Luận Giải Kinh Chánh Tri Kiến


Quốc độ của vua Daṇḍaki bị tiêu diệt



tải về 2.55 Mb.
trang4/22
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích2.55 Mb.
#1510
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22

Quốc độ của vua Daṇḍaki bị tiêu diệt.

Tương truyền rằng: Quốc độ của vua Daṇḍakī đã bị thần lực chư thiên tiêu diệt(2). Tóm lược như sau:

Thuở xưa, ở xứ Bārāṇasī có vị vua tên Daṇḍakī ngự ở kinh thành Kubhavatī, Đức vua cùng thần dân đều là người tà kiến.

Có đạo sĩ Kisavaccha đạt được thiền chứng và thắng trí, đạo sĩ đi đến kinh thành Kubhavatī, trú trong vườn Thượng uyển của Đức vua.

Nàng ái phi của Đức vua tên là Sobheṇī, bị Đức vua thất sủng và cách chức .

Buồn khổ nàng đi vào vườn Thượng uyển dạo chơi, gặp được đạo sĩ Kisavaccha, nàng khởi lên ý nghĩ tà kiến rằng: “Đạo sĩ này là người đê tiện, những điều xui xẻo trong thân ta nếu có, ta hãy trút lên mình kẻ đê tiện này, ta sẽ được kiết tường trở lại”.

Một số phong tục của người Ấn cổ cho rằng: “Gặp người trọc đầu là báo hiệu điều xui xẻo”, đây là một dạng tà kiến, gọi là giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa).

Nàng Sobheṇī, xúc miệng nhổ nước dơ lên mình đạo sĩ, rồi trở về chỗ ở của mình, tắm rữa sạch sẽ. Không bao lâu, Đức vua lại nhớ đến nàng, cho triệu nàng vào cung như xưa.

Việc Đức vua Daṇḍakī nhớ đến nàng Sobheṇī, không liên quan gì đến việc làm nhục đạo sĩ Kisavaccha, đây chỉ là mãnh lực phiền não dục ái khởi lên cho Đức vua mà thôi, đó là việc thường tình.

Một vị cố vấn Đại thần cũng bị Đức vua cách chức, vị này suy nghĩ “nàng Sobhenī trước đây cũng bị thất sủng, nàng làm cách nào để được phục hồi trở lại? Ta hãy tìm đến nàng học hỏi”. Vị Đại thần tìm đến nàng Sobheṇī hỏi:

- Trước đây nàng bị thất sủng, bị cách chức, làm thế nàng được phục hồi như cũ?

Nàng Sobheṇī thuật lại việc đã làm đối với đạo sĩ Kisavaccha.

Theo thể thức ấy, vị cố vấn Đại thần làm theo, chẳng bao lâu Đức vua lại triệu hồi phục chức cho vị ấy.

Điều này không phải do làm nhục đạo sĩ mà có được, đây là do ông kiên nhẫn chờ đợi, đồng thời do bản tính bất thường của Đức vua, khi phẩn nộ thì cách chức, khi nghĩ lại thì phục chức, có thế thôi.

Thế rồi, một lần nọ được tin biên thùy có giặc loạn, Đức vua quyết định thân chinh để dẹp giặc, bấy giờ vị cố vấn Tế tự tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, hiện nay trong Thượng uyển có kẻ đê tiện đang ngụ, Đại vương hãy truyền lịnh tất cả thần dân đến tẩy uế lên thân kẻ đê tiện ấy. Như vậy, Đại vương sẽ nhanh chóng chiến thắng giặc loạn.

Với lời tấu trình đầy ác kiến như trên, Đức vua lại cho là đúng.

Thế là, tất cả người dân thành Kumbhavatī (trừ gia đình vị tướng quân hộ độ đạo sĩ Kisavaccha) cùng Đức vua đến tẩy uế trên người đạo sĩ, rồi trở về.

Vị tướng quân hộ độ hay tin, chạy đến để cản ngăn thì Đức vua và thần dân đã trở về. Vị tướng quân cùng gia đình dọn sạch sẽ nơi ngụ của đạo sĩ, mang nước đến cho đạo sĩ tắm rữa và an ủi đạo sĩ. Đạo sĩ nói với vị tướng quân rằng:

- Này tướng quân, ác hạnh mà Đức vua cùng dân chúng đã làm, đối với ta chẳng có chi là buồn phiền, nhưng chư thiên đang phẩn nộ.

Sau bảy ngày thành Kumbhavatī có chu vi rộng 60 do tuần sẽ bị hủy diệt, vậy tướng quân cùng gia quyến nên lập tức rời khỏi nơi này đi.

Vị tướng quân vào triều tâu lên Đức vua điều đạo sĩ thông báo, nhưng Đức vua cùng các Đại thần không tin.

Vị tướng quân cùng gia đình và những người có tâm tín thành đạo sĩ, bỏ thành sang xứ khác.

Bồtát Sarabhaṅga là thầy của Đạo sĩ Kisavaccha thấy được sự nguy hiểm ở kinh thành Kumbhavatī, đã nhờ hai đạo sĩ đệ tử có thần thông của Ngài, đến thành Kumbhavatī mang đạo sĩ Kisavaccha ra khỏi thành Kumbhavatī.

Vào ngày thứ bảy khi hợp thời, chư thiên khiến mưa rơi khắp kinh thành Kumbhavatī, ban đầu là mưa cát vàng, lần lượt đến mưa hoa, mưa bạc, mưa vàng, mưa vật trang điểm chư thiên.

Khi ấy tất cả mọi người trong kinh thành Kumbhavatī, thích thú chạy ra khỏi nhà để nhặt vật báu, chất đầy vào nhà. Kế đến phát sinh mưa vũ khí, mưa than hừng rất lớn từ không trung rơi xuống, chém và đốt cháy đại chúng cùng Đức vua, tất cả mọi người không có chỗ trú ẩn, vì trong nhà chất đầy những báu vật.

Trận mưa ấy tiêu diệt trọn vẹn kinh thành Kumbhavatī. (1)

Quốc độ của vua Bharu bị tiêu diệt

Câu chuyện thứ hai về sự sát hại do thần lực chư thiên, tóm lược như sau (2):

Thuở xưa, tại quốc độ Bharu do Đức vua Bharu trị vì. Bấy giờ, Bồtát là vị tu tập nhiệt cần (tapa) đạt được năm thắng trí và tám thiền chứng.

Ngài là vị sư trưởng của một hội chúng, cư trú tại núi Tuyết (Himalaya).

Một lần nọ, vì cần dấm - muối, Ngài cùng 500 vị đệ tử đến kinh thành Bharu. Tất cả đều cư ngụ phía Bắc cổng thành, dưới cội cây bàng đầy cành lá.

Nữa tháng sau, một vị sư trưởng khác cùng 500 đệ tử mình cũng đến kinh thành Bharu để tìm dấm - muối, cư ngụ ở phía Nam cổng thành, dưới cây bàng xinh tốt.

Thế rồi, hai nhóm đạo sĩ sau khi tìm được dấm - muối, đã trở về núi Tuyết. Khi hai nhóm đạo sĩ ra đi, chẳng bao lâu cây bàng ở hướng Nam khô héo.

Lần sau, nhóm đạo sĩ trú ở hướng Nam đến kinh thành Bharu trước, thấy cây bàng nơi đây bị chết khô, nên tìm đến trú ngụ dưới cội cây bàng ở hướng Bắc.

Nhóm đạo sĩ trú ở hướng Bắc đến sau, tìm đến chỗ trú ngụ của mình (năm trước), thấy có nhóm đạo sĩ đến trước chiếm ngự, nên nói rằng:

- Chỗ trú ngụ của các ông ở hướng Nam kinh thành, nơi này là chỗ trú ngụ của chúng tôi.

Nhóm đạo sĩ kia đáp: “Lần này chúng tôi đến trước, nên chỗ này không phải là chỗ của các ông, là chỗ của chúng tôi”.

Vì cây bàng mà hai nhóm đạo sĩ đã tranh chấp nhau, họ đưa câu chuyện đến hoàng cung nhờ vua Bharu phân xử.

Đức vua phán quyết: Nhóm đạo sĩ đến hướng Bắc năm trước (nhóm của Bồ tát) là chủ.

Nhóm đạo sĩ cư ngụ ở hướng Nam năm trước, bàn nhau rằng:

- Chúng ta không thể thua các đạo sĩ ấy được.

Với thiên nhãn họ thấy một hòm báu vật, xứng đáng là sở hữu của vị vua, nên mang xe báu đến dâng Đức vua Bharu, thưa rằng:

- Thưa Đại vương, hãy làm cho chúng tôi thành người chủ cây bàng hướng Bắc đi.

Tham của hối lộ nên Đức vua nhận lời. Sau đó, hai hội chúng đạo sĩ đã suy nghĩ:

“Chúng ta là những người tu tập, mong đoạn tận các dục về sở hữu. Nay chỉ vì một gốc cây bàng mà sinh ra tranh đấu lẫn nhau, việc làm này thật không xứng đáng với chúng ta”.

Cả hai nhóm sám hối lỗi với nhau, rồi vội vã trở về Tuyết sơn. Chư thiên đang trú trong xứ Bharu đã phẩn nộ với vua Bharu, vì đã nhận hối lộ, xử thiên lệch, làm hai nhóm đạo sĩ có giới hạnh trở nên bất hòa.

Chư thiên dâng nước lên tràn ngập xứ Bharu, tiêu diệt xứ Bharu rộng 300 dặm.

Hai mẫu truyện trên minh họa cho việc sát hại bằng thần lực do phước.



*- Giết bằng thần lực do sinh chủng.

Như rồng chúa Nandopananda hay như Bồtát sinh làm Long vương Bhūridatta, với thần lực của Ngài, Ngài có thể sát hại gả bắt rắn Ālaṃbāyana nhưng Ngài không

làm (1). Đây là sát hại bằng thần lực do sinh chủng, một số loài thú cũng có thần lực do sinh chủng.

*- Sát hại bằng thần lực do tu tập. Là những Samôn, Bàlamôn tu tập đạt được thần thông lực, như kinh văn có ghi như sau:

“Taṃ kiṃ maññasi gahapati: Idh’ āgaccheyya samaṇo vā brāhmaṇo vā iddhimā cetovasippatto, so evaṃ vadeyya: Ahaṃ imaṃ Nāḷandaṃ ekena manopadosena bhasmaṃ karissāmīti.

Taṃ kiṃ maññasi gahapati: pahoti nu kho so samaṇo vā brahmaṇo vā iddhimā cetovasippatto imaṃ Nāḷandaṃ ekena manopadosena bhasmaṃ kātun – ti?...

Này gia chủ, ngươi nghĩ thế nào? Ở đây, có Samôn hay Bàlamôn có thần thông lực, có tâm tự tại. Người này nói như sau: “Ta sẽ làm cho Nālandā này trở thành tro tàn với một tâm sân hận”.

Này gia chủ, ngươi nghĩ thế nào? Vị Samôn hay vị Bàlamôn ấy, có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm cho Nālandā trở thành tro tàn với một tâm sân không?.

“Dasa pi bhante Nāḷandā visatiṃ - pi Nāḷandā tiṃsaṃ- pi Nāḷandā, cattārisaṃ - pi Nāḷandā, paññāsaṃ- pi Nāḷandā pahoti so samaṇo vā brāhmaṇo vā iddhimā cetovasippatto ekena manopadosena bhasmaṃ kātuṃ, kiṃ hi so bhati ekā chavā Nāḷandā ti.



- Bạch Thế Tôn! Cho đến 10 Nālandā, 20 Nālandā, 30 Nālandā, 40 Nālandā, 50 Nālandā, vị Samôn hay Bàlamôn có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm cho các Nālandā ấy trở thành tro tàn với một tâm sân, huống hồ gì một Nāḷanda nhỏ bé này, sao có thể chói sáng được (khỏi bị trở thành tro tàn được)...” (1)

Hai loại thần lực: Thần lực do phước, thần lực do sinh chủng, gọi chung là thần lực sinh lên do nghiệp (kammiddhi).

Lại nữa, sự sát sanh có hai cách: Giết theo cách chỉ định (uddisa) và giết không chỉ định.

Giết chỉ định là nêu rõ đối tượng bị sát hại. Như Devadatta sai một cung thủ đi ám sát Đức Thế Tôn, hay là một thợ săn thấy con cò đậu trên sừng con trâu, y nhắm bắn chết con cò.

Giết không chỉ định là không nêu rõ đối tượng, như người thợ săn nhìn thấy đàn thú đang chạy, y bắn vào đàn thú trúng con nào cũng được. Hoặc trong thí dụ trên, người thợ săn nhắm bắn con cò, không trúng con cò, lại trúng nhằm con trâu, con trâu chết. Đây là giết không chỉ định.

2- Giải về lấy của không cho (adinnādāna).

a- Theo từ ngữ

Adinna + ādāna = adinnādāna.

Adinna là “không cho”, ādāna là “lấy đi”.

Adinnādāna được dịch là “lấy của không cho”.

Vì sao không cho?. Bản sớ giải có giải thích: Adinnaṃ bao gồm những vật quý giá lẫn những vật bình thường, hay những vật mà người chủ yêu thích lẫn những vật không yêu thích.

Với vật có giá trị cao hay những vật mà chủ nhân của nó yêu thích, dù có xin cũng không được cho.

Với những vật có giá trị kém hay không yêu thích, nhưng khi xin chủ nhân cũng không cho, do nhân sân hận hay bỏn xẻn ...

Lấy những vật chủ nhân không cho, gọi là “lấy của không cho”.



Adinnādāna đối với vị Samôn ngoài ý nghĩa “lấy của không cho” còn hàm nghĩa: “Không xin vật có giá trị cao hay vật đáng yêu thích của người khác” và “với vật bình thường ít có giá trị, cũng không nên xin quá nhiều vì sẽ gây khó chịu cho người (bị xin)”.

Trong Tạng Luật (1) có ghi câu truyện về những vị Tỳkhưu trú ở thành Āḷavī, khi xây cất am thất, đã xin quá nhiều những vật dụng để xây cất như: Xin cho dao, xin cho búa, xin cho cỏ ống, xin cho cỏ thường... đã khiến dân thành Āḷavī bất mãn.

Khi gặp các vị Tỳkhưu, dân thành Āḷavī có khi hăm he chư Tỳkhưu, có khi lẫn tránh, đôi khi thấy con bò vàng thấp thoáng từ xa, ngỡ là Tỳkhưu họ vội vàng đóng cửa nhà lại vì e ngại “vị Tỳkhưu” đến xin vật dụng.

Đức Phật đã khiển trách chư Tỳkhưu thành Āḷavī qua những mẫu truyện sau.



Vị Ẩn sĩ xin ngọc của Long vương.

Thuở xưa, có hai vị ẩn sĩ là anh em, cùng cư ngụ bên bờ sông Gaṅgā (sông Hằng) nhưng ở cách xa nhau.

Có Long Vương Maṇikaṇṭha vượt sông Hằng đến nơi ngụ của vị ẩn sĩ em, sau khi đến, Long vương dùng thân quấn quanh thân vị ẩn sĩ bảy vòng, đầu ngẩng lên, phùng mang lớn rồi đứng yên. Vị ẩn sĩ do sợ Long vương nên sinh bịnh, thân gầy guộc vỏ vàng.

Vị ẩn sĩ anh đến thăm em, thấy thế hỏi rằng: “Này em, vì sao em gầy ốm tiều tụy, sinh bịnh vỏ vàng?”.

- Thưa anh, có con Long vương Maṇikaṇṭha đã vượt sông Hằng đến đây, sau khi đến nó dùng thân quấn quanh thân em bảy ngày, ngẩng đầu lên, phùng mang và đứng yên. Vì sợ con Long vương nên em sinh bịnh, thân thể vỏ vàng.

- Này em, em có muốn Long vương không đến nữa không?.

- Thưa anh, muốn chứ.

- Em có nhìn thấy vật gì của Long vương không?.

- Thưa anh, em thấy viên ngọc Maṇī là vật trang sức trên cổ của nó.

-Thế thì, em hãy xin Long vương viên ngọc Maṇī ấy đi.

Làm theo lời anh chỉ dạy, khi Long vương đến dùng thân quấn quanh thân vị ẩn sĩ bảy vòng, đầu ngẩng cao, phùng mang và trụ yên. Vị ẩn sĩ nói: “Này bạn, hãy cho tôi viên ngọc Maṇī, tôi cần ngọc Maṇī”.

Long vương suy nghĩ: “Vị ẩn sĩ xin ngọc Maṇī, vị ẩn sĩ cần ngọc Maṇī”, Long vương tháo thân mình trở về trú xứ của mình ngay.

Lần thứ hai, khi Long vương Maṇīkaṇṭha lội qua sông Gaṅgā thấy Long vương từ xa, vị ẩn sĩ nói: “Bạn ơi, hãy cho tôi ngọc Maṇī, tôi cần ngọc Maṇī”. Long vương suy nghĩ: “Vị ẩn sĩ cần ngọc Maṇī”, liền tháo lui trở về.

Lần thứ ba, khi thấy Long vương từ xa, vị ẩn sĩ cũng nói lên: “Bạn ơi, hãy cho tôi ngọc Maṇī, tôi cần ngọc Maṇī”.

Bấy giờ, Long vương nói với vị ẩn sĩ bằng kệ ngôn rằng:

Do nhân viên ngọc này.



Phát sanh đến cho tôi.

Thức ăn cùng thức uống

Dồi dào và quý hảo.

Tôi không cho Ngài ngọc.

Ngài kẻ xin thái quá.

Và tôi cũng chẳng đến.

Nơi am thất Ngài nữa.

Cũng như đứa trẻ con.

Tay rửa mảnh thủy tinh.

Khi Ngài xin đá ngọc.

Đã làm kinh sợ tôi.

Tôi không cho Ngài ngọc.

Ngài, kẻ xin thái quá.

Và tôi cũng chẳng đến.

Nơi am thất Ngài nữa”.

Rồi Long vương bỏ đi không trở lại nữa, vị ẩn sĩ vì không thấy con rồng, thương nhớ Long vương nên sinh bịnh, gầy guộc.

Vị ẩn sĩ anh lại đến thăm em, thấy thế, hỏi rằng: “Vì sao em gầy guộc, thân sinh bịnh vỏ vàng vậy?”.

- Thưa anh, vì không gặp được con rồng khả ái, nên em sinh bịnh.

Nghe vậy, vị ẩn sĩ anh đã nói lên kệ rằng:

Không xin xỏ, ước muốn



Vật yêu quí của ai

Con người đáng ghét bỏ.

Vì xin xỏ thái quá

Long vương bị phạm chí

Xin viên ngọc Maṇī

Đã không còn đi đến

Nơi ấy cho thấy nữa. (sđd).

(Đây nói về ý nghĩa “không xin vật quý hay vật đáng hài lòng của người).

Đối với những vật có giá trị thông thường, bậc Samôn cũng không nên xin quá nhiều (atiyācanaka), vì sẽ không được gia chủ thích ý, kính trọng, noi gương để tu tập (1). Câu chuyện sau đây là minh chứng.

Đàn chim bỏ đi.

Có vị Tỳkhưu trú nơi triền núi Hy mã lạp sơn, trong một khu rừng. Vị ấy bị đàn chim trú ngụ trong rừng khuấy rối, bởi chúng kêu gọi nhau ồn ào.

Vị Tỳkhưu ấy đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch trình lên Đức Thế Tôn về sự kiện này, Đức Thế Tôn phán hỏi vị Tỳkhưu ấy rằng:

- Này Tỳkhưu, vậy ngươi có muốn đàn chim không trở lại khu rừng ấy chăng?.

- Bạch Thế Tôn, con muốn đàn chim không còn trở lại khu rừng ấy.

- Vậy thì, này Tỳkhưu ngươi hãy đi sâu vào khu rừng ấy, ban đêm vào canh đầu hãy lớn tiếng ba lần: “Chừng bao nhiêu chim đang trú ngụ trong khu rừng này, tôi đang cần lá cây, xin mỗi con hãy cho tôi một lá”. Vào canh giữa và canh cuối cũng làm như thế.

Vị Tỳkhưu làm theo lời dạy của Đức Thế Tôn và bầy chim đi khỏi, không còn trở lại khu rừng ấy. (sđd).

(Đây nói về ý nghĩa “không xin quá nhiều vật không có giá trị cao).

Để khắc phục sự xin quá nhiều, Đức Thế Tôn có dạy chư Tỳkhưu pháp “biết đủ”.

“Cattārome bhikkhave, ariyavaṃsā aggaññā rattaññā vaṃsaññā porāṇā asaṃkiṇṇā asaṃkiṇṇapubbā, na saṃkīyanti na saṃkīyissanti, appaṭikuṭṭhā samaṇehi viññūhi. Katame cattāro?

Này các Tỳkhưu, có bốn truyền thống bậc Thánh được biết là tối sơ (aggaññā), được biết là truyền thống kỳ cựu, không có tạp nhiễm, không bị các Samôn, Bàlamôn có trí quở trách (appaṭkuṭṭhā). Thế nào là bốn?.

“Idha, bhikkhave, bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena cīvarena...



Ở đây, này các Tỳ khưu, vị Tỳkhưu biết đủ với bất cứ loại y nào...

“Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena piṇḍapātena..



Lại nữa, này các Tỳ khưu, vị Tỳkhưu biết đủ với bất cứloại vật thực khất thực nào...

Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena senāsanena...



Lại nữa, này các Tỳ khưu, vị Tỳkhưu biết đủ với bất cứ sàng tọa nào...

Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu bhāvanārāmo hoti bhāvanārato, pahānārāmo hoti pahānarato...



Lại nữa, này các tỳ khưu, vị Tỳkhưu ưa thích tu tập (bhāvanā), vui thích tu tập, ưa thích đoạn tận (pahāna), vui thích đoạn tận...(1)

Hành động lấy vật xin không được cho hoặc lấy vật chưa xin, gọi là theyya (trộm cắp).



b- Năm chi của giới trộm cắp.

- Vật có chủ gìn giữ (parapariggahitaṃ).

- Biết vật có chủ gìn giữ (parapariggahitataññitā).

- Có ý lấy (theyya cittaṃ).

- Cố gắng lấy (cepakkamo).

-Lấy được do sự cố gắng ấy (jena haranaṃ).

Giải:

- “Vật có chủ”.

Có hai loại: Vật của cá nhân, vật của tập thể.

Vật của cá nhân có hai:

- Vật của người tại gia (gihisantaka).

- Vật của bậc xuất gia (puggalasantaka).

Vật của cá nhân được phân tích rộng, có năm là:

- Vật của phàm nhân (puthujjanasantaka).

- Vật của bậc Dự lưu (sotāpannasantaka).

- Vật của bậc Nhất lai (sakadāgāmisantaka).

- Vật của bậc Bất lai (anāgāmisantaka).

- Vật của bậc Alahán (arahatasantaka).



Vật của tập thể, trong lãnh vực Phật giáo có hai:

- Vật của nhóm tăng (gaṇasantaka): Là vật của từ 2 - 3 vị Tỳkhưu hoặc của từ 2 -đến 3 vị sadi.

- Vật của tăng, là vật của từ 4 vị Tỳkhưu hay 4 vị sadi trở lên.

- “Biết vật có chủ gìn giữ”.

Là biết rõ chủ của vật ấy là ai, đồng thời hiểu rõ người chủ đang gìn giữ vật ấy.

Trong trường hợp một vật bị đánh rơi, dĩ nhiên vật ấy phải có chủ, người nhặt lấy vật ấy không rơi vào lấy của không cho, vì không biết người chủ là ai, và vật ấy không được chủ gìn giữ. Tuy nhiên, nếu biết rõ chủ nhân vật ấy, cố tình chiếm đoạt, xem như phạm vào trộm cắp.



- “Lấy được do sự cố gắng ấy”.

Bao gồm hai trường hợp:

- Lấy mang đi.

- Làm xê dịch vị trí ban đầu.

Nghĩa là: Một người tính trộm cắp, đã lấy được vật ấy, nhưng suy nghĩ lại: “Điều này là bất thiện, không nên làm”, người ấy trả lại vật đã lấy, người này vẫn phạm vào nghiệp trộm cắp.

Tuy nhiên, so với “lấy mang đi”, thì “trả lại vật lấy” có tội nhẹ hơn, sau này tài sản của người ấy cũng bị người khác muốn chiếm đoạt, nhưng họ không thể chiếm đoạt được.

Trong Tạng Luật, điều triệt khai thứ hai về giới trộm cắp của chư Tỳkhưu, có giải thích:

- Rằng “lấy” là cầm lấy, mang đi, lấy đem đi, thay đổi oai nghi, dời đổi vị trí, vượt qua chỗ qui định (sđd - số 86).

Vào thuở ấy, một vị Tỳkhưu đã đi vào sân phơi của thợ nhuộm, khi trông thấy vải đắc giá, đã sinh tâm trộm cắp, dời (tấm vải) khỏi vị trí. Vị ấy có sự áy náy rằng: “Phải chăng ta đã phạm tội triệt khai rồi?”.

Vị ấy trình bạch lên Đức Thế Tôn vấn đề này, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này Tỳkhưu, ngươi đã bị phạm tội triệt khai (bị trục xuất khỏi tăng đoàn) (sđd - số 128)”.



c- Có sáu cách lấy vật.

1- Tự tay lấy (trộm) (sāhatthika).

2-Bảo kẻ khác lấy (āṇatthika).

3- Lấy (trộm) bằng cách phóng vật khác ra (nissaggiya).

4- Lấy (trộm) bằng cách đặt bẩy (thāvara).

5- Lấy (trộm) bằng bùa chú (vijjāmaya).

6- Lấy (trộm) bằng thần lực (iddhimaya).

Giải:

-Tự tay lấy bảo người khác lấy vật ấy cho mình. Hai điều này cũng dễ hiểu.

-Trộm bằng cách phóng vật khác ra.

Với người có nghệ thuật điêu luyện, họ có thể quăng dây, tung vải lụa, cuốn chặt vật nào đó rồi thu hồi vật ấy về.

Hoặc huấn luyện những loài vật như chim, chó, mèo... đi trộm cắp cho họ.

Sự trộn thuốc gây mê vào vật thực, để bắt những con vật quý của người khác, cũng được liệt vào phần này.

Lại nữa, khi qua trạm thu thuế lén ném những vật phải nộp thuế vào chỗ khuất, sau đó đến nhặt lại, cũng gọi là lấy (trộm) bằng cách phóng ra (là trộm thuế).

-Trộm cắp bằng cách đặt bẩy.

Như đặt bẩy để bắt chó, mèo, ... của người khác. Ngoài ra, căn dặn đồng bọn “nếu có cơ hội hãy lấy vật này...vật này” (người đồng bọn xem như một bẩy rập), dù thời gian có dài bao lâu, khi người đồng bọn lấy được vật ấy, người dặn dò đã phạm vào nghiệp “lấy của không cho”.

-Lấy bằng bùa chú.

Là dùng bùa chú để mê hoặc tâm người, sau đó lấy đi những món vật mà nếu tỉnh táo, chủ nhân (vật ấy) sẽ không cho.

-Lấy bằng thần lực. Là nương vào thần lực có được để lấy.

Cậu bé niệm Phật

Có một cậu bé là con của người thợ rừng, cậu bé thường vui chơi trước cổng Jetavanavihāra (Kỳ viên tinh xá) củng với những đứa trẻ khác.

Mỗi khi chơi đùa, cậu thường niệm “Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa” và cậu thường thắng cuộc.

Một lần nọ, cậu theo cha vào rừng kiếm củi, vào buổi chiều, hai cha con dùng cơm nơi tha ma mộ địa, cha cậu tháo bò ra xe để bò đi ăn, bất ngờ con bò của họ đã theo đàn bò khác vào thành, người cha phải đi tìm bò.

Khi tìm được bò, trở ra thì cửa thành đã đóng, người cha đành nằm ngủ trong thành, còn cậu ngủ nơi xe củi của mình ở bải tha ma.

Vào nữa đêm, có hai dạ xoa đi vào mộ địa tìm thức ăn là những xác chết, thấy cậu nằm ngủ, một dạ xoa bảo: “Đứa bé này có đại thần lực, chúng ta chớ chạm vào nó”.

Dạ xoa kia không tin, liền vồ lấy cậu bé, giật mình tỉnh giấc, theo thói quen cậu liền niệm “Namo tassa...” con dạ xoa tưởng chừng như có ai đánh chùy vào đầu, nó kinh hoàng buông đứa bé ra bỏ chạy.

Để chuộc lỗi một dạ xoa canh giữ cho em bé ngủ, còn con kia vào hoàng cung lấy vật thực đựng trong mâm vàng dưng đến đứa bé, sau đó chúng dùng thần lực ghi rõ câu chuyện trên đĩa vàng và chỉ có Đức vua đọc được.(1)

Hoặc câu chuyện nữ chư thiên ở nơi ngạch cửa nhà ông Cấpcôđộc, dùng thần lực của mình lấy 18 triệu đồng tiền vàng ở đáy biển mang vào kho cho ông trưởng giả để chuộc lỗi.(2)

Đây là lấy bằng thần lực.

Các Giáo thọ sư dạy rằng: “Lấy bằng thần lực do nghiệp sinh ra (kammiddhi), không vi phạm trộm cắp thuộc tội lỗi thế gian (lokavajja), vì không đem về làm của riêng”, như trường hợp Đế Thích lấy Xálợi trên đầu ông Bàlamôn Dona, nữ thiên nhân lấy vàng ở đáy biển”.

Có lần Ngài Pilindavaccha dùng thần thông giải thoát 2 đứa bé là con của một gia chủ hộ độ Ngài, Ngài dùng thần thông mang 2 đứa bé trở về cho cha mẹ chúng (đây là “lấy vật bằng thần lực”, thần lực này do định).

Chư Tỳkhưu bàn về việc này, cho rằng “Ngài đã phạm vào giới trộm cắp, Đức Phật dạy: “Vô tội khi lấy bằng thần thông”.(3)

Theo Luận Atỳđàm, khi sử dụng thần thông phải là tâm thiện (hoặc tâm duy tác) Ngũ thiền, nên không hề có tham hay sân, mà trộm cắp là do tham hay sân điều sử.

Được gọi là trộm cắp (avahāra) do tiến hành theo sáu cách lấy là:

1- Lấy trộm (theyyāvahāra). Là lấy vật khi chủ (của vật ấy) không có mặt.

2-Lấy bằng cách hăm dọa (pasajhāvahāra).

Chữ pasajha nghĩa là “bằng vũ lực, bằng uy lực”.

Như kẻ cướp dùng vũ khí uy hiếp, lấy đi tài sản của người khác, hoặc bắt lấy người, hăm dọa đòi tiền chuộc.

Hay vua của một nước lớn, dùng uy lực của mình để chiếm đoạt những báu vật của nước khác...



3-Lấy bằng cách che dấu (paṭichannāvahāra).

Như Bàlamôn Doṇa, vị quốc sư của vương quốc Malla, đứng ra hòa giải cuộc tranh chấp Xálợi Phật giữa vương quốc Malla cùng bảy nước:

- Vua xứ Licchavī, thành Vesālī.

-Dòng Thích ca xứ Sakka, thành Kapilavatthu.

- Vua xứ Thulliya thành Allakappa.

- Vua Koliya xứ Rāma.

- Vua xứ Malla, thành Pāvā.

(Xứ Malla có hai quốc vương trị vì, một vị ở thành Kusinārā nơi Đức Thế Tôn Nípbàn, một vị ở thành Pāvā. Và vị ở thành Pāvā đem quân đến thành Kusinārā sau cùng, vì nghĩ mình ở gần Kusinārā nên không vội vả).

- Mahābrahma (Đại Bàlamôn) xứ Vetthadipaka, (xứ này dòng Bàlamôn nắm quyền như vua).

- Vua Ajātasattu (Axàthế) xứ Magadha (Makiệtđà).

Với sự hòa giải của Bàlamôn Doṇa, tất cả đều đồng ý là “Xálợi Phật được chia làm tám phần bằng nhau cho tám vương quốc”.

Khi chiêm bái Xálợi Phật, nhân lúc tám vị quốc vương buồn khổ Bàlamôn Doṇa nhanh tay dấu Xálợi răng nhọn hàm trên của Đức Phật vào búi tóc.

Nhưng ngôi Xálợi này, được vua trời Đế Thích thỉnh mang đi, tôn trí vào Bảo tháp Cūlamaṇī ở cung trời Đạo Lợi.

Hành động của Bàlamôn Doṇa hội đủ năm chi, được xem là lấy bằng cách che dấu. Và sự lấy của Thiên vương Đế thích xem như “lấy bằng thần lực”.

4- Lấy bằng cách xác định đồ vật hoặc thời gian (parikappāvahāra).

Như trong Tạng Luật, bộ Đại phân tích, điều học triệt khai thứ hai (trộm cắp) có ghi:

Có vị Tỳkhưu nọ, lúc ban ngày thấy sản vật, làm dấu nghĩ rằng: “Ban đêm ta sẽ lấy trộm”.

Vị ấy ghi nhớ vật đó và đã lấy trộm. Vị ấy có sự áy náy: “Phải chăng ta đã phạm tội triệt khai rồi”. Vị ấy trình bày sự việc đến Đức Thế Tôn, Ngài rằng: “Này Tỳkhưu, người đã phạm tội triệt khai”. (1)

5. Lấy bằng cách đánh tráo.

Như một người gửi đồ vật cho người, người kia có tâm trộm cắp đã đánh tráo đồ khác vào.

Hoặc như người bán hàng tráo hàng thật bằng hàng giả để giao cho khách hàng...

6- Lấy bằng cách phá hoại (atthasādhaka).L

Là phá hoại tài sản người, để khổ chủ không có hay mất đi lợi ích. Như lấy vải bỏ vào thùng chứa dầu, để vải thấm khô dầu...

Trong Tạng luật, điều triệt khai thứ hai (giới trộm cắp) có ghi: Có vị Tỳkhưu, tháo nước ruộng của người này sang ruộng người khác. Vị ấy áy náy “phải chăng ta đã bị tội triệt khai?”. Vị ấy trình bạch lên Đức Thế Tôn, Ngài rằng : “Này Tỳkhưu, ngươi đã phạm tội triệt khai”.



d- Quả của trộm cắp.

Trộm cắp cho quả là tái sanh vào khổ cảnh (địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ), nếu may mắn làm người sẽ là người bị hao tổn tài sản (bhogavyasanasamvattanika).(1)

Tài sản của người này sẽ bị tổn hại do:

- Bị lửa thiêu hủy.

- Bị nước cuốn trôi.



tải về 2.55 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương