhiên phức tạp vừa có tính đồng nhất vừa bất đồng nhất bao gồm một hệ thống các yếu tố thành phần cấu tạo nên (địa chất, địa hình, khí hậu, đất, nước, sinh vật) và giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc tác động lẫn nhau, đồng thời có sự phân hoá phức tạp từ cấp cao đến thấp theo hệ thống phân loại nhất định tạo nên tính đa dạng trong cấu trúc, chức năng và động lực CQ tỉnh Quảng Bình. Chính vì vậy khi nghiên cứu CQ tỉnh Quảng Bình cần lựa chọn phương pháp và quan điểm nghiên cứu phù hợp.

1.2.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cảnh quan

1.2.2.1. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu cảnh quan

a) Quan điểm nghiên cứu:

Trong quá trình nghiên cứu, đánh giá cảnh quan tỉnh Quảng Bình, tác giả dựa trên cơ sở các quan điểm đã được vận dụng trong nghiên cứu địa lý tự nhiên tổng hợp, có tính đến những tác động của sản xuất lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý nguồn TNTN, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế - xã hội, những quan điểm ứng dụng nghiên cứu địa lý địa phương, đó là các quan điểm:

- Quan điểm hệ thống :

Các yếu tố tự nhiên thành tạo nên Cảnh quan trên một lãnh thổ luôn luôn có tác động qua lại và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo nên một hệ thống động lực hở, tự điều chỉnh và có trạng thái cân bằng động. Nếu tác động đến một yếu tố nào đó trong hệ thống ở mức độ cho phép thì hệ thống này tự điều chỉnh để cân bằng, nếu tác động quá mức thì cân bằng sẽ bị phá hủy, làm cho Cảnh quan biến đổi và phân hóa.

Nghiên cứu cảnh quan tỉnh Quảng Bình cũng phải tuân theo quan điểm này. Coi đối tượng nghiên cứu là một hệ thống gồm các hợp phần tự nhiên: Địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, sinh vật cấu tạo nên và giữa các thành phần này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tương tác lẫn nhau tạo thành một thể thống nhất, đồng thời chịu sự tác động của hệ thống các yếu tố kinh tế xã hội trên lãnh thổ. Trong quá trình phân tích, đánh giá cảnh quan, tác giả cũng đã đưa ra một hệ thống các cấp phân loại làm cơ sở cho việc xây dựng Bản đồ cảnh quan, đánh giá và định hướng sử dụng hợp lý lãnh thổ.

- Quan điểm tổng hợp:

Là quan điểm truyền thống khi nghiên cứu địa lý, thể hiện cả trong nội dung và phương pháp nghiên cứu. Khi nghiên cứu các thành phần cảnh quan, phải đặt nó trong mối quan hệ với các thành phần khác, đặt trong tổng thể cảnh quan của lãnh thổ nghiên cứu. Từ những nghiên cứu rời rạc từng thành phần, từng bộ phận của khu vực, từng cấp phân loại cảnh quan phải có sự tổng hợp để nhìn nhận và đánh giá chúng trong toàn bộ hệ thống cảnh quan lãnh thổ. Nghiên cứu một cách đồng bộ và toàn diện các yếu tố, thành phần cảnh quan cũng như mối quan hệ giữa chúng.

Trong nghiên cứu cảnh quan lãnh thổ Quảng Bình, tác giả vận dụng quan điểm này sau khi phân tích các yếu tố thành tạo, cần phải có sự tổng hợp, khái quát hoá những đặc điểm mang tính thống nhất trong toàn bộ cảnh quan và mối quan hệ giữa chúng, mối quan hệ giữa cảnh quan và sản xuất lãnh thổ Quảng Bình để có thể đánh giá tổng hợp cảnh quan cho các mục đích khác nhau nhằm sử dụng hợp lý TNTN và bảo vệ môi trường. Trong đánh giá Cảnh quan tỉnh Quảng Bình, tác giả đã tiến hành đánh giá cảnh quan cho từng mục đích Nông, Lâm nghiệp và Du lịch, sau đó là đánh giá tổng hợp cảnh quan để đưa ra những định hướng khai thác, sử dụng hợp lý.

- Quan điểm lãnh thổ:

Quan điểm này xuất phát từ chỗ: Đối tượng địa lý nào cũng cần xác định trên một lãnh thổ cụ thể, có sự phân hóa và phụ thuộc lẫn nhau trong lãnh thổ đó, đồng thời lãnh thổ đó cũng có mối quan hệ với các lãnh thổ xung quanh trên phương diện tự nhiên, cũng như kinh tế - xã hội.

Trong quá trình nghiên cứu cảnh quan tỉnh Quảng Bình, sự thay đổi của một thành phần tự nhiên trong một bộ phận lãnh thổ ở miền núi hay vùng gò đồi cũng đều có liên quan đến các bộ phận lãnh thổ thuộc khu vực đồng bằng hay dải ven biển và ngược lại; nói cách khác khi nghiên cứu một bộ phận cảnh quan Quảng Bình phải đặt nó trong toàn bộ cảnh quan lãnh thổ Quảng Bình. Đây là vấn đề mà trong khi định hướng khai thác và sử dụng tự nhiên lãnh thổ rất cần được lưu ý.

- Quan điểm sinh thái:

Là một quan điểm đặc thù trong nghiên cứu Cảnh quan nói chung, nghiên cứu địa lý địa phương nói riêng và ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Trong nghiên cứu cảnh quan, chúng ta không thể không xem xét đến yếu tố tác động của sản xuất lãnh thổ. Có thể thấy rằng mỗi đơn vị cảnh quan đều có một mối liên hệ với việc sử dụng và khai thác của con người, con người là chủ thể các hoạt động sản xuất và những tác động đó đều có thể làm thay đổi bộ mặt cảnh quan. Đối với hướng nghiên cứu Cảnh quan sinh thái có sự kết hợp giữa cảnh quan học và sinh thái học, chú trọng nghiên cứu môi trường cảnh quan hiện đại gồm cả cảnh quan tự nhiên và cảnh quan nhân văn, đồng thời nghiên cứu cả mối quan hệ giữa sinh vật và điều kiện môi trường, đặc biệt là quan hệ với con người, nhằm mục đích cuối cùng là tìm ra các giải pháp kinh tế - kỹ thuật, sinh thái để khai thác và sử dụng môi trường hữu hiệu hơn. Nó đem lại cho địa lý tự nhiên một hướng đi có ứng dụng cao hơn.

Trên quan điểm sinh thái, trong nghiên cứu cảnh quan tỉnh Quảng Bình tác giả đã xem xét đến sự tác động của con người đối với các yếu tố thành tạo cảnh quan như: Thảm thực vật, thổ nhưỡng, môi trường nước, không khí; xem xét yếu tố con người trong sự phân hoá và đặc điểm đa dạng của cảnh quan, trong đánh giá cảnh quan có xem xét đến tính biến động của cảnh quan trong mối quan hệ với sản xuất lãnh thổ Quảng Bình.


  • Quan điểm sử dụng hợp lý TNTN - Phát triển bền vững :

Là quan điểm xuyên suốt trong quá trình khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển kinh tế xã hội, sử dụng hợp lý nguồn TNTN là sự đảm bảo cho phát triển bền vững, tức là đảm bảo quá trình phát triển đáp ứng một cách công bằng thế hệ hiện tại nhưng không để lại sự tổn hại cho thế hệ mai sau.

Trong nghiên cứu Cảnh quan tỉnh Quảng Bình nhằm phục vụ sử dụng hợp lý nguồn TNTN và BVMT, người nghiên cứu luôn phải tuân thủ quan điểm này trong khi đưa ra các định hướng, giải pháp phát triển kinh tế xã hội. Muốn kinh tế xã hội bền vững thì trước hết phải bền vững về môi trường tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Sử dụng nguồn TNTN tiết kiệm, có hiệu quả trong giới hạn cho phép các nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có của lãnh thổ; sử dụng phải đi đôi với bảo vệ gìn giữ, cải thiện môi trường sống. Đây là quan điểm định hướng cho mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đạt đến là sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.

b) Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu địa lý tự nhiên một địa phương, chúng ta cần áp dụng các phương pháp cụ thể, các phương pháp đi từ phân tích đến tổng hợp hoặc ngược lại, có thể sử dụng phương pháp truyền thống kết hợp với phương pháp hiện đại, tuy nhiên phải căn cứ vào lãnh thổ nghiên cứu và nguồn tài liệu thực tế để lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp. Đối với nghiên cứu cảnh quan lãnh thổ Quảng Bình, trên cơ sở quan điểm tiếp cận hệ thống và quan điểm tổng hợp, tác giả đã sử dụng các phương pháp sau đây:

b1) Các phương pháp điều tra tổng hợp: Gồm các phương pháp cụ thể :

- Phương pháp thu thập, xử lý số liệu, tài liệu

Trên cơ sở đề cương nghiên cứu, tác giả căn cứ vào mục tiêu và nội dung nghiên cứu để tiến hành thu thập các nguồn tài liệu, số liệu, báo cáo, bản đồ và các thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đánh giá cảnh quan lãnh thổ Quảng Bình.

Do các tài liệu, số liệu thu thập từ nhiều nguồn khác nhau vì vậy cần chuẩn hoá để đảm bảo tính đồng bộ về thời gian, đơn vị...Sau đó tiến hành phân tích, tổng hợp, lựa chọn và xử lý nguồn tài liệu, số liệu, biên tập lại các bản đồ thu thập được trên cơ sở nền bản đồ Địa hình tỉnh Quảng Bình tỷ lệ 1:100.000 để đưa ra thông tin phù hợp với yêu cầu nội dung nghiên cứu.

- Phương pháp khảo sát thực địa

Trên cơ sở nguồn tài liệu đã được chuẩn hoá, tác giả lập đề cương cho công tác khảo sát thực địa để bổ sung, cập nhật tài liệu, bảo đảm tính đúng đắn và chính xác hóa của việc điều tra, nghiên cứu tổng hợp các điều kiện tự nhiên, TNTN và kinh tế xã hội của địa phương, phù hợp với mục đích nghiên cứu. Qua việc tham gia khảo sát thực địa theo các tuyến cắt ngang lãnh thổ Quảng Bình gồm: Tuyến Ba Đồn theo đường 12A, tuyến theo đường 16 từ Lệ Thuỷ-Khe Bang, tuyến từ Võ Ninh đi theo đường 10 có thể xác định sự phân hoá cảnh quan Quảng Bình theo chiều từ Đông sang Tây và lập lát cắt; Khảo sát dọc theo đường Hồ Chí Minh, vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, dọc theo dải cồn cát ven biển từ Lệ Thuỷ đến Quảng Trạch, bằng việc quan sát, đo đạc nghiên cứu các dạng địa hình, thảm thực vật, các cồn cát và đụn cát…kết hợp điều tra, tìm hiểu nghiên cứu thực tế qua các đợt hướng dẫn sinh viên thực địa các đối tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình, tác giả đã thu thập được một số tài liệu cần thiết và chụp ảnh minh họa.



  • Phương pháp phỏng vấn, điều tra: Là phương pháp thu thập thông tin từ những người dân có kinh nghiệm, các nhà quản lý hoặc xin ý kiến chuyên gia.

Điều tra những người dân định cư lâu năm hoặc có kinh nghiệm nhằm mục đích thu thập nhanh một số thông tin về tình hình sử dụng tài nguyên thiên nhiên, một số vấn đề về sản xuất, sinh sống của người dân như: sử dụng đất, trồng rừng, nuôi trồng thuỷ sản, tập quán sản xuất, hiệu quả kinh tế...đây là những dữ liệu quan trọng giúp chúng ta trong việc đánh giá tài nguyên và đưa ra định hướng sử dụng khả thi cho địa phương.

Trong quá trình đánh giá, ngoài việc dựa trên những cảm nhận chủ quan khi nghiên cứu ngoài thực địa hoặc việc phân tích, đánh giá, đề tài còn tiến hành tham khảo ý kiến của các chuyên gia, đặc biệt trong việc lựa chọn trọng số của các tiêu chí. Sử dụng phương pháp này nhằm tăng cường tính chính xác và khách quan của kết quả đánh giá.

b2) Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý (GIS):

- Phương pháp bản đồ: là một phương pháp truyền thống của khoa học địa lý. Trong nghiên cứu địa lý địa phương, phương pháp bản đồ được vận dụng trong tất cả các khâu nghiên cứu như trong phân tích xử lý số liệu; biên tập bản đồ, phân tích, lựa chọn các phương pháp biểu hiện, so sánh, đối chiếu, phân tích đánh giá các bản đồ để xác định sự phân bố, những biến động của các đối tượng hiện tượng nghiên cứu trong không gian. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả cũng đã sử dụng bản đồ cho các đợt khảo sát thực địa để có thể bao quát toàn bộ không gian khu vực nghiên cứu.

Trong nghiên cứu Cảnh quan tỉnh Quảng Bình phương pháp bản đồ đã được vận dụng từ khâu đầu tiên để thu thập thông tin, chuẩn hoá phân tích, tổng hợp các yếu tố thành tạo cảnh quan, đến việc thành lập bản đồ Cảnh quan tỉnh Quảng Bình và khâu cuối cùng của đánh giá cảnh quan là thành lập bản đồ định hướng sử dụng Cảnh quan tỉnh Quảng Bình.

- Ngoài việc sử dụng các bản đồ truyền thống, tác giả đã sử dụng các phần mềm GIS để tiến hành chỉnh sửa, biên tập và thể hiện các bản đồ hợp phần thành tạo cảnh quan lãnh thổ Quảng Bình. Tích hợp các lớp thông tin ở các bản đồ thành phần để thành lập bản đồ Cảnh quan tỉnh Quảng Bình và trên cơ sở Bản đồ cảnh quan, các dữ liệu thuộc tính trong đánh giá cảnh quan để thành lập Bản đồ định hướng sử dụng hợp lý nguồn TNTN và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.

b3) Phương pháp phân tích, đánh giá cảnh quan:

Đây là phương pháp được tác giả sử dụng trong quá trình phân tích đa dạng cảnh quan tỉnh Quảng Bình, trong công tác xây dựng các chỉ tiêu và thực hiện các bước để đánh giá cảnh quan. Trên cơ sở phân tích các yếu tố thành tạo cảnh quan, phân tích cấu trúc, chức năng cảnh quan, đề tài tiến hành đánh giá cảnh quan cho các mục đích phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp, du lịch, phát triển đô thị để từ đó định hướng cho việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.

Tất cả các phương pháp trên được tác giả áp dụng trong quá trình nghiên cứu, đánh giá cảnh quan tỉnh Quảng Bình. Có khi sử dụng độc lập, có khi phải phối hợp nhiều phương pháp trong quá trình nghiên cứu chúng bổ sung cho nhau, tăng cường hiệu quả, tính chính xác và khách quan của quá trình nghiên cứu.

c) Quy trình nghiên cứu:

Trên cơ sở xác định mục đích, nội dung, phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả đã vận dụng quan điểm tiếp cận hệ thống, quan điểm tổng hợp trong nghiên cứu, đánh giá cảnh quan tỉnh Quảng Bình, đồng thời tác giả cũng đã sử dụng phù hợp các phương pháp nghiên cứu cho từng công đoạn, nội dung cụ thể. Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu, đánh giá cảnh quan tỉnh Quảng Bình cho phát triển nông, lâm nghiệp và du lịch nhằm mục đích sử dụng hợp lý nguồn TNTN và BVMT tác giả đã thực hiện quy trình nghiên cứu gồm các giai đoạn như sau: Trên cơ sở mục đích nghiên cứu của đề tài, xác định phạm vi nghiên cứu và những vấn đề về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu thì bước đầu tiên đề tài tiến hành phân tích các yếu tố thành tạo cảnh quan tỉnh Quảng Bình (bước 1); tiếp đến là xây dựng hệ thống phân loại và thành lập bản đồ cảnh quan(bước 2); Tiến hành phân tích đa dạng cảnh quan tỉnh Quảng Bình (bước 3); Sau đó trên cơ sở các dữ liệu và bản đồ cảnh quan tiến hành đánh giá cảnh quan cho các mục đích khác nhau gồm: đánh giá cảnh quan cho phát triển nông nghiệp (bước 4), đánh giá cảnh quan cho mục đích lâm nghiệp (bước 5), đánh giá cảnh quan cho phát triển du lịch (bước 6) và đánh giá khả năng phát triển tổng hợp các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp và du lịch cho loại cảnh quan (bước 7); Cuối cùng trên cơ sở kết quả đánh giá là những kiến nghị và xây dựng bản đồ định hướng sử dụng hợp lý CQ (bước 8). Đây là những cơ sở khoa học quan trọng nhằm mục đích sử dụng hợp lý nguồn TNTN và BVMT trong phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp và du lịch tỉnh Quảng Bình.



Hình 1.1. Sơ đồ quy trình nghiên cứu, đánh giá cảnh quan tỉnh Quảng Bình

1.2.2.2. Nghiên cứu đa dạng cảnh quan.

Nghiên cứu cảnh quan là phân tích tính đa dạng trong cấu trúc, chức năng và động lực cảnh quan, một công đoạn không thể thiếu trong NCCQ một lãnh thổ. Đặc tính đa dạng của cảnh quan cho phép đánh giá đúng tiềm năng tự nhiên của mỗi vùng, từ đó đưa ra được những giải pháp, biện pháp nhằm sử dụng hợp lý TNTN và bảo vệ môi trường cho mục đích phát triển kinh tế xã hội bền vững [27, 29].

Mỗi vùng, mỗi địa phương ngoài những đặc tính chung, đồng nhất về tự nhiên của vùng miền thì đều có những phân hoá đa dạng phức tạp hoàn toàn phụ thuộc vào tính bất đồng nhất của các yếu tố thành tạo nên nó (các yếu tố hợp phần), trong đó có cả tác động của con người và hình thành nên các đơn vị tự nhiên ở các cấp khác khau có tính chất khác biệt nhau chính là các đơn vị cảnh quan. Vì vậy nghiên cứu đa dạng của cảnh quan chính là phân tích tính đa dạng trong cấu trúc, chức năng và động lực cảnh quan, làm cơ sở cho đánh giá cảnh quan để tìm ra các giải pháp sử dụng hợp lý nguồn TNTN, bảo vệ môi trường phục vụ phát triển kinh tế xã hội bền vững. Đây cũng là mục đích, ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu đa dạng cảnh quan lãnh thổ.

Đối tượng của việc nghiên cứu đa dạng cảnh quan chính là hệ thống các đơn vị phân loại cảnh quan với nhiều cấp trong hệ thống phân vị cảnh quan của lãnh thổ nghiên cứu từ trên xuống như: Kiểu, phụ kiểu, lớp, phụ lớp, loại cảnh quan; cũng có thể là các cấp đơn vị phân vùng như: Miền, khu, đới, á đới.... Đối với lãnh thổ Quảng Bình tác giả lựa chọn đối tượng nghiên cứu là các đơn vị trong hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Quảng Bình từ Hệ, phụ hệ, lớp, phụ lớp, kiểu, phụ kiểu và loại cảnh quan ở tỷ lệ bản đồ là 1:100.000, trong đó đơn vị loại cảnh quan là đơn vị cơ sở của quá trình nghiên cứu.

Dựa vào quan điểm tiếp cận địa lý tổng hợp và hệ thống, trên cơ sở phân tích một cách đầy đủ đặc điểm phức tạp của các yếu tố hợp phần (cấu trúc đứng) và phân hoá của các đơn vị cảnh quan (cấu trúc ngang) thì cần phải làm rõ mối tác động tương hỗ, mật thiết giữa các hợp phần và quan hệ các đơn vị cảnh quan trong hệ thống phân loại của nó, từ đó làm rõ chức năng (phân tích chức năng) của các đơn vị cảnh quan để thấy được giá trị, vai trò của cảnh quan và đây là cơ sở cho việc đánh giá tiềm năng tự nhiên phục vụ phát triển kinh tế xã hội (tức là khâu đánh giá cảnh quan).

Theo các nhà nghiên cứu cảnh quan [27, 28, 29], thì trong nghiên cứu cảnh quan thường phải áp dụng các 3 nguyên tắc chính là nguyên tắc đồng nhất phát sinh, nguyên tắc cấu trúc và nguyên tắc chức năng:


  • Nguyên tắc đồng nhất phát sinh: Được sử dụng trong phân tích cảnh quan, làm rõ về nguồn gốc hình thành của các yếu tố thành tạo cảnh quan và mối quan hệ giữa chúng. Xác định những đặc trưng cơ bản về cấu trúc, chức năng nguyên sinh của cảnh quan cũng như xu hướng biến đổi của các đơn vị cảnh quan trong quá trình sử dụng. Đây là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu, phân loại cảnh quan cho từng vùng lãnh thổ khác nhau.

  • Nguyên tắc cấu trúc: Là nguyên tắc được sử dụng để làm rõ các đặc tính cấu trúc cảnh quan, quy luật phân hoá không gian, cấu trúc phân bậc và đặc trưng về tổ chức theo lãnh thổ của các thể tổng hợp tự nhiên. Đây là nguyên tắc làm căn cứ cho việc xây dựng cơ sở khoa học của việc sử dụng hợp lý điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên ở những vùng lãnh thổ khác nhau.

  • Nguyên tắc chức năng: Trên cơ sở xem xét mối quan hệ chức năng và phát sinh của các thành phần cảnh quan, nguyên tắc này cho phép xác định một cách chính xác chức năng của từng loại cảnh quan, để từ đó chúng ta có thể tiến hành đánh giá nhằm đưa ra phương án sử dụng hiệu quả nhất đối với từng loại cảnh quan của lãnh thổ nghiên cứu.

  1. Về nghiên cứu đa dạng cấu trúc cảnh quan:

Một trong những đặc điểm thể hiện tính đa dạng cảnh quan lãnh thổ là sự đa dạng trong cấu trúc. Nghiên cứu cấu trúc cảnh quan bao gồm cả việc phân tích cấu trúc thẳng đứng và cấu trúc ngang (cấu trúc không gian) của cảnh quan.

Cấu trúc thẳng đứng hay còn gọi là cấu trúc hợp phần, gồm các thành phần cấu tạo nên cảnh quan là: Đá mẹ, địa hình cùng với lớp vỏ phong hoá và thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, sinh vật và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau [50,58]. Các hợp phần cấu trúc không phải là những thành phần rời rạc mà giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ tạo nên tính thống nhất trong cảnh quan vì vậy khi nghiên cứu cấu trúc thẳng đứng của cảnh quan thì phải xem xét đồng thời tất cả các hợp phần thành tạo trong mối quan hệ giữa chúng.

Cấu trúc ngang của cảnh quan được xác định bởi số cấp phân vị và số lượng cá thể của mỗi cấp. Chính số lượng này phản ánh mức độ phức tạp, tính đa dạng, tính không đồng nhất của cảnh quan. Mỗi cấp phân vị có một cấu trúc ngang riêng, đồng thời mỗi một cá thể cùng một cấp phân vị cũng có đặc điểm cấu trúc riêng. Nghiên cứu cấu trúc ngang là nghiên cứu sự phân hoá phức tạp theo không gian lãnh thổ của các đơn vị cảnh quan theo hệ thống phân vị từ cao xuống thấp và mối quan hệ giữa các đơn vị cảnh quan trong các cấp phân loại.

Không thể tách rời các thành phần và mối quan hệ giữa chúng trong phân tích cấu trúc cảnh quan. Cấu trúc thẳng đứng và cấu trúc ngang của cảnh quan có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, nếu cấu trúc thẳng đứng càng không đồng nhất, tức là thành phần cấu tạo càng phức tạp thì cấu trúc ngang càng đa dạng do tính phân hoá lớn và càng phải có các biện pháp cụ thể trong sử dụng lãnh thổ.



  1. Nghiên cứu đa dạng chức năng cảnh quan

Trong quá trình nghiên cứu cảnh quan, việc phân tích, xác định chức năng của các cảnh quan là cơ sở để đánh giá cảnh quan. Theo Vũ Tự Lập chức năng là sự biểu hiện những đặc tính là hệ quả của tổ chức kết cấu nội dung sự vật. Cấu trúc quy định chức năng cảnh quan và ngược lại chức năng thể hiện ra bên ngoài cấu trúc của cảnh quan. Cảnh quan có hai chức năng cơ bản là chức năng tự nhiên và chức năng kinh tế xã hội [31, 58]

Chức năng tự nhiên là tiếp nhận các dòng vật chất, năng lượng để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cảnh quan, còn gọi là chức năng tự điều chỉnh của cảnh quan. Chức năng kinh tế xã hội là khả năng sử dụng cảnh quan vào các mục đích phát triển kinh tế xã hội, là thuộc tính thể hiện bên ngoài của chức năng tự nhiên và chỉ xuất hiện khi có con người; nếu sử dụng cảnh quan phù hợp với chức năng kinh tế thì sẽ đảm bảo sự phát triển bền vững cho mối quan hệ giữa tự nhiên và con người [31].

Theo quan điểm của De Groot (1992, 2006), của Bastian và Roder (2002) thì có thể chia chức năng của một đơn vị cảnh quan ra 3 nhóm chức năng chính là: Chức năng tự nhiên, chức năng sản xuất và chức năng xã hội [131, 132, 141].

- Chức năng tự nhiên hay còn gọi là chức năng sinh thái: Là khả năng cảnh quan có thể tự điều chỉnh các dòng vật chất năng lượng nhằm bảo vệ TNTN và môi trường như: Chống xói mòn, rửa trôi, suy thoái đất đai; cân bằng mực nước, độ ẩm, nhiệt nhằm cân bằng môi trường; phục hồi, bảo tồn đa dạng sinh học.

- Chức năng sản xuất hay chức năng kinh tế: Là khả năng có thể cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên sinh vật, vật liệu, nhiên liệu, môi trường đất, nước, khí hậu sử dụng vào sản xuất các ngành kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, du lịch, quần cư.

- Chức năng xã hội gồm các khả năng mà cảnh quan có thể ứng dụng vào các mục đích: Giáo dục, nghiên cứu khoa học, thẩm mỹ, giải trí hay giá trị về nhân văn.

Chức năng cảnh quan được xác định trên cơ sở cấu trúc cảnh quan, mỗi đơn vị cảnh quan có thể có nhiều chức năng và nhiều đơn vị cảnh quan có thể cùng một chức năng. Nếu con người sử dụng cảnh quan phù hợp với chức năng cảnh quan thì hướng sử dụng đó là hợp lý và cảnh quan có khả năng phát triển bền vững, lâu dài; nếu con người sử dụng cảnh quan không phù hợp với khả năng đáp ứng của cảnh quan thì cảnh quan bị suy giảm và thường là không bền vững. Con người sử dụng cảnh quan nếu vượt quá khả năng đảm bảo của cảnh quan ở một số bộ phận hoặc thành phần cấu trúc nào đó của cảnh quan thì hệ thống này sẽ có những biến đổi về cấu trúc, phá vỡ cấu trúc cũ hình thành nên cấu trúc cảnh quan mới và khi đó chức năng của cảnh quan cũng sẽ thay đổi theo [31, 33]. Chính vì vậy nghiên cứu chức năng của cảnh quan, đánh giá tiềm năng vốn có của nó là cơ sở để định hướng sử dụng hợp lý cảnh quan, bảo vệ TNTN và môi trường lãnh thổ.

Cảnh quan tỉnh Quảng Bình đa dạng trong cấu trúc cảnh quan. Các thành phần cấu tạo cảnh quan ở đây có sự phân hoá phức tạp, có tác động lẫn nhau và có mối quan hệ mật thiết hình thành nên một hệ thống phân loại cảnh quan gồm các đơn vị phân loại từ cao đến thấp, mỗi đơn vị có chức năng riêng phù hợp với đặc điểm cấu trúc của nó. Chính đa dạng trong cấu trúc cảnh quan Quảng Bình đã tạo nên tính đa dạng trong chức năng của nó.



  1. Nghiên cứu động lực cảnh quan

Động lực là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của cảnh quan trên cơ sở nguồn vật chất, năng lượng trong cảnh quan và tác động của con người, làm thay đổi cấu trúc và chức năng của cảnh quan, có thể hình thành cấu trúc và chức năng mới trong phạm vi không gian cụ thể như: Rừng thành cây bụi, cỏ hoặc cây bụi thành cây ăn quả, cây công nghiệp; đất trung tính thành đất nhiễm mặn, phèn hoặc các thay đổi bề mặt địa hình dẫn tới thay đổi cảnh quan.

Mục đích của nghiên cứu động lực Cảnh quan là Dự báo các xu hướng biến đổi của Cảnh quan nhằm đề xuất các biện pháp giảm thiểu.

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, cảnh quan một lãnh thổ luôn chịu sự tác động của các yếu tố động lực ở bên trong hoặc bên ngoài cảnh quan từ nguồn năng lượng bức xạ mặt trời, chế độ hoàn lưu gió mùa, nguồn năng lượng được giải phóng do các hoạt động trong lòng đất...tạo nên sự chuyển hoá vật chất và năng lượng trong cảnh quan, thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình phong hoá, phân huỷ vật chất hoặc vận chuyển, chuyển đổi vật chất do xói mòn, rửa trôi (các quá trình ngoại lực)... Bên cạnh đó hoạt động của con người cũng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh định hướng phát triển của tự nhiên làm thay đổi hệ sinh thái cảnh quan, làm tăng cường hoặc suy giảm chất lượng cảnh quan. Có thể thấy rằng yếu tố động lực lớn nhất có tính quyết định đến sự biến đổi của cảnh quan chính là các hoạt động khai thác lãnh thổ của con người. Chính vì thế nghiên cứu động lực cảnh quan không chỉ làm rõ thực trạng thay đổi, phân hoá cảnh quan do các tác động tự nhiên mà còn phân tích sự thay đổi phân hoá cảnh quan do nhân tác và cho phép chúng ta lựa chọn các phương án sử dụng phù hợp nhất đối với các tiềm năng tự nhiên của lãnh thổ.

Lãnh thổ Quảng Bình mang đặc điểm động lực chung của cảnh quan nhiệt đới, gió mùa ẩm. Địa hình đồi núi phía tây, đồng bằng ở giữa và dải cồn cát ven biển cùng với dòng chảy, những tác động bất thường của bão, lũ lụt... cũng đã làm cho cảnh quan Quảng Bình có sự thay đổi và phát triển phức tạp hơn. Đặc biệt là những hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, du lịch, xây dựng...đã tác động rất lớn đến thổ nhưỡng, thuỷ văn, rừng, thảm thực vật vật hình thành nên cảnh quan hiện tại. Có thể tạo nên xu hướng tích cực như trồng và bảo vệ rừng, giữ đất, chống xói mòn, rửa trôi... hoặc xu hướng tiêu cực như khai thác quá mức, chặt phá rừng,...trong quá trình phát triển làm thoái hoá cảnh quan. Nghiên cứu động lực cảnh quan Quảng Bình chính là xem xét đến các yếu tố tác động đó, làm rõ xu hướng phát triển của cảnh quan nhằm đưa ra các phương án sử dụng hợp lý nguồn TNTN và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.



1.2.2.3. Đánh giá cảnh quan

Đánh giá Cảnh quan là một khâu quan trọng trong nghiên cứu địa lý ứng dụng nhằm mục đích phục vụ sử dụng hợp lý lãnh thổ, tức là giúp các nhà quản lý hoạch định, tổ chức sản xuất phù hợp với chức năng của từng cảnh quan và đảm bảo phát triển bền vững lãnh thổ.

Bản chất của công tác đánh giá cảnh quan là xác định mức độ thuận lợi của cảnh quan cho các mục đích sử dụng khác nhau. Mỗi loại hình sử dụng có một yêu cầu nhất định đối với cảnh quan, đánh giá cảnh quan được thực hiện trên cơ sở đối chiếu, so sánh mức độ thuận lợi của cảnh quan đối với từng loại hình sử dụng. Thực chất là đánh giá tổng hợp các tổng thể tự nhiên cho mục đích cụ thể nào đó như: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, du lịch, công nghiệp, xây dựng...

Đánh giá cảnh quan cũng như nhiều lĩnh vực khoa học khác phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ đánh giá thành phần đến đánh giá tổng hợp. Phương pháp đánh giá cảnh quan thực chất đã được xem xét từ những năm 70 của thế kỷ XX ở những khía cạnh khác nhau như: thích nghi sinh thái (mức độ thuận lợi), hiệu quả kinh tế, ảnh hưởng của môi trường và ảnh hưởng của xã hội; Năm 1973 Mukhina đã đưa ra phương pháp và nguyên tắc đánh giá kỹ thuật các tổng hợp thể tự nhiên. Trong vài thập kỷ gần đây để đáp ứng với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội các vùng lãnh thổ, công tác đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN cho các mục đích cụ thể ngày càng phổ biến và đạt được nhiều kết quả to lớn. Trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu của các nhà địa lý tổng hợp tham gia vào quy hoạch các cùng lãnh thổ Liên Xô (cũ) như Cộng hoà Ucraina, Liên bang Nga, ...các nước Tây Âu, Bắc Mỹ. Các công trình có ý nghĩa thực tiễn lớn và đồng thời đã xây dựng phương pháp luận, nguyên tắc, phương pháp đánh giá cảnh quan thiết lập nên một khoa học độc lập có đối tượng, chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu riêng đó là Đánh giá tổng hợp ĐKTN và TNTN cho các mục đích thực tiễn [25, 26].

Phương pháp đánh giá mức độ thuận lợi hay còn gọi là đánh giá tiềm năng sản xuất các địa tổng thể của Mukhina (1973) là phương pháp đánh giá truyền thống, đặc trưng của địa lý tự nhiên ứng dụng. Hiện nay ngoài các phương pháp đánh giá cảnh quan truyền thống còn có các phương pháp hỗ trợ như: Phương pháp đánh giá đất của FAO (1976, 1981), đánh giá đất tự động (sử dụng phần mềm ALES), hệ thống thông tin địa lý (Công nghệ GIS), phân tích các nhân tố…[45, 75,77].

Ở nước ta từ những năm 80, 90 trở lại đây các công trình nghiên cứu cảnh quan cũng đã tập trung vào những vấn đề đánh giá tổng hợp tiềm năng tự nhiên, TNTN ở các vùng và các địa phương nhằm mục đích tìm ra các giải pháp để sử dụng hợp lý nguồn TNTN và bảo vệ môi trường phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Có thể kể đến các công trình đánh giá đất FAO (1993), Trần An Phong (1993), Nguyễn Đình Kỳ, Nguyễn Anh Hoành (2004) ; Các công trình nghiên cứu về phương pháp luận và đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN của các nhà khoa học : Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997) ; Nguyễn Thị Kim Chương (2001), Nguyễn Viết Thịnh (2002), Lại Vĩnh Cẩm, Trần Xuân Ý, Nguyễn Xuân Độ (2003) ; Nguyễn Cao Huần, Nguyễn An Thịnh, Phạm Quang Tuấn (2004), Trương Quang Hải (2004)...và rất nhiều luận án, luận văn đã thực hiện nghiên cứu, đánh giá cảnh quan ở từng lãnh thổ cụ thể [25, 28, 33, 45].



Trên cơ sở kết quả của phân tích cảnh quan, hệ thống phân loại và bản đồ cảnh quan, quá trình đánh giá tổng hợp gồm lý thuyết đánh giá chung và các thủ pháp tiến hành. Trong phần lý luận chung làm cơ sở để thực hiện đánh giá phải xác định rõ mục đích, đối tượng, nội dung và lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp, chỉ tiêu đầy đủ, hợp lý. Việc xác định đối tượng, mục đích đánh giá là hết sức quan trọng và phức tạp nó quyết định đến mức độ khái quát hoặc chi tiết của công tác đánh giá, tỷ lệ bản đồ, hệ thống các cấp phân loại cảnh quan. Ngược lại việc lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp, chỉ tiêu đầy đủ, hợp lý thì sẽ cho kết quả đánh giá chính xác và có ý nghĩa thực tiễn cao hơn.

Đối tượng đánh giá là tính đặc thù của các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các đặc điểm về cấu trúc, chức năng của các đơn vị tự nhiên, các quá trình, hiện tượng tự nhiên trong mối quan hệ tổng hoà, tác động qua lại lẫn nhau giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế xã hội. Như vậy, đối tượng đánh giá không phải là một hợp phần tự nhiên, một cá thể, một thể tổng hợp tự nhiên riêng lẻ mà là một hệ thống tự nhiên gồm nhiều yếu tố thành phần và giữa chúng có mối quan hệ, tác động tương hỗ lẫn nhau. Việc xác định đối tượng đánh giá dựa trên các mối quan hệ tự nhiên-xã hội là cơ sở khoa học quan trọng trong đánh giá cảnh quan cho mục đích ứng dụng.

Mục tiêu của việc đánh giá cảnh quan là đưa ra những kết luận tương đối chính xác, làm cơ sở khoa học cho việc bố trí các ngành sản xuất kinh tế phù hợp với từng vùng lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Trong từng vùng lãnh thổ cảnh quan có sự phân hoá đa dạng, phức tạp và mức độ sử dụng chúng cho các mục đích kinh tế cũng khác nhau. Ở mỗi đơn vị cảnh quan với những đặc điểm riêng biệt thì chúng có thể thích hợp, ít thích hợp hoặc không thích hợp đối với từng mục đích sử dụng, vì vậy thông qua việc đánh giá cảnh quan để tìm ra các biện pháp tối ưu cho việc sử dụng TNTN của lãnh thổ.

Nguyên tắc chung của đánh giá cảnh quan là thông qua đặc điểm, tính chất của chủ thể (các ngành sản xuất dự định bố trí, phát triển trên từng cảnh quan) và tương ứng là các đặc tính thành phần của khách thể (đặc điểm cảnh quan luôn thay đổi theo không gian và thời gian) để xác định mức độ thích hợp của các cảnh quan cho từng ngành sản xuất kinh tế riêng biệt. Chính việc đánh giá tổng hợp cảnh quan cho phép chúng ta tiếp cận gần nhất với thực tiễn sử dụng hợp lý TNTN và bảo vệ môi trường.

Phương pháp đánh giá cảnh quan gồm hệ thống các phương pháp đa dạng, phức tạp. Tuỳ thuộc vào mục đích cụ thể của việc đánh giá đối với từng lãnh thổ để lựa chọn phương pháp thích hợp. Trên quan điểm tiếp cận địa lý tổng hợp trong đánh giá cảnh quan có thể sử dụng các phương pháp mô hình hoá, phương pháp bản đồ, phân tích tổng hợp, so sánh định tính, thang điểm có trọng số. Trong quá trình đánh giá có thể sử dụng riêng lẻ các phương pháp hoặc kết hợp với nhau tuỳ theo từng giai đoạn và mục tiêu cụ thể.

Do độ phức tạp của công tác đánh giá nên không thể tồn tại một kiểu đánh giá chung mà các giai đoạn đánh giá theo yêu cầu với cấp độ từ thấp đến cao. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn đánh giá chung hay đánh giá sơ bộ, còn gọi là đánh giá thích nghi, là đánh giá dựa trên kết quả nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên theo các vùng lãnh thổ mang tính định hướng chung cho các mục đích thực tiễn khác nhau, đánh giá mức độ “thuận lợi ” hay mức độ “thích hợp ” của cảnh quan hoặc các hợp phần của chúng đối với một dạng hoạt động kinh tế nào đó. Ở mức độ cao hơn là đánh giá kinh tế, đây là hình thức đánh giá sâu hơn về giá trị và hiệu quả kinh tế của các ngành sản xuất. Mỗi kiểu đánh giá có những đặc trưng riêng nên đòi hỏi lựa chọn các phương pháp phù hợp, kiểu đánh giá phổ biến nhất trong nghiên cứu địa lý tổng hợp những thập kỷ gần đây là kiểu đánh giá thích nghi hay còn gọi là đánh giá mức độ thuận lợi của cảnh quan cho các mục đích phát triển các ngành sản xuất, đây là giai đoạn đánh giá trước đánh giá kinh tế, làm cơ sở khoa học quan trọng để tiếp tục đánh giá kinh tế - kỹ thuật và là cơ sở để xây dựng các luận chứng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đối với từng lãnh thổ riêng biệt [25, 26, 45].

Qua việc tìm hiểu một số mô hình đánh giá tổng hợp ĐKTN và TNTN cho các vùng lãnh thổ khác nhau của Mukhina, Marinhich A.M, Sisenko P.G và nhiều người khác, trên cơ sở mô hình của tác giả Phạm Hoàng Hải trong đánh giá cảnh quan nhằm sử dụng hợp lý TNTN và BVMT lãnh thổ Việt nam thì nội dung của đánh giá cảnh quan có thể tóm tắt trong sơ đồ sau đây :


Đặc trưng của các đơn vị

tổng hợp thể tự nhiên (cảnh quan)

lãnh thổ


Đặc điểm, tính chất của các đối tượng sản xuất kinh tế cụ thể dự kiến bố trí trên lãnh thổ








tải về 1.44 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương