Luận Giải Kinh Chánh Tri Kiến



tải về 2.55 Mb.
trang6/22
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích2.55 Mb.
#1510
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22

Ly gián bằng thân. (1)

Tương truyền: Trong thời Đức Phật Kassapa (Ca Diếp), có hai Tỳkhưu rất thân với nhau.

Vào thời Giáo pháp của Đức Phật Kassapa, mỗi sáu tháng chư Tỳkhưu hành lễ Bốtát (uposatha) với nhau. Bấy giờ, hai vị Tỳkhưu ấy cùng nhau đi đến nơi hội của chư Tăng để hành lễ Bốtát.

Một vị chư thiên cõi trời Tam thập tam thấy hai vị Tỳkhưu thân mến nhau như anh em ruột, khởi lên ý nghĩ “có thể nào chia rẽ được hai vị Tỳkhưu này không?”

Nhân lúc một vị tách ra đi vệ sinh, vị chư thiên hóa ra một phụ nữ từ bụi cây, nơi vị Tỳkhưu đang vệ sinh đi ra, nữ nhân này y phục xốc xếch, một tay vuốt tóc, một tay sửa lại y phục. Vị chư thiên dùng thần lực không cho vị đang làm vệ sinh thấy, chỉ cho vị bên ngoài thấy mà thôi.

Thấy nữ nhân trong hiện cảnh như thế, vị Tỳkhưu đứng đợi cho rằng vị Tỳkhưu đi vệ sinh đã phạm giới, khi thấy vị Tỳkhưu kia đi ra, liền nói rằng:

- Này Hiền giả! Hiền giả đã phạm giới.

- Thưa Hiền giả! Tôi không có vi phạm giới.

- Chính tôi trông thấy một nữ nhân từ bụi cây đi ra, với y phục xốc xếch, một tay vuốt tóc, một tay sửa lại y phục.

Rồi mặc cho vị kia phân trần, vị Tỳkhưu ấy rẽ sang lối khác, cương quyết không đi chung với “người phạm giới”.

Về đến Giảng đường khi hành lễ Bốtát (uposatha), vị Tỳkhưu ấy cương quyết không hành Bốtát với vị “phạm giới”.

Vị chư thiên suy nghĩ: “Ta đã làm một ác trọng nghiệp, đã chia rẽ hai vị Tỳkhưu này”.

Vị chư thiên hiện ra, tỏ bày câu chuyện và xin sám hối hai vị Tỳkhưu. Hai vị Tỳkhưu tuy hành Bốtát chung, nhưng từ đó không còn thân thiện như xưa nữa.

Mệnh chung, hai vị Tỳkhưu sanh về thiên giới, còn vị chư thiên rơi vào địa ngục, chịu khổ suốt một thời gian giữa hai vị phật (từ thời Đức Phật Kassapa đến đời Phật hiện tại).

Vào thời Đức Phật hiện tại, vị chư thiên tái sinh trong thành Sāvatthī, nhờ nghe pháp, vị nam tử này xin xuất gia, có tên là Kuṇḍadhāna.

Từ khi Ngài Kuṇḍadhāna thọ giới Tỳkhưu, Ngài đi bất cứ nơi đâu cũng có bóng nữ nhân đi theo phía sau, Ngài không thấy nhưng mọi người thấy.

Về sau, nhờ vua Pasenadi (Batưnặc) xác minh “đó là ảo ảnh”, và cung thỉnh Ngài đến Hoàng cung thọ thực.

Trước đây, Ngài Kuṇḍadhāna luôn im lặng trước lời chế nhạo “kẻ đê tiện” của chư Tỳkhưu. Từ khi được Đức vua Pasenadi xác minh “nữ nhân theo sau là ảo ảnh”, khi bị chư Tỳkhưu gọi là “kẻ đê tiện”, Ngài trả đủa lại chư Tỳkhưu rằng “chính các ngươi mới là đồ đê tiện”.

Chư Tỳkhưu trình lên Đức Thế Tôn, Ngài dạy rằng:

- Này Tỳkhưu, chư Tỳkhưu thấy nữ nhân theo sau lưng ngươi nên họ gọi ngươi là “kẻ đê tiện”. Còn ngươi, ngươi có thấy các Tỳkhưu đê tiện không?

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

- Này Tỳkhưu, đây là một nghiệp đê tiện của ngươi đã làm trong quá khứ. Vì sao, nay ngươi lại có thái độ sai lầm nữa?.

Theo lời thỉnh cầu của chư Tỳkhưu, Đức Phật thuật lại tiền nghiệp của Trưởng lão Kuṇḍadhāna, rồi Ngài dạy kệ ngôn:

M’ āvoca pharusaṃ kañci. Vuttā paṭivadeyya taṃ

Dukkhā hi sāranabha kathā. Paṭidanḍā phusseyya taṃ.

Không nên dùng lời cộc cằn thô lỗ. Người bị nói cộc sẽ trả lời thô. Những lời gây thù trả oán quả thật là đau đớn. Lời qua tiếng lại sẽ làm tổn hại như gây thương tích.”

Sace uresu attānaṃ. Kaṃso upahato yathā

Esa patto’si nibhānaṃ. Sārambho te na vijjati.

Nếu giữ được im lặng như cái mỏ bể, con đã đắc Nípbàn. Con không có tâm báo oán. (1)

Nghe xong kệ ngôn Ngài Kuṇḍadhāna chứng quả Alahán, từ đó nữ nhân ảo ảnh không còn. Và Ngài được Đức Phật ban cho địa vị “vị nhận phiếu thực đầu tiên”.

3- Lời thô ngữ (pharusa vācā).

a- Giải từ.

Pharusa là thô lỗ, cộc cằn, không êm tai.

Lời nào không êm tai, thô lỗ, tục tằn, khiến người nghe khó chịu, gọi là pharusa vācā (lời thô ác).

Có những lời nói khi thoáng nghe, ngỡ là ác ngữ, nhưng thật ra không phải, vì lời nói ấy không xuất phát từ sự nóng giận hay ác ý, đó là sự nói theo thói quen, như cha mẹ mắng (yêu) con, thầy mắng (thương yêu) trò, bạn thân mắng (đùa) nhau...

Trưởng lão Pilindavaccha là bậc Alahán, Ngài thường gọi các bậc đồng phạm hạnh là “đồ bần tiện”. Chư Tỳkhưu trình lên Đức Phật, sau khi quán xét, Đức Phật dạy:

- Này chư Tỳkhưu, Tỳkhưu Pilindavaccha gọi theo thói quen, không phải do ý ác. Vì trong tiền kiếp Tỳkhưu Pilindavaccha đã từng 500 kiếp sanh vào dòng Bàlamôn cao quý, nên thường gọi người khác là “đồ bần tiện”.(1)

Hay có câu chuyện sau đây:

Có đứa con thường hay cải lời mẹ, trốn vào rừng chơi, bà mẹ cản không được, bực tức rủa: “vái cho trâu rừng rượt mầy”.

Đứa bé vào rừng chơi, bị trâu rừng rượt thật. Trong lúc hốt hoảng, cậu ta khấn rằng: “Nếu mẹ tôi có ý hại tôi thì trâu rừng hãy húc tôi, còn như mẹ tôi không có ý hại tôi, xin hãy thành tựu như ý bà”. Bấy giờ, con trâu dừng lại ngay, giống như bị cột lại.

b- Thô ngữ có ba chi:

- Đối tượng bị mắng chưỡi (akkosi tabboparo).

- Tâm nóng giận, bực tức (kappitacittaṃ).

- Đã mắng chưỡi (akkosanā).

Thực hiện thô ngữ do thân cũng có, do lời cũng có.

Thực hiện thô ngữ do thân: Là làm những điệu bộ, cử chỉ để mắng chưỡi người hay viết thư mắng người. Hoặc “cười mỉa mai”, “cười khinh bỉ” cũng là ác ngữ từ thân.

Thô ngữ bằng lời, điều này dễ hiểu.



c- Quả của thô ngữ.

Thô ngữ làm thường xuyên sẽ dẫn xuống khổ cảnh, may mắn được làm người sẽ là người nghe những điều không đáng hài lòng.

“Pharusā, bhikkhave, vācā āsevitā bhāvitā bahulīkatā nirayasaṃvattanikā tiracchānayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattanikā.

Yo sabbalahuso pisuṇāya vācāya vipāko, manussabhūtassa amanāpasaddasaṃvattaniko hoti.

Này các Tỳkhưu, nói ác khẩu, được thực hiện, được tiến hành, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ.

Quả dị thục rất là nhẹ của nói ác khẩu là được làm người, và được nghe những tiếng không khả ý.” (sđd- A.iv, 247).

Ác ngữ có tội nhẹ nếu đối tượng là người kém giới đức, sẽ có tội nặng khi đối tượng là bậc có giới đức cao.

Bà Ampapālī trong tiền kiếp mắng chưỡi vị Tỳkhưu ni Alahán “là kỹ nữ”, nên kiếp này bà phải làm kỹ nữ, từ khi nghe Pháp của Đức Thế Tôn, bà chứng quả Dự lưu, không còn hành nghề kỹ nữ.

Về sau bà xuất gia Tỳkhưu ni, khi nghe Trưởng lão Vimalakoṇḍañña (con của bà) thuyết pháp, bà triển khai thiền quán chứng quả Alahán Tam minh (1).

Bồtát trong quá khứ nói thô ngữ đối với Đức Phật Độc giác: “Ông Sa môn này chỉ xứng đáng ăn gạo sālī đỏ dành cho ngựa”.

Vào hạ thứ 12, Đức Phật an cư mùa mưa tại xứ Verañja, Ngài phải ăn gạo đỏ sālī dành cho ngựa.(2)

Một cung nữ trong quá khứ giả dạng gù lưng để chế nhạo thân của vị Phật Độc Giác với mục đích vui đùa, trong kiếp hiện tại nàng là Khujjuttarā gù lưng.(3).

4- Lời vô ích – samphapalāpa.

a- Giải từ.

Phân tích từ samphapalāpa gồm sampha + palāpa.



Sampha là “hủy diệt lợi ích, hủy diệt an lạc”, palāpa là “lời nói”.

Những lời phù phiếm, những câu chuyện linh tinh, những lời tán gẫu không có mục đích được xem là lời vô ích.

Lại nữa, lời vô ích là lời không có căn cứ, là lời bàn tán, suy luận một việc không hề xẩy ra, như bàn luận rằng: “Nếu như mọi người đều xuất gia thì có còn loài người không?...”

Sự kiện mọi người đều xuất gia không hề xẩy ra, vì rằng: “Thế gian phần lớn rơi vào dục tham, thích thọ dụng năm dục hơn là có khuynh hướng từ bỏ năm dục”.

Phần đông đều cho rằng: “Những câu chuyện vui đùa, không làm hại ai thì không có ác quả”.

Thật ra, khi đàm luận những câu chuyện không có mục đích, không mang đến lợi ích, đồng nghĩa tạo điều kiện cho phóng dật (uddhacca) sinh khởi, một khi có phóng dật thì bất thiện tâm sinh khởi. Ví như khu vườn không có cây lợi ích thì cỏ dại sẽ mọc lên.

Do đó, Đức Phật có dạy:

“Dvinnaṃ vo bhikkhave sannipatitānaṃ dvayaṃ karaṇīyaṃ dhammī vā kathā tuṇhībhāvo vā”

Này các Tỳkhưu, khi hai vị Tỳkhưu hội hợp với nhau, có hai việc là: bàn luận pháp hoặc im lặng bậc thánh (là an trú trong đề mục thiền tịnh- Ns)”.

Và:


“Nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekadhammampi samanupassāmi yena anupannā vā akusalādhammā uppajjhanti uppannā vā kusālādhammā parihāyanti yathayidaṃ, bhikkhave, pamādo.

Này các Tỳkhưu, ta không thấy một pháp nào khác, do pháp ấy, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh được đoạn tận, này các Tỳkhưu như phóng dật” (1).

Ngoài ra, lời vô ích còn hàm ý “bàn luận những vấn đề không có thực”, những vấn đề do tưởng tượng tạo ra, rồi tìm hiểu những ảo tưởng, ảo kiến ấy.

Ngài Mahā Koṭṭhita có thưa với Đức Sāriputta (Xálợiphất):

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ, asesavirāganirodhā atthaññaṃ kiñcī’ti?

- Māhevaṃ, āvuso.

Thưa hiền giả, sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ (channaṃ passāyatanaṃ) không có dư tàn, có còn một cái gì khác nữa?

- Chớ có nói như vậy, thưa hiền giả.

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ asesavirāganirodhā natthaññaṃ kiñcī’ti?

- Māhevaṃ, āvuso.

Thưa hiền giả, sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không có dư tàn, không còn một cái gì khác nữa.



- Chớ có nói như vậy, thưa hiền giả.

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ asesavirāganirodhā nevatthi no natthaññaṃ kiñcī’ti?

- Māhevaṃ, āvuso.

Thưa hiền giả, sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không có dư tàn, còn có và không còn có một cái gì khác nữa.



- Chớ có nói như vậy, thưa hiền giả.

Và Đức Mahā Koṭṭhita có hỏi Đức Xálợiphất, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này như thế nào? Đức Xálợiphất đáp:

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ, asesavirāganirodhā atthaññaṃ kiñcī’ti, hi vadaṃ appapañcaṃ papañceti.

- Thưa hiền giả, “sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không còn dư tàn, còn có một cái gì khác nữa”, nói như vậy là khiến trở thành hý luận một vấn đề không phải hý luận (vadaṃ appañcaṃ pāpañceti).

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ, asesavirāganirodhā natthaññaṃ kiñcī’ti, hi vadaṃ appapañcaṃ papañceti.

Sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không còn dư tàn, không còn cái gì khác nữa”, nói như vậy là khiến trở thành hý luận một vấn đề không phải hý luận.

“Channaṃ, āvuso, phassāyatanānaṃ, asesavirāganirodhā nevatthi no natthaññaṃ kiñcī’ti, hi vadaṃ appapañcaṃ papañceti.

Thưa hiền giả, sau khi đoạn diệt, ly tham sáu xúc xứ không có dư tàn, còn có và không còn có một cái gì khác nữa, nói như vậy là khiến trở thành hý luận một vấn đề không phải hý luận (2).

Thuật ngữ papañca có rất nhiều nghĩa như: Khái niệm, ảo thuyết, không tưởng”.

Hai Ngài vấn đáp nhau để chư Tỳkhưu học tập, Ngài Mahā Kotthita nêu ra câu hỏi thuộc dạng “suy luận, tưởng tượng ra” một vấn đề không nên suy tưởng và bàn luận.

Vì rằng: Sáu xứ là thế gian (loka), mà thế gian thì không thể bàn luận cho hết (loka acinteyya), sáu xứ cần phải hiểu rõ theo thực tại, không phải hiểu qua suy luận.

Sáu xúc xứ là quả của danh sắc, bao giờ còn danh sắc thì còn sáu xúc xứ.

Sáu xúc xứ do duyên sinh, khi không có nhân duyên sinh khởi thì chúng không hiện khởi, khi nhân duyên diệt thì chúng diệt.

Khi vị Thánh Alahán viên tịch (parinibbāna), vì không còn nhân duyên nên danh sắc mới không sinh lên, danh sắc cũ đã hết nhân duyên nên diệt. Ví như ánh sáng ngọn đèn đang cháy, khi hết nhiên liệu thì ngọn lửa tắt, ngọn lửa tắt thì ánh sáng cũng tắt, không thể nói ánh sáng tắt còn “một cái gì” hay “ánh sáng mất”.

Nếu cho ánh sáng còn, thì nó đi về đâu? Hướng Đông, hướng Tây, hướng Nam, hướng Bắc, hướng trên hay hướng dưới? Không thể biết được, đã không biết ánh sáng đi về hướng nào, thì vì sao biết là “còn”?.

Nếu cho ánh sáng mất, khi nhiên liệu tái khởi (ví như có nhân duyên mới) ngọn lửa khởi lên, ánh sáng không thể hiện ra (vì đã mất), điều này vô lý.

Câu thứ ba: “Nói còn có và không còn có”, nghĩa là “có phần tồn tại, có phần không tồn tại”. Vậy cái gì tồn tại, cái gì không tồn tại? Không biết được. Đã không biết được cái gì tồn tại, cái gì không tồn tại, thì “nói có phần tồn tại, có phần không tồn tại, có hợp lý không?”.

Chính xác phải nói: Khi hết nhân duyên thì danh sắc không sinh, danh sắc không sinh thì sáu xứ không hiện khởi.

Do đó, vị Thánh Alahán viên tịch, cho rằng “còn một cái gì khác” xem như rơi vào thường kiến, cho rằng “không còn cái gì khác” là rơi vào đoạn kiến (vì cho rằng “trước đó có một cái gì đó, nay “cái đó” diệt mất).



b- Lời vô ích có hai chi:

- Hướng tâm nói lời vô ích (niratthakathāpurakkhāro).

- Đã nói lời vô ích (tathārūpīkathākathanaṃ).

c- Quả của vô ích ngữ.

“Samphappalāpo, bhikkhave, āsevitā bhāvitā bahulīkatā nirayasaṃvattanikā tiracchānayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattanikā.

Yo sabbalahuso pisuṇāya vācāya vipāko, manussabhūtassa anādeyyavācāsaṃvattaniko hoti.

Này các Tỳkhưu, nói phù phiếm, được thực hiện, được tiến hành, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ.



Quả dị thục rất là nhẹ của nói phù phiếm là được làm người, và được nghe những lời khó chấp nhận”.(sđd – A.iv, 247)

Tóm lại, quả của 7 bất thiện nghiệp.

Cả bảy điều trên (ba ác nghiệp về thân, bốn ác nghiệp về ngữ) nếu thường thực hiện, làm cho sung mãn, thường cho tái sinh về bốn khổ cảnh. Quả rất nhẹ là may mắn được sanh làm người thì:

- Sát sanh, sẽ cho làm người có tuổi thọ ngắn.

- Lấy của không cho, sẽ cho làm người với sự tổn hại tài sản (bhogayasana samvattanika).

Tài sản bị tổn hại do nước, do lửa, do trộm cắp, do bị vua quan chiếm đoạt và do kẻ thừa tự phá hoại.

- Tà dâm, sẽ cho làm người bị người khác oán thù.

- Nói dối, sẽ cho làm người bị vu cáo không đúng sự thật.

- Nói đâm thọc, sẽ cho làm người không có bạn bè.

- Nói ác, sẽ cho làm người, được nghe những tiếng không khả ý.

- Nói vô ích, sẽ cho làm người, được nghe những lời khó chấp nhận.



C- Ý bất thiện.

Tham đắm (abhijjhā), hiềm hận (byāpāda) và tà kiến (micchādiṭṭhi) là ý bất thiện.



1- Tham đắm – abhijjhā.

a- Giải từ.

Chữ abhijjhā = abhi (cao tột) + căn jhe . Căn jhe có nghĩa là: “nhìn bằng tâm”.

Theo nghĩa gốc abhijjhā là “nhìn bằng tâm cao tột”, nên abhijjhā được hiểu là tham đắm, đắm nhiễm.

Chăm chú vào tài sản của người khác và muốn nó thuộc về mình, gọi là tham đắm.



b- Tham đắm có hai chi:

- Vật của người (parabhaṇḍaṃ).

- Muốn nó thuộc về mình (attanopariṇāmanaṃ).

Tội ít hay tội nhiều của ý tham đắm cũng giống như trộm cắp, tức là tham vật có giá trị cao thì tội nặng, có giá trị ít thì tội nhẹ.

Tham đắm tài sản của người có giới đức kém, có tội nhẹ, của người có giới hạnh cao, có tội nặng.

Giữa tham và tham đắm có điểm giống nhau là: “muốn chiếm hữu tài sản”, điểm khác biệt là: “mãnh lực tham nhẹ hơn tham đắm”.

Tham đắm dẫn đến hành động trộm cắp, còn tham thì không, một người có thể có tham nhưng không rơi vào trộm cắp.

Một thợ rừng vào rừng tìm gỗ quý để đốn, chỉ có thể gọi y có tâm tham, không thể gọi y trộm cắp.

Một nông dân trồng lúa, y ước muốn trúng mùa, chỉ có thể gọi y có tâm tham không thể gọi y làm việc tội lỗi.

Tham (lobha) có hai loại:

- Tham theo pháp (dhammiyalobha).

- Tham không theo pháp (adhammiyalobha).

Tham theo pháp hay tham không theo pháp là nói theo lãnh vực thế gian (tức là lấy thế gian làm chủ), khi lấy pháp làm chủ thì cả hai đều không tốt, vì tham là căn bản của bất thiện pháp.

Tham nhưng không hành động tội lỗi, như người phật tử muốn sinh về thiên giới nên trì giới, bố thí... là tham theo pháp.

Tham thực hành theo ác pháp như: trộm cắp, tà hạnh trong dục... là tham không theo pháp. Abhijjhā là tham không theo pháp.

Làm duyên cho tham sinh khởi đó là “tướng tốt đẹp (subhanimittaṃ)” và “không như lý tác ý (ayoni so manasikāra)”.

“Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno vā rāgo uppajjati uppanno vā rāgo bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī ’ti?.

Subhanimittantissa vacanīyaṃ ca ayoniso manasikāra ca.

Do nhân gì, do duyên gì, này chư Hiền, tham chưa sinh được sinh khởi và tham sinh rồi đưa đến tăng trưởng lớn mạnh?

- Cần phải trả lời là “tướng tốt đẹp” “không như lý tác ý”.(1)

2-Thù oán (hay hiềm hận) – byāpāda

Gọi thù oán là ý nghĩa “muốn hủy hoại lợi ích, muốn hủy hoại an lạc của người khác”.

Sân (dosa) khác với thù oán.

Sân là trạng thái khó chịu, phẩn nộ nhưng không có ý làm tổn hại đến người khác, bậc thánh Dự lưu hay Nhất lai, tuy còn tâm sân nhưng không có sân ác vì các Ngài không có ý hại hay hủy hoại lợi ích của người.

Tội ít hay nhiều của sân ác giống như ác ngữ, tức là khởi ý hủy hoại lợi ích bậc có giới đức lớn thì tội nặng, hủy hoại lợi ích bậc kém giới đức thì tội ít.

Trong sớ giải kinh Pháp cú, có mẩu truyện:

Trong thời Đức Phật Kassapa, có một tên trộm chỉ vì có tâm hiềm hận với Trưởng giả Sumaṅgala, đã lén đốt ruộng của Trưởng giả bảy lần, chặt chân bò trong chuồng bảy lần, và lén đốt nhà Trường giả bảy lần.

Sau cùng, muốn làm cho Trưởng giả đau khổ, y đã đốt hương thất do Trưởng giả xây dựng cúng dường đến Đức Phật Kassapa. Mệnh chung, y bị rơi vào địa ngục Atỳ, quả dư sót phải tái sanh làm ngạ quỷ trăn (2).

Đức Phật có dạy:

Na paro paraṃ nikubbetha. Ñātimaññetha ketthacinaṃ kiñci

Byārosanā paṭighasaññā. Ñāññamaññassa dukkhamiccheyya.

Chúng sanh chẳng nên dọa hẩm làm hại chúng sanh khác, chẳng nên khinh bỉ (dù) chút ít kẻ khác bất cứ nơi đâu, chẳng nên muốn làm khổ lẫn nhau vì sự nóng giận hoặc bất bình là sự bực tức trong tâm.(1)

Thù oán có hai chi:

- Chúng sanh khác (parasatto).

- Có tâm hủy diệt (tassa taṃ vināsacintā).

Duyên khiến sân sinh khởi là “chướng ngại tướng (paṭighanimittaṃ)” và “không như lý tác ý (ayoni so manasikāra).”

“Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno vā doso uppajjati uppanno vā doso bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī ‘ ti?.

Paṭighanimittaṃ tissa vacanīyaṃ ca ayoniso manasikaara ca.

Do nhân gì, do duyên gì, này chư Hiền, sân chưa sinh được sinh khởi, sân đã sinh được tăng trưởng lớn mạnh?

Cần phải trả lời là chướng ngại tướng không như lý tác ý”. (sđd, A.i, 199).

3-Tà kiến (micchādiṭṭhi)

Là sự thấy sai, hiểu sai. Tà kiến là thấy, hiểu không đúng theo chân lý.

Tội nặng hay nhẹ của tà kiến giống như lời nói phù phiếm. Lại nữa, tà kiến ít có tội nhẹ, tà kiến nhiều có tội nặng (xem kinh Phạm võng - Trường bộ I).

Tà kiến có hai chi là:

- Nắm giữ điều sai với chân lý (atthaviparitatā) .

- Thấy là thật trong điều không thật (tatthābhāvupaṭṭhānaṃ).

Có hai duyên khiến tà kiến sinh khởi, đó là: Tiếng nói người khác và không như lý tác ý.

“Dveme, bhikkhave, micchādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve? Parato ca ghoso ayoniso ca manasikāro...

Có hai duyên, này các Tỳkhưu, khiến tà kiến sinh khởi. Thế nào là hai? Tiếng nói người khác và không như lý tác ý..”(2)

Phân tích mười bất thiện nghiệp.

Mười bất thiện nghiệp được phân tích theo năm khía cạnh.



1. Phân tích theo pháp (dhammato).

Bảy bất thiện nghiệp (ba thân nghiệp, bốn ngữ nghiệp) thuộc về thân - ngữ, do tâm sở Tư (cetanācetasika) điều sử.

Ba bất thiện nghiệp còn lại thuộc về ý, là những tâm sở Bất thiện đi chung với tâm sở Tư.

2. Phân tích theo nhóm (koṭṭhāsato).

Bảy bất thiện nghiệp đầu và ý tà kiến là bất thiện, nhưng không phải là căn (mūla: gốc rễ) bất thiện.

Ý tham đắm, ý hiềm hận là pháp bất thiện lẫn căn bất thiện, ý tham đắm là căn tham, ý hiềm hận là căn sân.

“Tiṇimāni bhikkhave, akusalamūlāni. Katamānitiṇi?

Lobho akusalamūlaṃ, doso akusalamūlaṃ, moho akusamūlaṃ.

Này các Tỳkhưu, có ba căn bản bất thiện này. Thế nào là ba?



Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất thiện”(1).

3. Phân tích theo đối tượng (arammaṇato).

- Sát sanh có đối tượng là chúng sinh, tức là lấy danh - sắc mạng quyền (jīvitindriya) làm đối tượng.

Một chúng sinh gọi là chết khi danh mạng quyền (tức tâm sở mạng quyền – jīvitindriyacetasika) bị hoại, như chúng sinh cõi Vô sắc, hoặc sắc mạng quyền (jīvitindriyarūpa) bị hoại, như chúng sinh cõi vô tưởng (asaññībhūmi), hoặc cả hai loại danh - sắc Mạng quyền đều bị hủy hoại, như chúng sinh cõi ngũ uẩn (cõi dục giới – cõi sắc giới có tâm thức).

Gọi là sát sinh khi hủy diệt hai loại mạng quyền này, và sự kiện này chỉ xảy ra từ cõi Tứ Đại vương trở xuống.

- Trộm cắp có đối tượng chúng sinh và vật không phải là chúng sinh.

Như trộm cắp những con vật quý của người hay bắt cóc người thân của ai đó, rồi đòi tiền chuộc (lấy bằng cách hăm dọa), hoặc trộm cắp vàng, ngọc...

- Làm sai trong dục lạc có đối tượng chúng sinh và do mảnh lực của xúc (phassa) làm duyên.

Một số Giáo thọ sư cho rằng: “Làm sai trong dục lạc” có đối tượng là chúng sinh lẫn phi chúng sinh, như hành dâm với tử thi ...

- Nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác có đối tượng là chúng sinh, do xúc làm duyên.

- Đối tượng của nói phù phiếm cũng là chúng sinh, nhưng có sự khác biệt với ba loại bất thiện ngữ ở trên là: Nói phù phiếm do tưởng làm duyên, nhớ lại sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đã nhận biết.

- Tham đắm có đối tượngchúng sinh lẫn vật phi chúng sinh, tương tự như trộm cắp.

- Hiềm hận có đối tượngchúng sinh.

- Tà kiến có đối tượng“pháp hành - saṅkhāradhamma”, là mãnh lực diễn tiến của các pháp hữu vi trong tam giới.



4- Phân tích theo cảm thọ (vedanāto).

Ở đây chỉ trình bày theo ba thọ: Lạc, khổ và xả, vì trong lạc thọ ngầm có hỷ thọ, trong khổ thọ ngầm có ưu thọ.

- Sát sanh chỉ có một loại thọ: Thọ khổ.

- Trộm cắp có đủ ba thọ: lạc, khổ, xả.

Có những trường hợp trộm cắp không do tham mà do sân hận, như “trộm cho bỏ ghét”...

Hoặc có những trường hợp “trộm cắp với tâm thản nhiên” như trường hợp người con thản nhiên lấy tiền bạc của cha mẹ mà không xin (xét về năm chi phần trộm cắp thì đủ cả năm).

- Làm sai trong dục lạc có hai thọ: lạc và xả.

- Nói dối có ba thọ: lạc, khổ, xả.

Nói dối có thọ lạc, như thích thú khi lừa gạt người và thấy người khác tin lời mình.

Nói dối có thọ khổ, như trường hợp sợ hãi nên nói dối.

Nói dối có thọ xả, như nói dối theo thói quen.

- Nói đâm thọc cũng có ba loại: khổ, lạc, xả.

Do hiềm hận nên nói lời đâm thọc để ly gián (là thọ khổ khi nói lời đâm thọc).

Thích thú được người khác thương, nên nói đâm thọc (là thọ lạc).

Thản nhiên với lời đâm thọc là thọ xả.

-Nói thô ác chỉ có một thọ là thọ khổ.

- Nói phù phiếm có ba thọ.

- Tham đắm và tà kiến có hai thọ: Lạc - xả.

- Hiềm hận có một thọ là thọ khổ.

5. Phân tích theo căn (mūlato).

Do mãnh lực dính mắc trong cảnh, gọi là căn tham.

Do mãnh lực khó chịu, nghịch ý, gọi là căn sân.

Do mãnh lực mê muội trong cảnh, gọi là căn si.

- Sát sanh do tâm sân điều khiển nên có hai căn là sân – si.

- Trộm cắp do tâm tham điều sử, có hai căn là tham – si.

Trộm cắp do tâm sân điều sử, có hai căn là sân – si.

- Tà dâm chỉ do tâm tham điều sử, nên có hai căn là tham – si.

- Nói dối do tâm tham điều sử, có hai căn là tham – si.

Nói dối do tâm sân điều sử, có hai căn là sân – si.

- Nói đâm thọc, nói phù phiếm tương tự như nói dối.

- Nói thô ác chỉ do tâm sân điều sử nên có hai căn là sân, si.

- Tham đắm chỉ có một căn là căn si, vì tham chính nó là căn bất thiện, nó không thể đi chung với chính nó.

Trong tâm tham có hai căn là tham và si, nên tham đắm có một căn là căn si.

- Tương tự như thế với hiềm hận, vì hiềm hận chính là căn sân, nên hiềm hận có một căn là căn si.

- Tà kiến chỉ có ở trong tâm tham, nên tà kiến có hai căn là tham, si.

B- Trí hiểu rõ về Thiện và căn bản của thiện.

Từ bỏ sát sanh là thiện (pāṇātipātā veramaṇī kusalaṃ).

Chữ veramaṇī, chữ vera có nghĩa là: sự thù nghịch, sự chống lại, veramaṇī nghĩa đen của từ ngữ là “có ý chống lại”, nghĩa mở rộng là “kiêng cữ, tránh ra, từ bỏ”, đồng nghĩa với veramaṇī là virati. .

Các Giáo thọ sư có giải thích veramaṇī là “cố ý (cetanā) làm hư hoại tội lỗi, cố ý xua đuổi xấu xa”, như:

Veraṃ manati = viramaṇī: (cố ý ) xua đuổi tội lỗi, gọi là viramaṇī.

Hay : “Làm cho không còn tội lỗi, gọi là viramaṇī”..

Theo văn phạm Pāli thuộc ngôn ngữ xứ Magadha, thì viramaṇī biến đổi thành veramaṇī, có lẽ đây là một hình thức đọc trại âm thường thấy.

Vì thế có người tụng cả hai, tức là veramaṇī sikkhāpadaṃ hay viramaṇī sikkhāpadaṃ (nghĩa là: Theo điều học là cố ý lánh xa).

Tóm lại, veramaṇī (hay viramaṇī) là một từ khác chỉ chi cetanā.

Cetanā này được đặt tên trên nền tảng tác ý (manasikāra), nếu tác ý đúng (yoni so manasikāra) thì cetanā này sẽ lánh xa ác xấu, từ bỏ ác xấu, tiêu diệt ác xấu. Nếu tác ý không đúng (ayoni so manasikāra) thì cetanā sẽ tạo ra ác xấu, tội lỗi.



Tác ý đúng sinh khởi cetanā tốt, tác ý sai sinh khởi cetanā xấu, tác ý đúng hay sai này nằm trong tâm Hướng ý môn (manodvāravajjanacitta).

Chính tâm Hướng ý môn làm duyên cho loại tâm đổng lực (javanacitta) thiện hoặc tâm đổng lực bất thiện sinh lên (1) (ở đây không đề cập đến những đổng lực duy tác của bậc Alahán).

Lại nữa, “cố ý tránh xa tội lỗi, ác xấu” hàm ý dựa vào hai tâm sở “hổ thẹn tội lỗi (hiri) và ghê sợ tội lỗi (ottappa)”. Chính hai pháp này giúp cho cetanā (cố ý) có nhiều sức mạnh, không tạo ra bất thiện nghiệp, hay ác nghiệp.

Ba loại kiêng tránh (virati).

Bất cứ một loại kiêng tránh nào, cũng phải đối điện với ác xấu, tội lỗi, ví như Thánh đạo phải có Nípbàn làm đối tượng (cảnh) mới diệt trừ phiền não.

Đối diện với tội lỗi, tâm không rơi vào tội lỗi mới gọi là kiêng tránh, còn không gặp tội lỗi nên tâm không rơi vào ác xấu đó là lẽ đương nhiên.

Như “không gặp vật quí nên không có tâm lấy trộm đó là lẽ đương nhiên, gặp vật quí của người nhưng không có ý lấy trộm, đó là kiêng tránh”.

Không có cơ hội gặp người khác, thì không thể rơi vào 4 ngữ ác là việc thường tình, khi gặp người mà không nói nhãm, không nói dối... Đó là sự kiêng tránh.

Và từ điểm này chúng ta mới thấy “lợi ích của sự sống nơi thanh vắng”, như lời Bậc Đạo sư thường dạy.



a. Kiêng tránh do thói quen (sampattavirati).

Chữ sampatta là quá khứ phân từ của động từ sampāpuṇāti (saṃ + pa + ap + uṇā).

Động từ sampāpuṇāti nghĩa là “đến nơi, gặp được”, nên sampatta nghĩa là “đã đến nơi, đã gặp được”.

Từ ý nghĩa của sampatta, có thể hiểu sự kiêng tránh này đã từng làm, đã từng thực hiện và đã trở thành thói quen..

Một người có thói quen không làm điều ác - bất thiện, khi đối diện với ác - bất thiện sẽ không vi phạm vào ác - bất thiện.

Như Trưởng lão MahāKassapa khi còn là thanh niên có tên Pippali không muốn lập gia đình, vì trong tiền kiếp nhiều lần tu tập thiền tịnh, nên tâm thường hướng về ly dục, nhưng cha mẹ ép nài chàng phải cưới vợ.

Để làm vui lòng cha mẹ, chàng làm một tượng thiếu nữ rất xinh đẹp, cho tượng mặc áo đỏ và đeo những vật trang sức, nói với cha mẹ rằng: “Nếu tìm được thiếu nữ nào như vầy, con sẽ lấy nàng làm vợ”.

Mẹ chàng cho các Bàlamôn mang pho tượng đi khắp nơi để tìm người giống như thế.

Ở Sāgala có nàng Bhaddā giống hệt pho tượng mà thanh niên Pippali làm ra, các Bàlamôn đã tìm thấy nàng Bhaddā.

Cũng như thanh niên Pippali, nàng Bhaddā không muốn có chồng, cả hai viết thư cho nhau nói rõ ý niệm của mình.

Hai người đưa thư, gặp nhau giữa đường, đưa thư cho nhau coi, rồi đồng tình tráo thư với nội dung ngược lại.

Do vậy, đám cưới được cử hành, nhưng đêm tân hôn, hai người nằm cách nhau một vòng hoa. Khi cha mẹ mệnh chung, hai người quyết định xuất gia.

Sở dĩ có hiện tượng trên là vì hai vị đã từng sống đời phạm hạnh bên nhau rất nhiều kiếp, nên nay tuy phải làm đám cưới, nhưng hai vị vẫn giữ được sự trong sạch phạm hạnh.(1)

(Một ô nhiễm trong dục lạc như vầy còn không có, thì nói gì đến sự vi phạm giới tà dâm nhỉ?) .

Bản Sớ giải kinh Chánh tri kiến(2) có nêu câu chuyện khác, tóm lược như sau:

Bồtát Cakkana.

Bồtát khi còn lăn trôi trong luân hồi, có một kiếp Ngài có tên là Cakkana, mẹ của Ngài bịnh nặng, thầy thuốc bảo phải tìm con thỏ còn sống, giết thỏ lấy máu hòa với thuốc mới khỏi bịnh, anh của Cakkana bảo:

- Này Cakkana, em hãy đi ra rẩy, tìm bắt thỏ mang về.

Vâng lời anh, Cakkana đi ra rẩy, Cakkana bắt được con thỏ, nhìn thấy vẽ sợ hãi và van lơn của thỏ. Bồtát suy nghĩ: “Thật không thích hợp cho ta khi phải giết một sinh mạng để đổi lấy sự sống cho mẹ ta”. Và chàng đã thả con thỏ đi.

Khi trở về, người anh hỏi: “Này Cakkana, em có tìm được thỏ không?”

Cakkana thuật lại câu chuyện, người anh la mắng Cakkana, Cakkana đi vào nơi mẹ nằm, phát nguyện rằng: “Từ khi tôi sinh ra đến giờ, tôi không từng giết hại một con vật nào, do lời chân thật này xin cho mẹ tôi hết bịnh”.

Liền khi ấy, bịnh của mẹ cậu thuyên giảm rồi dứt hẳn.

Lời phát nguyện trên cho thấy “thói quen” của Cakkana là “không từng giết hại sinh vật nào”, nên thấy thỏ run sợ chàng xúc động buông tha.

Cakkana là tiền thân Bồtát, Ngài thường có tâm từ bi với mọi chúng sinh, do thói quen này nên Cakkana không từng sát hại sinh vật từ khi mới sinh ra cho đến lớn.

Lại nữa, một người khi đối diện với điều ác xấu, do nghĩ đến danh dự cao quý của mình, hay danh dự tốt đẹp của gia tộc nên không rơi vào ác, bất thiện.

Hoặc là, nghĩ đến những hình phạt của vua quan, những quả báo đau khổ của ác, bất thiện nên khi đối diện với ác, bất thiện sẽ tránh xa ác, bất thiện ấy.

Đây gọi là kiêng tránh do thói quen.



b. Kiêng tránh do thọ trì (samādāna virati).

Là sự kiêng tránh do chấp nhận quy luật của một sinh hoạt tín ngưỡng, tương tự như sự chấp nhận nội quy trường học của một học sinh hay sự chấp nhận quân luật của người binh sĩ...

Sự chấp nhận (samādāna) thọ trì học giới xuất phát từ tinh thần tự giác, đi chung với đức tin.

Trong Phật giáo có bốn học giới như sau:

- Học giới dành cho Tỳkhưu, gồm 227 điều. (1)

- Học giới dành cho Tỳkhưu ni, gồm 311 điều. (2)

- Học giới dành cho Sadi – Sadi ni gồm mười giới và 75 Ưng học pháp.

Riêng học nữ (sikkhāmānā) là Sadi ni muốn thọ giới Tỳkhưu ni, phải gìn giữ sáu giới (năm giới đầu của Sadi và giới không ăn phi thời) trọn vẹn hai năm, không bị đứt đoạn.

Tức là ngoài Sadi ni giới ra, sáu giới này không được vi phạm, giả như được một năm Sadi ni này ăn phi thời, dĩ nhiên phải sám hối, nhưng một năm trôi qua kể như bỏ, phải hành lại từ đầu.

- Học giới dành cho cận sự nam - cận sự nữ, gồm 5 giới, 8 giới hay 10 giới.

Học giới trong Phật giáo không chỉ đơn thuần là giới mà còn bao gồm cả định và tuệ.

“Sādhikamidaṃ, bhikkhave, diyaḍḍhasikkhāpadasataṃ anvaddhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati, yattha attakāmā kulaputtā sikkhanti.

Tisso imā, bhikkhave, sikkhā yatthetaṃ sabbaṃ samodhānaṃ gacchati. Katamā tisso?

Adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā. Imā kho, bhikkhave, tisso sikkhā, yatthetaṃ sabbaṃ samodhānaṃ gacchati.

Này các Tỳkhưu, bản đọc tụng này, gồm hơn 150 học giới, cần phải đọc tụng nửa tháng một lần. Ở đây, các thiện nam tử muốn được lợi ích, học tập bản đọc tụng ấy.

Này các Tỳkhưu, tất cả được thâu nhiếp làm thành ba học giới. Thế nào là ba?

- Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học. Chính ba học pháp này, này các Tỳkhưu thâu nhiếp tất cả (1).

Và Đức Phật có dạy:

Yampi, Pahārāda, mayā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ taṃ mama sāvakā jīvitahetupi nātikkamanti.

- Này Pahārāda (Atula vương – Ns), khi các học pháp được Như lai chế định cho các đệ tử, dù cho vì nhân mạng sống, cũng không vượt qua” (2).

Sách Thanh tịnh đạo có nêu ra 2 mẫu truyện như sau:

Trong rừng Mahāvattani, có vị Trưởng lão bị bọn cướp bắt trói bằng dây leo màu đen rồi chúng bỏ đi.

Sợi dây trói không chắc lắm, nhưng vị Trưởng lão nằm đó trọn bảy ngày vì e ngại phạm vào giới “làm hại thảo mộc” phạm vào Ưng đối trị (pācittiya là “làm hư hoại thiện pháp”). Trong thời gian ấy, Ngài phát triển tuệ quán chứng quả Anahàm, mệnh chung sinh về Phạm thiên giới.(3)

Bản sớ giải kinh Chánh tri kiến có nêu ra câu truyện như sau:

Có một cận sự nam thọ trì giới nơi Trưởng lão Piṅgala Buddharakkhita tại Tịnh xá Ambariya xong rồi, ông ra đồng làm việc, đến trưa, ông tháo bò cho nó đi ăn và nghĩ trưa.

Khi thức giấc, ông phát giác con bò của mình đã đi lạc, ông đi tìm bò. Do bất cẩn, ông bị con trăn quấn quanh người, trên tay ông có cầm con dao bén, ông toan chém vào con trăn nhưng chợt nhớ lại giới mình thọ trì, ông suy nghĩ “nếu ta cầm con dao bén, khi bị trăn xiết mạnh, vì sợ chết ta có thể hạ sát con trăn”, rồi ông suy nghĩ tiếp “ nếu ta ném con dao ở gần, có thể ta sẽ nhặt lại để sát hại con trăn”.

Ông liền ném con dao ra xa, rồi tưởng niệm đến giới mà mình đã thọ trì. Do sức mạnh của giới, khiến con trăn tháo mình ra và ông được an lành.

c. Kiêng tránh do đoạn trừ(samuccheda virati).

Là tuyệt đối không còn vi phạm, do đã chứng đạt Nípbàn, nhổ lên tận gốc rễ (setughāta – phá bỏ cây cầu), không có sự liên lạc với ác, bất thiện.

Như bậc Dự lưu tuyệt đối không phạm vào ngũ giới, một tư tưởng sát hại chúng sinh, lấy của không cho ... không hề khởi lên cho vị thánh Dự lưu.

Bậc Thánh Anahàm, một tư tưởng hành dâm cũng không khởi lên, bậc Alhán một tư tưởng bất thiện không hề có.

Trong ba loại kiêng tránh, kiêng tránh do chấp nhận điều học (tức là giới tu tập) là quan trọng nhất vì hiểu rõ lợi ích của giới.

Kiêng tránh do đoạn trừ là giới thành tựu, giới thành tựu là kết quả của giới tu tập, vị ấy không cần phí sức nhiều như giới tu tập.

Còn kiêng tránh do thói quen có thể là loại tâm thiện không có trí, là bản năng tự nhiên, như người xứ Bắc cưu lô châu (Uttarakurudīpa) gìn giữ giới một cách tự nhiên, nhưng những người ở châu này không chứng đạo quả.

Chỉ có giới do thọ trì, đưa bậc trí đến giải thoát khổ, vì hiểu rõ giới cùng lợi ích của giới.

“Dussīlassa bhikkhave, sīlavipannassa hatūpaniso hoti sammāsamādhi.

Sammāsamādhimhi asati sammāsamādhivipannassa hatūpanisaṃ hoti yathābhūtañāṇadassanaṃ...

Này các Tỳkhưu, với người ác giới, với người phá giới (sīlavipannassa), chánh định nhân vậy bị phá hoại (hatūpaniso).

Khi chánh định không có mặt, với người chánh định bị phá hoại, như thật tri kiến nhân vậy bị phá hoại”...(1)

Lại nữa, sự thọ trì giới được nghiêm túc là do nương vào đức tin, đức tin sung mãn thì giới sẽ không hề bị vi phạm, trái lại đức tin yếu kém hay hạn hẹp, người này sẽ vi phạm vào giới.

“...Saddhaṃ kulaputtaṃ nissāya antojano pañcahi vaḍḍhīhi vaḍḍhati. Katamāhi pañcahi?

Saddhāya vaḍḍhati, sīlena vaḍḍhati, sutena vaḍḍhati, cāgena vaḍḍhati, paññāya vaḍḍhati.

...Dựa trên thiện nam tử có lòng tin, các người trong gia đình lớn lên về 5 phương diện. Thế nào là năm?

Lớn lên về lòng tin, lớn lên về giới, lớn lên về học hỏi, lớn lên về dứt bỏ, lớn lên về trí tuệ.”(3).

Đoạn kinh trên cho thấy Đức Phật nêu lên lòng tin trước, khi lòng tin tăng trưởng thì giới tăng trưởng.

Lại nữa, một trong 5 tâm cứng rắn (cetokhila) là: “Nghi ngờ Học giới (sikkhāya kaṅkhati)”, vị Tỳkhưu có tâm nghi ngờ Học giới sẽ không sẽ không trưởng thành, hưng thịnh trong giáo pháp này (2).

Do đó, các Giáo Thọ sư dạy rằng : “Sự thọ trì học giới do nương vào đức tin”.



2-Phân tích thiện nghiệp.

- Phân tích theo pháp (dhammato).

Ba thân thiện nghiệp (không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong dục lạc) thuộc về thân, do tâm sở Tư điều sử dựa trên tác ý đúng.

Bốn ngữ thiện nghiệp (không nói dối, không nói đâm thọc, không nói thô ác, không nói nhãm nhí) là ngữ, do tâm sở Tư điều sử dựa trên tác ý đúng.

Ba ý thiện nghiệp (không đắm nhiễm, không sân và trí) thuộc về ý, do tâm sở Tư điều sử các tâm sở phối hợp với nó, dựa trên tác ý đúng.

- Phân tích theo nhóm (koṭṭhāsato).

Bảy thiện nghiệp thuộc thân và ngữ là thiện, không phải là căn (mūla) thiện.

Ba ý thiện nghiệp là pháp thiện lẫn căn thiện, ý không tham là căn vô tham (alobhamūlaṃ), ý không sân là căn vô sân (adosamūlaṃ), chánh kiến là căn vô si (amohamūlaṃ).



- Phân tích theo đối tượng (ārammaṇa).

Đối tượng của thiện nghiệp tương tự như bất thiện nghiệp, chỉ khác là “không tạo ra ác, bất thiện.

- Phân tích theo thọ (vedanāto).

Các thiện nghiệp này chỉ có hai thọ là: lạc và xả, vì thiện nghiệp không có khổ thọ.

- Phân tích theo căn (mūlato).

Bảy thiện nghiệp đầu: Nếu được làm bởi tâm thiện ly trí thì có hai căn là vô tham và vô sân.

Nếu làm với tâm thiện có trí thì đủ ba căn là: Vô tham, vô sân và vô si.

Ý không tham trong tâm thiện ly trí chỉ có một căn là căn vô sân, trong tâm thiện có trí thì có hai căn là: vô sân và vô si.

Vì “vô tham” nó chính là căn, nó không thể đi chung với chính nó.



Ý không sân trong tâm thiện ly trí, có một căn là vô tham, trong tâm thiện có trí có hai căn: Vô tham và vô si.

Chánh kiến có hai căn là: Vô tham – vô sân.

Ngoài ra, nếu phân tích theo Tứ đế thì:



  1. Bất thiện nghiệp.

Bảy bất thiện nghiệp đầu là khổ đế trực tiếp.

Ý tham đắm (abhijjhā) là tập đế trực tiếp.

Ý hiềm hận (byāpāda), ý tà kiến vừa là khổ đế vừa là tập đế gián tiếp.

b-Thiện nghiệp.

Bảy thiện nghiệp đầu là khổ đế gián tiếp.

Ý vô tham, ý vô sân vừa là khổ đế gián tiếp vừa là tập đế gián tiếp.

Chánh kiến trong tâm đạo là đạo đế, trong tâm hiệp thế vừa là khổ đế gián tiếp vừa là tập đế gián tiếp.

Chánh kiến trong tâm quả siêu thế là ngoại đế.

Diệt trừ ác, bất thiện nghiệp là diệt đế (tạm thời).



Dứt phần trí biết rõ về bất thiện và thiện.

Tiêu đề 2. Trí biết rõ về bốn loại vật thực.

Chánh kinh.

Chư Hiền, thế nào là thức ăn, thế nào là tập khởi của thức ăn, thế nào là đoạn diệt của thức ăn, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn?



Chư Hiền, có bốn loại thức ăn này, khiến các loài hữu tình đã sanh được an trú (bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā), hay các loài hữu tình sẽ sanh được phò trợ (sambhavesinaṃ vā anuggahāya). Thế nào là bốn?

Đoàn thực thô hay tế (ālāra oḷāriko và sukhumo), xúc thực là thứ hai (phasso dutiyo), tư niệm thực là thứ ba (manosañcetana tatiyo), thức thực là thứ tư (viññanaṃ catuttho).

Từ tập khởi của Ái có tập khởi của thức ăn (taṅhā samudayā āhārasamudayo). Từ đoạn diệt ái có đoạn diệt thức ăn (taṅhānirodha āhāranirodho). Thánh đạo tám ngành (ariyo aṭṭhanigiko maggo) là con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, tức là: Chánh kiến (sammādiṭṭhi), chánh tư duy (sammāsaṅkappo), chánh ngữ (sammāvācā), chánh nghiệp (sammākammanto), chánh mạng (sammā-ājīvo), chánh tinh tấn (sammāvāyāmo), chánhniệm (sammāsati), chánh định (sammāsamādhi)”.

Giải:

Đoạn kinh văn trên nêu lên bốn loại vật thực là: Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực.

Và ái là nguyên nhân có thức ăn này, trừ diệt ái là đoạn diệt thức ăn.

Đức Phật có tuyên bố:

Sabbe sattā āhāraṭṭhika:

Tất cả hữu tình tồn tại do vật thực”(1).

Có câu hỏi: Bốn loại thức ăn này cần phải hiểu, hay cần phải tu tập? Câu trả lời là: “Cần phải hiểu rõ một cách rộng rãi (pariññeyya).

Đức Sāriputta có dạy:

“Katame cattāro dhammā pariññeyyā?

Cattāro āhārā, kabaliṅkāro āhāro oḷāriko vā sukhumo vā, phasso dutiyo, manosañcetanā tatiyā, viññāṇaṃ catutthaṃ.

Ime kho cattāro dhammā pariññeyyā.

Thế nào là bốn pháp cần phải biến tri (pariññeyyā)?

Bốn thực (cattāro āhārā): Đoàn thực thô hay tế, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư.

Đó là bốn pháp cần phải biến tri (2).

Chữ pariññeyya = Pari (trọn vẹn, đầy đủ) + ñeyya (điều nên hiểu biết).

Pariññeyya là điều nên hiểu biết trọn vẹn, hiểu biết đầy đủ không dư sót.

Chữ āhāra = ā + ngữ căn har.

Căn har là “mang lại, đem lại, dẫn đến”.

Tập Sớ giải thích āhāra là duyên (paccayā) vì tự mang kết quả đến, tức làm duyên cho pháp khác sinh lên.

Có câu giải tự về vật thực (āhāra) như sau:

Āhāriyatīti = āhāro: Những chất bổ dưỡng, làm cho tiến hóa (tăng trưởng), gọi là āhāra.

Attano udayānaṃtaraṃ rūpaṃ janatīti = ojā:

Giúp các pháp liên hệ được sinh ra, gọi là chất bổ dưỡng (ojā). (3)

Như vậy, gọi là vật thực (āhāra) vì có dưỡng tố (ojā), dưỡng tố là phần tinh túy của vật thực, chính dưỡng tố duy trì và làm tăng trưởng sắc pháp.



Hỏi: Vật thực làm duyên cho pháp khác sinh lên, là như thế nào?

Đáp: Vật thực (āhāra) mang ý nghĩa là duyên (paccaya) đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng như sau:

“Ko ca, bhikkhave, āhāro anupannassa vā kāmacchandassa uppādāya, upannassa vā kāmacchadassa bhuyyobhāvāya vepullāya?.

Atthi, bhikkhave, subhanimittaṃ.

Tattha ayonisomanasikārabahulīkāro-ayamāhāro anuppannassa vā kammacchandassa uppādāya, uppannassa vā kāmacchandassa bhuyyobhāvāya vepullāya...

Này các Tỳkhưu, cái gì là món ăn khiến cho dục tham (kāmacchanda) chưa sinh, được sinh khởi, hay dục tham đã sinh, được tăng trưởng quảng đại?

Này các Tỳkhưu, có tịnh tướng.

Ở đây, nếu phi như lý tác ý, làm cho sung mãn, chính cái này là món ăn khiến cho dục tham chưa sinh được sinh khởi, hay dục tham đã sinh được tăng trưởng quảng đại...” ( 1)

Và:


“Dveme, bhikkhave, paccayā rāgassa uppādāyā. Katame dve?

Subhanimittañca ayoniso ca manasikāro. Ime kho, bhikkhave, dve paccayā rāgassa uppādāyā’ti”.

Có hai duyên này, này các Tỳkhưu, khiến tham (rāga) sinh khởi? Thế nào là hai?

- Tịnh tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỳ khưu là hai duyên khiến tham sinh khởi.(2)

Hay:


...uṭṭhānaṃ anālasyaṃ bhogānaṃ āhāro.

Maṇḍanā vibhūsanā vaṇṇassa āhāro.

Sappāyakiriyā ārogyassa āhāro...

... Hăng hái, không thụ động là món ăn cho các tài sản.

Trang sức, tô điểm là món ăn cho dung sắc.

Hành động thích ứng là món ăn cho không bịnh...” (3).

Những đoạn kinh trên cho thấy āhāra (vật thực) được dùng với ý nghĩa là “paccaya – duyên”.

- Đoàn thực làm duyên cho sắc bất ly (avinibbhogarūpa).

Chữ avinibbhoga nghĩa là “không thể tách rời”.

Có tám loại sắc không thể tách rời, hễ sinh lên phải có đủ tám, gọi là sắc bất ly. Đó là: đất, nước, lửa, gió, sắc cảnh sắc, sắc cảnh khí, sắc cảnh vị và sắc vật thực (đây là đơn vị cơ bản của một đơn vị sắc pháp).

Pāli có giải thích:

Avinibbhogo’ti = avinibbhogo:

Không thể tách rời, gọi là bất ly.(4)

Theo Luận Atỳđàm, những đoàn sắc pháp (kalāparūpa) sau khi bình số là 51 bọn, cứ mỗi sátna tiểu của tâm có một bọn diệt đi, một bọn khác sinh lên (mỗi sátna tâm có ba sátna tiểu là : Sinh, trụ, diệt).

Do đó, các đoàn sắc pháp luôn bình số là 51 bọn.

Ví như ngọn lửa luôn tồn tại là nhờ có nhiên liệu, cũng vậy, tuy sắc pháp sinh diệt liên tục nhưng vẫn tròn đủ là do có sắc vật thực (đoàn thực) làm duyên trợ sinh.

Khi sắc vật thực cũ diệt đi, sắc vật thực mới sinh lên, thế là bảy sắc còn lại cũng sinh theo. Do đó nói rằng: “Sắc vật thực làm duyên cho sắc bất ly sinh lên”.

- Xúc thực làm duyên cho thọ sinh lên.

Như kinh văn: “Phassa paccayā vedanā: xúc duyên thọ”.

Người có thần kinh nhãn (cakkhu pasāda) tốt, gặp cảnh sắc (rūpārammaṇa) rõ, có sự nhận thức cảnh (là nhãn thức), ba pháp này hội lại, thế là nhãn xúc sanh lên, khi nhãn xúc sinh lên sẽ làm duyên cho những cảm thọ lạc, khổ hay xả phát sinh (trong lộ đổng lực), nên nói “xúc thực làm duyên cho thọ sinh ra”.

- Tư niệm thực làm duyên cho thức tái sinh (paṭisandhiviññāṇa).

Như nghiệp tương ưng với Dục giới sẽ làm duyên cho thức tái sinh trong cõi Dục giới. Nghiệp tương ưng với Sắc giới sẽ làm duyên cho thức tái sinh trong cõi Sắc giới. Nghiệp tương ưng với Vô sắc giới sẽ làm duyên cho thức tái sinh trong cõi Vô sắc giới.

Như vậy, tư niệm thực làm duyên cho tái sinh vào ba cõi.



-Thức thực làm duyên cho danh - sắc sinh lên bằng đồng sanh duyên (sahājātapaccayo).

Khi thức tục sinh hiện khởi, bấy giờ danh (nāma) cũng sinh lên, danh ở đây là ba uẩn: thọ, tưởng và hành uẩn.

Đồng thời với thức tục sinh, những đoàn sắc nghiệp cũng sinh lên, loại sắc nghiệp này gọi là sắc tục sinh (đây là nói cõi ngũ uẩn, cõi vô sắc chỉ có danh, ở cõi Vô tưởng chỉ có sắc Mạng quyền làm việc tục sinh).

Trong thời bình nhật, khi tâm sinh lên lập tức các tâm sở cũng hiện khởi, các tâm sở ấy là danh.

Đồng thời tâm cũng tạo ra một loại sắc để hành động hay nói, gọi là sắc tâm tạo (cittajarūpa), ngoại trừ ngũ song thức và các tâm quả Vô sắc không tạo sắc tâm, những tâm còn lại đều tạo sắc tâm.

Có Phật ngôn:

Viññāṇa paccayā nāmarūpaṃ: Thức duyên cho danh - sắc”.

Thức trong lý duyên khởi chỉ cho những tâm quả, một số tâm quả đảm nhiệm việc tục sinh, số khác thì không như nhãn thức, nhĩ thức chẳng hạn. Còn thức thực chỉ cho tất cả các tâm.

Có thể có người nghi ngờ câu Phật ngôn: “Sabbe sattā āhāraṭṭhitikā: chúng sanh tồn tại do vật thực” còn thiếu sót.

Vì rằng: Có chúng sanh là phạm thiên Vô tưởng (asaññī) không có đoàn thực, không có xúc thực, không có tư niệm thực, không có thức thực nhưng vị ấy vẫn tồn tại.



Đáp rằng: Chữ sattā (hữu tình hay chúng sanh) là ám chỉ cho uẩn (khandha).

Như có Pāli rằng:

Katame dhammā sappaccayā? Pañcakkhandhā:

Thế nào là pháp hữu duyên? Năm uẩn (là pháp hữu duyên).

Khi các uẩn hội lại, gọi là sattā (chúng sinh) .

Như vậy, khi nói đến chúng sinh tức là nói đến uẩn, Phạm thiên Vô tưởng tuy chỉ có sắc uẩn, nhưng đó là loại sắc uẩn có mạng quyền, sắc Mạng quyền là loại sắc thành tựu do nghiệp lực.

“Sattā kammadāyadā: Chúng sinh là thừa tự của nghiệp” (1).

Và tuy chỉ có sắc uẩn nhưng Phạm thiên Vô tưởng vẫn được gọi là chúng sinh, vì thừa tự của nghiệp.

Ví như có nhiều nhà hội lại, gọi là làng, lửa cháy một nhà trong làng, người ta cũng gọi là cháy làng.

Tức là: “Nói đến làng ngầm nói đến nhà, nói đến chúng sinh ngầm nói đến uẩn. Nói đến nhiều nhà ngầm nói đến làng, nói đến uẩn ngầm nói đến chúng sinh.

Có làng có nhiều loại nhà, có làng chỉ có một loại nhà. Cũng vậy, có hạng chúng sinh nhiều uẩn (5 uẩn, hoặc bốn uẩn) ví như làng có nhiều loại nhà; có hạng chúng sinh một uẩn, ví như làng có một loại nhà.

Do đó, Phạm thiên Vô tưởng tuy chỉ có một uẩn vẫn được gọi là chúng sinh”.

Vị Thánh nữ Alahán Vajirā có dạy như sau:

… Yathā hi aṅgasambhātā, hoti saddo ratho iti;

Evaṃ khandhesu santesu, hoti sattohi sammuti…

...Như bộ phận quy tụ, tên xe được nói lên,

Cũng vậy uẩn quy tụ, thông tục gọi chúng sinh...”( 2).

a- Đoàn thực (kalaḷīkāra āhāra).

Đoàn thực là những miếng ăn, hay là dưỡng tố có trong miếng ăn.

Có câu giải tự:

Kalaḷīkāro āhāro āhārarūpaṃ nāma:



Gọi là đoàn thực là sắc vật thực (tức là chất bổ dưỡng trong miếng ăn).

Thành phần cơ bản của sắc vật thực là “đất, nước, lửa, gió”, chính “dưỡng tố (ojā)” mới là quan trọng.

Một cọng rau hay miếng thịt chỉ là “cách gọi tên (chế định)” chứ bản chất thực của chúng đều là đất, nước, lửa, gió, chúng chỉ khác nhau về dưỡng tố.

Theo thực tính pháp (sabhāvadhamma), sắc vật thực là tinh chất của tứ đại, nói cách khác nương từ tứ đại, sắc vật thực hình thành.

Có hai loại sắc vật thực là:

- Sắc vật thực bên ngoài (bahidhāhāra): Là những chất bổ dưỡng từ bên ngoài đưa vào thân thể.

- Sắc vật thực bên trong (ajjhattāhāra):Là chất bổ dưỡng của mỗi bọn sắc trong thân thể chúng sinh, đây là loại sắc thành tựu do nghiệp thủ (kammupādāna).

Kinh văn ghi “đoàn thực thô hay tế” là chỉ cho loại sắc vật thực bên ngoài, thô hay tế mang tính tương đối:

- Đoàn thực thô, tế.

*- Vật thực cứng gọi là thô (oḷāriko), vật thực mềm gọi là tế (sukhumo).

Cứng hay mềm chỉ là cách so sánh tương đối, gân mềm so với xương nhưng cứng so với thịt, thịt mềm so với gân nhưng cứng so với mở...

*- Vật thực có nhiều dưỡng tố là vật thực tế, ít dưỡng tố là vật thực thô.

Một người dùng chén cháo trắng đầy, không bao lâu lại cảm thấy đói, trái lại người dùng chén canh có nhiều dưỡng tố có thể no cả ngày.

Vật thực và dưỡng tố liên quan mật thiết với nhau, vật thực làm tan biến sự đói khát, nhưng không bảo dưỡng được sinh mạng chúng sinh, dưỡng tố bảo dưỡng duy trì được sinh mạng chúng sinh, nhưng không diệt trừ được đói khát.

Vật thực và dưỡng tố kết hợp nhau vừa dứt trừ sự đói vừa bảo dưỡng được sinh mạng chúng sinh.

Sau đây là một số nét tương đối của hai loại vật thực thô - tế.

- Vật thực của dân thành phố là tế so với vật thực của người dân thôn quê.

- Vật thực của vua quan là tế so với vật thực của dân thành phố.

- Vật thực của vua Chuyển Pháp Luân là tế so với vật thực của nhân loại.

- Vật thực của Chư thiên địa cầu là tế so với vật thực của vua Chuyển luân.

- Vật thực của Tứ Đại Vương vi tế hơn vật thực của Chư thiên địa cầu....

Có câu hỏi rằng: Vật thực bảo dưỡng cho các pháp khác được tồn tại và tăng trưởng? Vậy pháp nào bảo dưỡng cho vật thực?

Đáp: Chính vật thực tự bảo dưỡng cho mình. Ví như người mẹ bảo dưỡng hài nhi, giúp hài nhi lớn mạnh, chính người mẹ cũng tự bảo dưỡng mình.

Chúng sinh năm uẩn đang và sẽ hiện hữu với bốn loại thức ăn.

Chúng sinh bốn uẩn đang và sẽ hiện hữu với ba loại thức ăn: xúc thực, tư niệm thực và thức thực.

Chúng sinh Vô tưởng đang hiện hữu (ṭhīti) với sắc mạng quyền do nghiệp tạo, sắc mạng quyền là thành quả của tư niệm thực, tuy hiện tại không có tư niệm thực nhưng thành quả còn đó xem như có tư niệm thực, ví như di chúc của người quá cố.

Khi chúng sinh cõi Vô tưởng mệnh chung, thức tái sinh hiện khởi do duyên tư niệm thực.

b. Xúc thực (phassāhāra).

Là sự tiếp chạm giữa căn (indriya), cảnh (ārammaṇa) và thức (viññāṇa).

Khi các quyền (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp chạm với cảnh (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) và thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức), bấy giờ phát sinh xúc tương ứng (nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc).



Vì sao cần phải có thức?

Vì không có sự hướng tâm đến cảnh sẽ không nhận thức cảnh, người có mắt, có cảnh sắc nhưng không chú ý đến cảnh sắc sẽ không nhận thức được.

Hay tuy có tai, có âm thanh nhưng không chú ý sẽ không nghe chi cả, dĩ nhiên trừ trường hợp cảnh quá lớn như cảnh kinh hoàng đột nhiên ập đến, tiếng sấm nổ, mùi nồng nặc...

Do đó, nói rằng: “Không có thức sinh lên thì xúc cũng không sinh”.

Đồng thời, chính vì căn, cảnh và thức sai biệt nên có xúc sai biệt.

“Dhātunānattaṃ, bhikkhave, paṭicca uppajjati phassanānattaṃ.

Này các Tỳkhưu, do duyên giới sai biệt nên xúc sai biệt khởi lên” (1).

Giới (dhātu) ở đây, chỉ cho 18 giới, là sáu căn, sáu cảnh và sáu thức. Căn, cảnh, thức phối hợp tương thích với nhau, không hề lẫn lộn.

- Nhãn căn (thần kinh nhãn) + cảnh sắc + nhãn thức  nhãn xúc.

- Nhĩ căn (thần kinh nhĩ) + cảnh thinh + nhĩ thức  nhĩ xúc.

- Tỷ căn (thần kinh tỷ) + cảnh mùi + tỷ thức  tỷ xúc.

- Thiệt căn (thần kinh thiệt) + cảnh vị + thiệt thức  thiệt xúc.

- Thân căn (thần kinh thân) + cảnh xúc + thân thức  thân xúc.

- Ý thức + cảnh pháp  ý xúc.

Như vậy, có sáu xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc. Sáu xúc này sai biệt nhau.

c. Tư niệm thực (manosañcetanā).

Sự cố ý (cetanā) Ngài gọi là Tư niệm thực, cetanā luôn là duyên (vật thực) để sinh khởi thức (tâm quả).

Nhưng manosañcetanā (2) là “ ý hướng đến”, tức là sự suy nghĩ khắn khít để sinh khởi thức tái sinh trong tương lai.

“Yañca, bhikkhave, ceteti yañca pakappeti yañca anuseti, ārammaṇametaṃ hoti viññāṇassa ṭhitiyā, ārammaṇe sati patiṭṭhā viññāṇassa hoti.

Tasmiṃ patiṭṭhite viññāṇe viruḷhe nati hoti. Natiyā sati āgatigati hoti…

Này các Tỳkhưu, cái gì chúng ta tư niệm (ceteti), cái gì chúng ta tư lường, cái gì chúng ta có thầm ý (anuseti) (3), cái ấy trở thành cảnh (4) cho thức an trú, khi nào có cảnh thời có thức an trú.



Do thức ấy an trú và tăng trưởng nên có hướng về (nati). Do có hướng về nên có đi đến tái sinh...” (5).

Hay:


Này các Tỳkhưu, có tám thọ sanh do bố thí (dānupāpattiyo)...

Ở đây, này các Tỳkhưu, có hạng người căn bản làm phước bố thí cho các Sa môn, Bàlamôn với đồ ăn, đồ uống... người ấy bố thí và mong hưởng quả (paccāsimsatiṇ). Người ấy thấy các Sát đế lỵ đại phú, hay các Bàlamôn đại phú, hay các gia chủ đại phú, sung túc đầy đủ, thọ hưởng năm dục tăng trưởng. Người ấy suy nghĩ sau: “mong rằng, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh cộng trú với Sát đế lỵ đại phú...” ( 1).

Ý nghĩa bài kinh này cho thấy: “Người tạo phước mong mõi sinh hữu trong tương lai”, chính sự mong mõi sinh hữu trong tương lai, được gọi là sañcetanā (tư niệm thực).

Như vậy, sañcetanā là: “Hướng đến tái sinh trong tương lai”, sự hướng đến tái sinh này do ái làm duyên, nên Đức Xálợiphất có dạy: “Từ tập khởi của ái, có tập khởi cũa thức ăn” (là thức thực – Ns).

Lại nữa, sự hướng đến tái sinh trong tương lai có hai cách:

- Có khuynh hướng thiên về.

Là khi tạo phước lúc nào cũng mong mõi được tái sanh về cành an vui như được làm người cao sang, quyền quý hay được là vị thiên nhân.

Câu truyện nàng Patipūjikā là minh chứng.

Nàng Patipūjikā (2).

Ở cõi trời Ba mươi ba (Tāvatiṃsa) có vị thiên tử tên là Mālabhārī (người mang vòng hoa), có ngàn thiên nữ tùy tùng.

Một lần nọ, thiên tử cùng ngàn thiên nữ đi vào vườn Nandavana (Hỷ lạc lâm) để vui chơi, một nửa thiên nữ leo lên cây để hái hoa ném xuống, một nửa kết hoa làm vòng hoa cho thiên tử Mālabhārī.

Bất ngờ một thiên nữ đang ngồi trên cành cây mệnh chung , tái sinh về nhân loại, trong một gia đình trưởng giả trong thành Sāvatthī (Xávệ), (chư thiên mệnh chung ví như ngọn đèn chợt tắt, không lưu lại thi hài, vì sắc chư thiên là sắc tế).

Khi được 16 tuổi, nàng được cha mẹ gả cho một công tử thuộc gia đình có môn đăng hộ đối.

Do phước duyên còn dư sót, nàng nhớ lại kiếp trước của mình, nàng ước ao sinh về cõi chư thiên, là vợ của thiên tử Mālabhārī như kiếp trước.

Vào những ngày Uposatha (Bốtát), nàng thường cúng dường vật thực, nước và phục vụ chư tăng chu đáo, nàng ước nguyện “được trở về với chồng”, nên nàng có tên Patipūjikā (người nữ cúng dường để được gần chồng).

Thời gian ở nhân loại của nàng là 32 năm, nàng có được 4 người con.

Một hôm, sau khi cúng dường đến chư Tăng, thọ trì giới Bát quan, nàng ngồi nghe pháp. Đến tối, đột nhiên nàng lâm bịnh và qua đời, tái sinh trở lại nơi thiên giới trong vườn Nandavana, nơi nàng mệnh chung khi trước.

Chợt thấy cô, thiên tử Mālabhārī hỏi:

- Từ sáng đến giờ nàng đi đâu? (một ngày đêm cõi Ba mươi ba bằng trăm năm cõi nhân loại, nên 32 năm cõi nhân loại chỉ hơn nửa ngày ở cõi chư thiên).

Nàng Patipūjikā thuật lại mọi việc cho thiên tử nghe, vị Thiên tử than rằng:

“Đời sống nhân loại ngắn ngủi như thế, sao họ không lo tạo việc lành nhỉ?”.

Hôm sau, chư Tỳkhưu biết nàng Patipūjikā mệnh chung, bạch hỏi Đức Thế Tôn về cảnh giới tái sinh của nàng, Đức Thế Tôn giải đáp thắc mắc cho chư Tỳkhưu xong, nhân đó Ngài thuyết lên kệ ngôn:

“Pupphāni h’eva pacinantaṃ. Byā sattamanasaṃ naraṃ

Atittaṃ yeva kāmesu. Antako kurute vasaṃ

Người nhặt các loại hoa. Ý đắm say, tham nhiễm

Các dục chưa thỏa mãn. Đã bị chết chinh phục”(HT. TMC dịch).

- Không có khuynh hướng thiên về.

Tuy không có khuynh hướng thiên về, nhưng những gì được tạo ra bởi tâm sở Tư (cetanā cetasika), tâm sở Tư sẽ khắn khít với cảnh giới phù hợp với tâm quả (làm việc tục sinh) sau này.

Như tâm sở Tư trong ác, bất thiện nghiệp sẽ khắn khít với bốn khổ cảnh (rõ ràng chẳng một chúng sinh nào thích thú hướng tâm đến 4 khổ cảnh cả, nhưng kẻ làm ác vẫn phải sinh về một trong 4 cõi này).

Tâm sở Tư thiện sẽ khắn khít với nhàn cảnh (cho dù người tạo thiện nghiệp không mong cầu, khi mệnh chung, tâm sở Tư vẫn tạo tâm quả tục sinh cho sinh vào nhàn cảnh).

Ngoài ra, tư niệm thực còn mang ý nghĩa là: Tạo ra tâm quả thiện hay tâm quả bất thiện trong thời bình nhật.



d. Thức thực.

Mỗi sátna tâm đều làm duyên cho các tâm sở sinh lên, đồng thời các sắc pháp (sắc tâm) được hình thành, nên mỗi tâm được gọi là thức thực.

Luận Atỳđàm có ghi “Nhân cận (padaṭṭhānaṃ) của tâm sở là “phải có tâm sanh (cittuppāda)” (1).



tải về 2.55 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương