LỊch sử phong trào công nhâN, viên chứC, lao đỘng và HỌat đỘng công đÒan bà RỊa vũng tàu giai đỌan 1930-2006


Phong trào công nhân và lao động Bà Rịa – Vũng Tàu trong thời kỳ chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”(1969-1973)



tải về 1.88 Mb.
trang10/17
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích1.88 Mb.
#2068
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   17

4. Phong trào công nhân và lao động Bà Rịa – Vũng Tàu trong thời kỳ chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”(1969-1973)

Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc địch phải chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiến hành “bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt” ở vùng nông thôn. Chương trình bình định cấp tốc bắt đầu thí điểm từ tháng 7-1968 và tiến hành toàn diện từ tháng 12-1968. Trong tháng 10 và tháng 11-1968, địch mở cuộc hành quân lớn vào khu vực Núi Dinh, đánh sâu đến tận khu vực Mây Tàu, phong tỏa các cửa khẩu, vùng căn cứ ta không mua được gạo, cán bộ, bộ đội bệnh đau nhiều, giảm sức chiến đấu. Các đồn điền cao su Bà Rịa nằm trong khu vực trọng điểm đánh phá của địch. Chúng mở nhiều cuộc hành quân càn quét các đồn điền Ông Quế, Cẩm Mỹ, Bình Sơn…, có đợt kéo dài đến 57 ngày đêm liên tục; một số nơi địch còn dùng B.52 đánh vào các lô cao su ở Ông Quế, Bình Sơn, Hàng Gòn… Lính biệt kích Úc còn luồn sâu vào các rừng Suối Cả, Cam Tiêm, Xà Bang đặt mìn, nằm phục kích cũng rất kiên trì. Mật độ hành quân dày đặc, dẫm nát những cánh rừng cao su để càn quét, cho máy bay rải chất độc hóa học làm trơ trụi cả lá cây rừng để ta không có chổ trú ẩn. Bên ngoài địch càn quét đánh phá liên tục, bên trong chúng o ép, kềm kẹp công nhân hết sức ác liệt.

Trong cuộc đọ sức quyết liệt với quân thù, nhiều bà con công nhân đã tỏ rõ ý chí kiên cường bất khuất như: bà Chín Chu, dì Chín Ngạc, chị Ba Ngọc (Bình Sơn), dì Bốn Lựu (Hàng Gòn) hoạt động bị bắt bớ đánh đập nhiều lần nhưng vẫn không lùi bước. Bà Nguyễn Thị Mùi (Bình Ba) bị địch bắn cụt 1 chân vẫn tiếp tục hoạt động. Nhiều bà mẹ công nhân liên tiếp động viên con em mình đi đánh giặc như má Sáu Bân (Bình Sơn) 5 người con hy sinh, má Dung (Bình Ba) có 11 vừa con vừa cháu thoát ly kháng chiến. Bác Ba Lý (Hàng Gòn) có 5 người con thoát ly thì 4 người đã anh dũng hy sinh. Má Thành ở Cẩm Mỹ chỉ có 2 con trai đều hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.

Ở vùng đồn điền cao su, Mỹ - ngụy tăng cường tối đa mức độ đánh phá, bình định. Mỹ - ngụy và chư hầu liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét dọc lộ 2, dùng máy bay ném bơm chiến lược B52 rải thảm trên những cánh rừng cao su bạt ngàn. Sau đó chia quân thành từng mũi nhỏ, cỡ trung đội, thọc sâu vào căn cứ.... Cuộc hành quân “Toàn thắng” do Sư đoàn 18 tiến hành kéo dài 57 ngày nhằm cắt đứt đường hành lang tiếp vận quan trọng của ta từ căn cứ của tỉnh lên chiến khu Đ. Kết hợp với hành quân càn quét là kế hoạch bắt lính, phản động hóa quần chúng, triệt hạ cơ sở cách mạng ở các đồn điền. Tất cả những người không ở độ tuổi quân dịch ( thiếu niên 16-17 tuổi và trung niên 46-55 tuổi ) bị ép buộc vào “lực lượng phòng vệ dân sự” và “phòng vệ xung kích”. Đối với các gia đình có chồng con theo cách mạng chúng kiểm soát gắt gao, cấm ra khỏi “ấp chiến lược” gài mìn phục kích quanh nhà, thực hiện âm mưu “bao vây sự sống”. Mỹ - ngụy còn tổ chức mạng lưới “tình báo nhân dân”, thành lập các đội “Phượng Hoàng”, “Thiên Nga” xăm xét từng nhà, dùng thủ đoạn lập hồ sơ giả, ly gián quần chúng, gây hòai nghi giữa cán bộ, đảng viên. Bắt chủ đồn điền giảm tiêu chuẩn gạo phân phát cho công nhân từ 700gr/ngày xuống còn 500 gr/ngày, tìm mọi cách ngăn chặn mối quan hệ của quần chúng với cách mạng.

Đảng ủy Cao su xác định quyết tâm bám đất, bám dân, bám đồn điền, dù hoàn cảnh nào cũng duy trì phát triển cơ sở trong công nhân các đồn điền, tiến tới phát động quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, giải phóng đất đai. Phương châm hoạt động là lập cơ sở bí mật trong các tổ chức quần chúng hợp pháp do địch lập ra, sử dụng “phòng vệ dân sự” làm tự vệ cách mạng, đánh địch từ bên trong ra, bên ngoài vào. Do có chủ trương đúng đắn, lại được quần chúng nhiệt tình giúp đỡ, Đảng bộ đồn điền cao su đã bám trụ trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo, nhiều cán bộ đảng viên và quần chúng cách mạng bị giặc bắt, tra tấn vẫn giữ vững khí tiết, anh dũng hy sinh. Nhiều tấm gương kiên cường của công nhân cao su như bà Nguyễn Thị Mùi, gia đình Má Dung ở Bình Ba… đã cống hiến nhiều người thân cùng với của cải; máu xương cho cách mạng.

Khu vực căn cứ Bàu Sen, pháo binh địch bắn liên tục bất kể ngày đêm. Biệt kích Mỹ, Úc phục kích trên khắp tuyến đường ra vào căn cứ, mìn bẫy địch gài đủ loại trong rừng, trên khắp các đường mòn, tuyến giao liên của ta. Lộ 2 từ Cẩm Mỹ qua Xà Bang, xuống Bình Ba trở thành con đường máu. Quân Úc hoá trang phục kích cả ngày và đêm, trong rừng rậm gai góc cũng như ven các bàu sình. Nhiều cán bộ của huyện, cán bộ các đồn điền đã ngã xuống. Đồng chí Chín Phấn, Bí thư chi bộ Xà Bang trên đường công tác từ Hàng Gòn về Ông Quế cùng đồng chí Chế giao liên của Đảng ủy Cao su đã lọt vòng kích của giặc và đã hy sinh. Đồng chí Sáu Thích được cử về tăng cường làm bí thư chi bộ Xà Bang (cùng đồng chí Hai Nguyên, Phạm Văn Hải…).

Cả Huyện ủy Châu Đức, cán bộ chiến sĩ các xã dọc lộ 2 đề phải rút về căn cứ Bàu Sen. Vận động lương thực lúc này là nhiệm vụ hàng đầu. Từ căn cứ Bàu Sen đột nhập vào các ấp để gặp được dân, vận động thu mua được gạo là một thử thách gay go đối với cán bộ và chiến sĩ ở căn cứ. Trên mặt trận này rất nhiều đồng chí cơ sở cách mạng ở Bàu Sen đã ngã xuống. Cán bộ chiến sĩ ở căn cứ Bàu Sen, khu vực Xà Bang phải thường xuyên ăn mít thay cơm. Bà Ba Kè ở Cẩm Mỹ có rẫy ở Xà Bang, chỗ nào có cán bộ, bộ đội là bà đều tiếp tế. Thiếu gạo, bà đào khoai chụp cho anh em. Đó là tấm lòng của dân với cách mạng.

Trong tình hình cực kỳ khó khăn, các lực lượng vũ tranh, cán bộ, nhân dân vùng căn cứ Bàu Sen nhận được tin đau xót: Bác Hồ kính yêu, lãnh tụ của dân tộc không còn nữa. Nỗi đau này là vô hạn. Mất mát này vô cùng lớn lao. Đảng ủy đồn điền cao su đã tổ chức lễ truy điệu Bác tại căn cứ Bàu Sen. Với mảnh băng tang trên ngực, tất cả hướng về di ảnh Bác trong niềm xót thương dâng tràn. Các lực lượng vũ tranh quân khu, tỉnh, huyện, du kích đeo băng đỏ trên cánh tay với dòng chữ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, nguyện biến đau thương thành hành động cách mạng, chiến đấu không ngừng vì lý tưởng cao cả của Bác Hồ. Chi bộ mật Xà Bang đã tập họp công nhân sau giờ làm việc158 để tưởng niệm, tưởng nhớ công ơn trời biển của Bác - Người đã đem đến độc lập và tự do cho toàn dân tộc. Xúc động bùi ngùi, công nhân Xà Bang nguyện ra sức phấn đấu theo gương Bác, làm hết sức mình vì sự nghiệp kháng chiến. Trong niềm xót thương vô hạn Bác, cán bộ, chiến sĩ căn cứ Bàu Sen đã ra sức chiến đấu bảo vệ căn cứ, chống địch càn quét, bình định. Các du kích Xà Bang cùng bộ đội tỉnh liên tục chống càn, dùng mìn trái gài đánh diệt nhiều xe tăng của chúng. Tiêu biểu là em Hà Anh Tịnh du kích 15 tuổi trong một trận chống càn đã bắn 5 phát Carbine làm rơi một trực thăng diệt chết tên giặc lái người Úc tại sở Hoa Lạc.

Tháng 3 năm 1970, Đảng bộ cao su tổ chức Đại hội Đảng bộ tại rừng quýt Tân Lập. Huyện ủy mới được đại hội bầu ra gồm 12 người do đồng chí Ba Liễng làm Bí thư. Nhiệm vụ trọng tâm đại hội đề ra là vấn đề xây dựng lực lượng, vận động công nhân đóng góp nuôi quân, đẩy mạnh ba mũi giáp công phá thế kìm kẹp; kết hợp giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị đòi quyền dân chủ, cải thiện đời sống công nhân. Lực lượng vũ trang của đồn điền cao su được tỉnh tăng cường một đại đội, ngoài ra còn một trung đội phân tán về các đồn điền tổ chức lực lượng du kích cơ sở.

Năm 1970 đội du kích Bình Ba được khôi phục, tổ chức một số trận tập kích diệt ác, phá kềm có tiếng vang lớn. Phong trào đấu tranh chống bắt lính không vào “Phòng vệ dân sự” đòi tiêu chuẩn 700gr gạo một ngày... liên tiếp nổ ra ở các đồn điền, khiến Mỹ - ngụy nao núng. Tuy phong trào công nhân cao su thời kỳ này không có những cuộc đấu tranh quy mô lớn, nhưng nó chứng tỏ ý chí kiên trung, bất khuất của giai cấp công nhân, không một sức mạnh nào có thể bóp chết. Lúc này lực lượng ở Bình Ba bị địch đánh phá tổn thất rất nghiêm trọng, hy sinh gần hết. Lực lượng A của xã chỉ còn một người. Huyện ủy bổ sung đồng chí Bình Chồi làm Xã đội trưởng cùng một số cán bộ như anh Diệp, chị Mười Thanh và anh Chức.

Tháng 2 năm 1971 tỉnh điều động đồng chí Nguyễn Thị Thanh (Ba Thanh) Hội trưởng phụ nữ huyện Định Quán về huyện Châu Đức tập huấn về tình hình, nhiệm vụ và phân công phụ trách Bí thư xã Bình Ba. Thời điểm này quân Úc đang đánh phá rất ác liệt, căn cứ xã Bình Ba phải liên tục di dời, khi ở Đông lộ 2, khu vực lô 12, lô 13, gần Đá Bạc, ở ven rừng, giáp lô, ven những dòng suối nhỏ; khi phải chuyển về Tây lộ 2 ở khu vực lô 77, lô 103, có suối Lúp, nhiều tre, đồng bào đi bẻ măng, gài bẫy, đem gạo cho ăn.. Lực lượng xã bám gần suối Đá Bạc, chặt chuối xanh nấu ăn thay cơm, hàng ngày bám lô cao su tìm cơ sở. Có lúc địch đánh rát quá, ban đêm cả 5 người (lực lượng A) phải vượt qua Tây lộ 2 để móc nối công nhân, tìm lại số cơ sở mất liên lạc. Được sự hỗ trợ của bộ đội huyện, du kích dò mìn cắt hàng rào kẽm gai của địch, đột kích ấp chiến lược Bình Ba, gỡ trái gài đánh địch. Từng bước móc nối được cơ sở. Má Nguyễn Thị Sum đưa được 2 bọc gạo nhỏ giấu trong áo ngực nấu cháo ăn dần, đỡ xót ruột trong khi mấy tháng phải ăn chuối thay cơm. Ông Nguyễn Văn Cận (Năm Cận) cũng là một cơ sở cốt cán, trong những năm ác liệt nhất ông vẫn tìm mọi cách móc nối, tiếp tế cho cách mạng từng lon gạo, viên thuốc, cho tiền. Chị Tư Lan (đảng viên mật ở Xà Bang) cũng chủ động tìm lực lượng A để tiếp tế gạo, quần áo.

Từng bước, chi bộ Bình Ba xây dựng lại cơ sở quần chúng, vận động bà con cho con em tòng quân, rải truyền đơn cảnh cáo bọn ác ôn, diệt ác phá kềm tạo thế chuyển vùng, xây dựng tự vệ mật, cơ sở mật. Đội du kích Bình Ba xây dựng được hơn 10 đội viên hoạt động mạnh phục vụ cho chiến dịch. Cơ sở cốt cán ở Bình Ba đào hơn 10 hầm bí mật để che chở, nuôi giấu cán bộ hoạt động cách mạng. Hầm bí mật đào trong nhà, ngoài vườn, dưới rừng tre cạnh suối (lô 12, 13 Đá Bạc). Ấp Đức Mỹ có nhiều hầm, trong đó có hầm ở nhà má Sum, nhà ông Hai Bê, ông Tư Bi. Chị Phạm Thị Nguyệt được giao nhiệm vụ tổ chức Đội Thiếu nhi trong xã Bình Ba, mỗi ấp từ 10 đến 20 em, mỗi tối đều sinh hoạt, dạy các em ca hát, ban ngày cho các em đưa thư từ, nắm tình hình, tin tức, rải truyền đơn cách mạng, thu truyền đơn của địch đem đốt. Nhiều em hoạt động tích cực và trưởng thành những cốt cán trong thanh niên những năm sau.

Chị Võ Thị Của là cơ sở an ninh mật (từ tháng 7 năm 1968) được cử phụ trách an ninh xã Bình Ba (năm 1971)159 đã tăng cường công tác nắm tình hình địch, phục vụ lực lượng vũ trang đánh địch. Chị Võ Thị Của tổ chức 10 cơ sở an ninh, trong đó phần lớn là phụ nữ như chị Gái, chị Dư Thị Có, chị Năm Tiền, Nguyễn Thị Hợi, Hồ Thị Nhật, Nguyễn Văn Phòng… Ngụy quyền đã treo giải 25.000 đồng (tương đương 2 lượng vàng) cho ai bắt hoặc báo cho chúng biết thông tin về chị Của.

Các lực lượng cách mạng huyện bám căn cứ Bàu Sen, có cả lực lượng Trung đoàn 4, bộ đội huyện cao su, lực lượng A của một số chi bộ đồn điền và hậu cần tỉnh đội… Các đơn vị lực lượng trong căn cứ đều phải có hầm hào ẩn nấp và đảm bảo nguyên tắc bí mật không gây tiếng động, không gây khói để cho địch phát hiện bắn phá. Tỉnh ủy xây dựng căn cứ hầm lớn ngay chân Núi Le sâu vào lòng đất để đảm bảo an toàn. Căn cứ Bàu Sen không một ngày im tiếng bom, pháo giặc từ Suối Râm, núi Đất, đồi con Rắn bắn vào. Các chiến sĩ hậu cầu Tỉnh đội ở căn cứ Bàu Sen vừa phải khai thác thu mua lương thực phục vụ tuyến trước, vừa chiến đấu bảo vệ căn cứ, kho tàng khi địch lọt vào.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội, chi bộ Đảng Xà Bang đã đưa chị Tư Tâm, một cơ sở cốt cán về Bình Ba, Suối Nghệ liên lạc với bà con công nhân ở đây, vận động đồng bào đấu tranh đòi về lại sở cũ làng xưa sinh sống. Bà con đã làm đơn kiến nghị lên chính quyền Bà Rịa và chủ sở Bình Ba xin về lại Xà Bang, lý do để thận tiện cho việc cạo mủ ở sở không phải xe đưa đón và về lại đất cũ để canh tác ngoài giờ lao động. Giữa năm 1970, chính quyền Bà Rịa đồng ý cho công nhân Xà Bang về lại đất cũ. Những gia đình đầu tiên trở lại Xà Bang là bà Nguyễn Thị Tâm, bà Mười Mua, ông Phước Cầu, ông Quậy, bà Công… sau đó lần lượt gần 20 gia đình khác cũng trở về Xà Bang sinh sống, tạo thuận lợi cho việc liên lạc và tiếp tế cho cách mạng.

Ở Thị xã Cấp (Vũng Tàu), thời kỳ Mỹ - ngụy thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” phong trào công nhân và nhân dân lao động bị giặc khủng bố, chia rẽ, nhưng vẫn có xu hướng khôi phục và phát triển. Thị ủy Vũng Tàu tiếp tục đẩy mạnh phong trào nội thị, phát triển các cơ sở đã khôi phục từ năm 1968, chú trọng công tác binh vận, địch vận, kết hợp vũ trang, tập kích tiêu hao sinh lực địch. Tháng 6-1969, Tỉnh ủy rút đồng chí Nguyễn Hoan, cử đồng chí Sáu Hùng Yên làm Bí thư thị xã Vũng Tàu. Đồng chí Võ Thị Dậu là Phó Bí thư, bám trụ tại nội ô Vũng Tàu.

Thực hiện phương châm trên, Thị ủy chỉ đạo cán bộ đảng viên bằng mọi cách cố gắng móc ráp những cơ sở cũ, quá trình bị đứt hoặc bị địch đánh phá phải nằm im, từ cơ sở cốt cán, tiếp tục phát hiện người tốt, tạo ra chỗ đứng chân, bám trụ hoạt động. Ban cán sự xây dựng cơ sở quần chúng rồi bố trí theo đường biển vào hoặc từ Long Sơn đi qua; xây dựng trong số ngư dân làm ghe câu đánh vào, bám địa bàn từ Bến Đá tới Thắng Nhì. Ở Bến Đá xây dựng được một số cơ sở như gia đình anh Hai Phúc, anh Hai Mạnh (từ Cần Giờ qua), gia đình bà Bảy Thóc (móc từ khóm Lê Lợi và khóm Chợ). Khu vực Bến Đình có gia đình bà Tám Siêng, ông Tám Anh, bà Huỳnh Thị Trình, bà Hai Mặn, các chị Kim Anh, Ba Cùi, ông bà Hai Sáng, cô Chân, cô Mai. Gia đình ông Tám Hiệp, ông Tư Đó là những cốt cán, tổ chức thêm được nhiều cơ sở như gia đình anh Của,… Ở Châu Thành, đồng chí Lê Tất Hùng cũng phát triển thêm nhiều cơ sở mới. Ở Thắng Tam, đồng chí Dương Văn Hai vừa chú trọng xây dựng các cơ sở trong nhà máy nước, nhà máy đèn, vừa xây dựng các cơ sở trên địa bàn, trong đó có chị Nguyễn Thị Ninh (đoàn viên) lao động dịch vụ ở Bãi Sau. Từ năm 1969 cơ sở cách mạng được phục hồi trong công nhân Nhà Đèn, Nghiệp đoàn chài lưới, buôn bán, xe lam.

Thị ủy Vũng Tàu đã chỉ đạo cán bộ công vận thâm nhập vào các tầng lớp quần chúng lao động phát triển cơ sở nòng cốt. Tháng 4-1969 cơ sở cách mạng trong đồng bào chài lưới tổ chức đấu tranh, nêu kiến nghị phản đối tàu chiến Mỹ - ngụy bắn phá tàu thuyền, đòi mở rộng ngư trường, chống tăng giá dầu vô tội vạ... Cuộc đấu tranh được 300 gia đình ngư dân hưởng ứng có tiếng vang trên địa bàn thị xã. Do sức mạnh đoàn kết của quần chúng với khẩu hiệu đấu tranh có lý, có tình, chính quyền Mỹ - ngụy buộc phải chấp nhận yêu sách.

Sau cuộc đấu tranh, quần chúng phấn khởi tin tưởng vào cách mạng và cán bộ, đảng viên. Tận dụng điều kiện hợp pháp, cơ sở cách mạng trong đồng bào chài lưới tiếp tục vận động quần chúng lập nghiệp đoàn ngư phủ với cương lĩnh đấu tranh bảo vệ quyền lợi kinh tế, chính trị của ngư dân. Nhân ngày Phật Đản năm 1970 Thị ủy quyết định phát động phong trào chống chiến tranh xâm lược, chống những hành động khủng bố dã man, đòi Mỹ rút quân về nước, đòi tự do dân chủ và hòa bình…

Năm 1971, Thị đội Cấp đưa lực lượng vào Vũng Tàu bám trụ, xây dựng lực lượng tự vệ mật. Phương châm chỉ đạo của Tỉnh ủy là tích cực xây dựng cơ sở bí mật ở các phường; cài cắm cán bộ, lợi dụng các nghiệp đoàn công khai đề lập tổ chức cách mạng, trong công nhân phụ nữ, thanh niên, học sinh, tranh thủ lập đoàn thể nửa hợp pháp nửa vận động quần chúng đấu tranh. Cán bộ bám trụ tăng cường thêm đồng chí Ngô Thị Bảy (trước hoạt động ở Biên Hòa), và các đồng chí Hai Liên, Ba Sóc, đồng chí Hùng (Trung đội trưởng đặc công) vào chỉ huy lực lượng tự vệ mật trong thị xã160. Phương châm chỉ đạo chung đối với lực lượng hoạt động nội thị là tiến hành xây dựng cơ sở mật đưa phong trào quần chúng, sử dụng lực lượng hình thành những tổ chức bán công khai để làm chân rết cho lực lượng bí mật bên cạnh lực lượng bán công khai, tiến hành tổ chức lực lượng công khai, tận dụng hình thức công khai kết hợp ba mặt trong đường lối đấu tranh đô thị của Đảng.

Để đẩy mạnh phong trào đấu tranh tại nội ô Vũng Tàu, Thị ủy đã chỉ đạo củng cố các nghiệp đoàn xe lam, tắcxi, nghiệp đoàn chài lưới, nghiệp đoàn chị em buôn gánh bán bưng,… thành lập Liên minh Dân chủ - Tranh thủ hòa bình ra đời. Được sự nhất trí của Tỉnh ủy, Thị ủy Cấp đã vận động bác sĩ Trần Cao Đễ ra ứng cử hạ nghị viện ngụy và vận động quần chúng nhân dân Vũng Tàu bỏ phiếu cho Trần Cao Đễ đắc cử161, đánh bại đối thủ do Thị trưởng Vũ Duy Tạo vận động. Sau khi đắc cử, Trần Cao Đễ đứng về phe đối lập, chống chiến tranh, đòi lập lại hòa bình ở Việt Nam, ủng hộ phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ do Đảng ta phát động. Phong trào nghiệp đoàn, hiệp hội quần chúng tại Vũng Tàu vẫn tiếp tục phát triển với các hình thức hợp pháp như lửa trại, văn nghệ, lập “Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình" nhằm cổ vũ ý thức dân tộc, đòi Mỹ rút quân, phản đối chiến tranh xâm lược…

Trong thời kỳ gian khổ và ác liệt, Tỉnh ủy vẫn chú trọng nâng cao đời sống văn hoá, lập trường tư tưởng và bồi dưỡng tinh thần chiến đấu cho đội ngũ công nhân và lao động. Tiểu ban Tuyên truyền Văn nghệ thuộc Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy cử cán bộ xuống cơ sở, về vùng công nhân cao su, vào các đơn vị vũ trang, các vùng vừa giải phóng, các vùng ven và vùng trong lòng địch chiếu phim, nói chuyện thời sự. Đoàn đã được anh em du kích, tự vệ cao su và cơ sở bảo vệ, canh gác tổ chức chiếu phim phục vụ nhân dân, qua đó tuyên truyền trong quần chúng nhằm cổ vũ hành động cách mạng của nhân dân với các phim: "Lửa trung tuyến", "Đội xích vệ trên sông Hoàng Hà", "Con chim Vành khuyên", "Chị Tư Hậu"… Ngoài nguồn nhựa còn có phim đèn chiếu với những hình vẽ châm biếm, phim âm bản chụp lại những gương chiến sĩ điển hình tiên tiến, anh hùng dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt xe tăng, dũng sĩ bắn máy bay, gương các mẹ, các chị tiêu biểu trong lao động sản xuất, nuôi quân, chăm sóc thương binh, trong phong trào đấu tranh chính trị với địch, cổ vũ kịp thời phong trào công nhân và lao động trong tỉnh.

Từ giữa năm 1971, ta đã giải phóng nhiều địa bàn thuộc các sở cao su Láng Lớn, Xà Bang… Nhiều gia đình công nhân ở Cẩm Mỹ bỏ sở về vùng giải phóng thuộc sở Hoa Lạc. Các sở Bình Ba, Cẩm Mỹ, Hàng Gòn, Ông Quế… là vùng tranh chấp mạnh giữa ta và địch. Công nhân cao su trong vùng giải phóng tích cực sản xuất, xây dựng làng chiến đấu, cùng với du kích và bộ đội đánh địch lấn chiếm. Tại xã giải phóng Láng Lớn, trường tiểu học được xây dựng, thu hút hàng trăm con em công nhân và nhân dân lao động theo học. Hệ thống trạm xá, trạm điều trị cũng được tổ chức nhiều nơi để phục vụ nhân dân, khám và điều trị cho con em công nhân cao su.

Đến tháng 7-1971 công nhân Xà Bang từ Bình Ba, Suối Nghệ, Láng Lớn… trở về đã được tập hợp và tổ chức. Chi bộ Xà Bang đã xây dựng được 38 cơ sở cốt cán trong tổng số 135 dân. Cuối năm 1971, chính quyền cách mạng xã Láng Lớn được xây dựng do đồng chí Sáu Thích làm Chủ tịch, ủy ban cách mạng xã đã thực hiện tạm cấp đất cho nhân dân. Phong trào vỡ đất hoang sản xuất trong khu Bàu Sen được phát triển khá mạnh. Ngoài thời gian đi cạo mủ và tăng gia sản xuất, công nhân khu căn cứ Bàu Sen còn kết hợp du kích các xã Láng Lớn, Cẩm Mỹ… tham gia phá lộ, đắp mô trên lộ số 2 phục vụ cho các đơn vị bộ đội đánh địch.

Chi bộ, chính quyền cách mạng vận động công nhân đấu tranh với bọn chủ sở, yêu cầu phải phát gạo tốt và đúng kỳ, đấu tranh với chính quyền ngụy cho công nhân về thị xã Long Khánh mua gạo. Chị Tư Lan, đảng viên mật tổ chức từng tốp nữ công nhân đi bộ từ Xà Bang đến Hàng Gòn đón xe về thị xã Long Khánh, mua gạo rồi đón xe về, gánh bộ từ Hàng Gòn về Bàu Sen. Hầu hết số gạo này, bà con đều chuyển giao lại cho cán bộ, bộ đội trong căn cứ.

Từ ngày 28-1-1972, cùng với Trung đoàn 33 Quân khu, bộ đội địa phương huyện cao su, du kích các đồn điền nhất loạt nổ súng tiến công vào các đồn bót địch trên lộ 2, giải phóng Láng Lớn, Quang Minh, Châu Lạc, Việt Cường… tạo thế liên hoàn cho căn cứ Bàu Sen, mở rộng bàn đạp đứng chân các lực lượng về hoạt động.

Tháng 3-1972, Chiến dịch Nguyễn Huệ nổ ra trên toàn Miền. Đêm 22 rạng ngày 23-4-1972, du kích sở Bình Ba phối hợp Đại đội 24 đặc công Trung đoàn 33 tiến công Chi khu Đức Thạnh. Ta diệt 180 trong tổng số 220 tên lính chi khu, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Bọn địch ở đồn 64 Bình Ba hoảng sợ rút chạy về Suối Nghệ. Ta giải phóng Bình Ba, đưa hàng chục gia đình công nhân về lại vùng giải phóng Xà Bang. Trong Chiến dịch Nguyễn Huệ (năm 1972), du kích Bình Ba diệt tên ác ôn Bảy Dốc. Cùng thời gian trên, bộ đội địa phương huyện cao su cùng du kích các đồn điền đánh vào các đồn bót địch ở lộ 2, tiêu diệt chốt dân vệ Láng Lớn, núi Con Rắn, đồi Con Chim… Gần 20 thanh niên đã thoát ly tham gia du kích.

Ở đồn điền Ông Quế, du kích và đơn vị D6 bộ đội chủ lực tiến công 2 trận vào bọn bảo an diệt 2 trung đội địch. Công nhân ở đây đã phấn khởi đã vùng lên diệt ác phá kềm, làm chủ ấp Trung Hậu, cô lập bọn địch ở ấp Trung Đạo. Từ đó ta quy định cho bọn địch khi xuống ấp Trung Hậu không được mang vũ khí, bọn địch phải chấp nhận điều kiện của ta. Một chị công nhân đã vận động được lính bảo an mang 3 súng về với cách mạng, tham gia du kích đánh giặc. Trong thời gian này Đoàn Văn công của tỉnh được đưa về phục vụ công nhân và nhân dân ở vùng giải phóng lộ 2 và Ông Quế. Phấn khởi trước bước phát triển của phong trào cách mạng, công nhân ở các sở cao su đã đưa hàng trăm công nhân em tham gia du kích và lực lượng vũ trang.

Đồng chí Nguyễn Thị Thanh (Ba Thanh) Bí thư Chi bộ Bình Ba trực tiếp chỉ huy một tổ du kích vào tận Sở cao su Bình Ba, bắt tên chủ Tây, bắt chúng chuộc 100.000 đồng để mua lương thực thực phẩm cho bộ đội162. Đồng chí Nguyễn Thị Thanh còn vận động Linh mục Phạm Hữu Công cung cấp gạo, cá cho bộ đội. Linh mục Phạm Hữu Công người Bắc di cư, vốn rất nhân hậu, trong xứ có ai khó khăn đều được ông giúp đỡ, ai bị chính quyền ngụy bắt bớ, giam cầm, ông cũng đến xin tha cho. Khi được giác ngộ, ông đã giúp đỡ anh em cách mạng rất thật lòng. Những lúc bộ đội đói, tiếp tế không kịp, thiếu gạo, cha xứ lên làng Bình Giã mua gạo về để dành cho anh em ông đi chiếc xe hơi riêng, bọn lính không xét. Khi cán bộ về liên hệ, ông xuất kho cung cấp gạo, cá cho cách mạng. Trong chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), bộ đội chủ lực (Trung đoàn 33) thương vong nhiều, ông mở hầm chứa thương binh, cho gạo, cá, thuốc tây, mua giúp cách mạng nhiều hàng khan hiếm. Anh Năm Gõ, công nhân lái xe đồn điền Bình Ba chở nước ra lô, giấu gạo (bọc nilong kín) trong két nước, chuyển được rất nhiều gạo phục vụ chiến dịch.

Ở Bà Rịa, Vũng Tàu thế và lực của cách mạng ngày càng vững mạnh. Vùng giải phóng mở rộng. Các đồn điền cao su dọc lộ 2 được giải phóng hàng loạt như Láng Lớn, Xà Bang, Tân Việt… vùng Bình Ba tuy chưa giải phóng nhưng lực lượng vũ trang cao su đã đẩy mạnh hoạt động, gây cho địch những tổn thất nặng nề.

Ở thị xã Bà Rịa, Thị xã Cấp (Vũng Tàu) cũng như các vùng địch tạm chiếm trên toàn tỉnh, phong trào công nhân và lao dộng phát triển mạnh mẽ; hàng loạt nghiệp đoàn lao động ra đời; liên tục tổ chức đấu tranh bằng hình thức hợp pháp kết hợp bất hợp pháp. Để biểu lộ tinh thần đoàn kết đấu tranh của giai cấp công nhân toàn miền Nam, công nhân và lao động Vũng Tàu đã tổ chức quyên góp ủng hộ phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn (năm 1972) đang diễn ra sôi nổi, rầm rộ. Quần chúng lao động Vũng Tàu đã nhiệt tình hưởng ứng cuộc vận động quyên góp được 60.000.000đồng, 300 kg gạo, 600 ổ bánh mì… Sau đó khẩn trương cử đại biểu chuyển gạo, tiền về Sài Gòn hăng hái đấu tranh.

Chuẩn bị cho đợt chồm lên chiến lĩnh cuối năm 1972, theo chỉ thị của chi bộ Xà Bang, cơ sở đã tổ chức thu gom lương thực cho bộ đội vào đợt và bí mật mua vải xanh vải đỏ từ Bà Rịa và Long Khánh về để may cờ. Chị Hai Cần (Tư Lan) với chiếc máy may ở nhà đã may hàng chục lá cờ giải phóng lớn, nhỏ để bộ đội, du kích, nhân dân nổi dậy chiếm lĩnh. Các đồng chí Tư Hổ (Thường vụ Đảng ủy), Tư Sửu, Tư Đường (Đảng ủy viên) trực tiếp cùng các cơ quan hậu cần tỉnh đội chuẩn bị lương thực, xay xát gạo dự trữ cho bộ đội và các lực lượng. Cờ giải phóng do cơ sở Bàu Sen may đã tung bay khắp các đồn điền cao su Bình Ba, Suối Nghệ, ấp Suối Sóc, Láng Lớn trong đợt chồm lên chiếm lĩnh. Bọn tề ngụy đều bỏ trốn. Vùng làm chủ của ta từ Long Khánh xuống Suối Nghệ, Bình Ba được mở rộng nối thông với căn cứ Bàu Sen.



5. Phong trào công nhân và lao động Bà Rịa – Vũng Tàu chống Mỹ - ngụy phá hoại Hiệp định Paris, giải phóng toàn tỉnh (1973-1975)

Ngày 27-1-1973, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris về Việt Nam và Đông Dương, cam kết rút hết quân đội nước ngoài khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt ném bom miền Bắc tôn trọng quyền độc lập, tự do, và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trước khi thành lập chính phủ liên hiệp, tổng tuyển cử thống nhất đất nước các bên còn lại ở miền Nam thực hiện ngừng bắn tại chỗ theo sự giám sát của phái đoàn quân sự 4 bên và ủy ban quốc tế. Hiệp định Paris là một thắng lợi lớn trên mặt trận ngoại giao của nhân dân Việt Nam, đồng thời nó chứng tỏ thế và lực của cách mạnh miền Nam đã lớn mạnh vượt bậc. Tuy vậy đế quốc Mỹ vẫn chưa cam chịu thất bại, chúng ráo riết đổ thêm vũ khí, viện trợ kinh tế, kỹ thuật, giúp ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu tiến hành những cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, phá hoại Hiệp định Paris, thực hiện âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” xóa bỏ sự tồn tại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Quân đội Giải phóng.

Trên địa bàn Bà Rịa – Vũng Tàu bấy giờ khá phức tạp, 2 thị xã Bà Rịa, Vũng Tàu thuộc vùng quân đội ngụy chiếm đóng, các vùng Châu Đức, Long Đất, Xuyên Mộc ở thế cài răng lược. Địch bố trí các Tiểu đoàn lính bảo an 371, 372 tại Tiểu khu Phước Tuy và Chi khu Đức Thạnh, củng cố căn cứ Núi Đất, Phú Mỹ thành sở chỉ huy trung đoàn và liên đoàn bộ binh chủ lực. Vùng đồn điền cao su dọc lộ 2, địch tiến hành lấn chiếm vùng giải phóng ngay từ sau khi Hiệp định Paris vừa ký chưa ráo mực, chúng ngoan cố giành phần kiểm soát vùng đất quan trọng này.

Chiến đoàn 43, Sư đoàn 18 ngụy cùng bọn bảo an, dân vệ địa phương liên tục hành quân đánh vào vùng ta làm chủ trên lộ 2 như Hoàng Quân, Suối Cả, Láng Lớn, Xà Bang… Chúng cho xe cơ giới tiếp tục ủi phá địa hình dọc lộ 2, có lúc đến 20, 30 xe. Pháo binh địch bắn dồn dập vào khu vực Xà Bang, Bàu Sen. Máy bay trút bom ác liệt làm hư hại hoàn toàn nhà cửa vườn tược của nhân dân. Nỗi vui mừng về ngừng bắn, vì “hòa bình” chưa trọn thì chiến tranh, chết chóc do địch gây ra lại đến cùng nhân dân khu vực Xà Bang, Bàu Sen. Bọn lính ngụy càn vào Xà Bang, Bàu Sen, chúng đốt phá, bắn giết gia súc. Trước thúc ép của giặc, nhiều công nhân Xà Bang phải rút vào rừng, vượt Sông Ray về Bàu Lâm, Cu Nhí sinh sống.

Trước ngày ký kết Hiệp định Paris, tỉnh đã cử các đồng chí Lê Sắc Nghi (Bảy Nghi), Nguyễn Thị Điều (Năm Bình Minh), Nguyễn Thị Phượng (Bảy Phượng) về triển khai cho Đảng ủy đồn điền về chủ trương chồm lên chiếm lĩnh. Để chuẩn bị lương thực cho chiến dịch, các đồng chí Tư Sửu, Tư Hổ, Tư Đường được giao nhiệm vụ phụ trách làm công nhân đường vận chuyển từ Hàng Gòn đến Tân Lập, xây dựng hệ thống kho chứa tại vùng lộ không tên. Trước khi vào đợt ta đã vận chuyển về đây hàng trăm tấn lúa gạo và vũ khí.

Thực hiện nghị quyết của Trung ương và Tỉnh ủy, công nhân cao su tiếp tục củng cố phong trào và cơ sở cách mạng ở các đồn điền, kết hợp 3 mũi giáp công, đẩy mạnh đấu tranh chính trị bảo vệ Hiệp định Paris, đồng thời sẵn sàng dùng lực lượng vũ trang tại chỗ diệt ác ôn, trừng trị nghiêm khắc những hành động càn quét lấn chiếm của giặc. Nghị quyết Đảng ủy Cao su xác định nhiệm vụ giai đoạn mới sau Hiệp định Paris là: “… đẩy mạnh 3 mũi giáp công, kiên quyết tấn công địch để giành quyền làm chủ… Trong đó tiến công vũ trang đóng vai trò nòng cốt chủ yếu. Tiêu diệt từng bộ phận, tiến tới làm tan rã dần lực lượng địa phương, kể cả chủ lực địch, kiên quyết chiếm lại các ấp xã đã giải phóng trước đây. Tạo thế tranh chấp ở vùng sâu vùng yếu, mở nhiều lõm giải phóng mới liên hoàn, chia cắt địch trên các trục lộ giao thông, đẩy mạnh diệt ác phá kềm, làm mất thế chủ động lấn chiếm của địch. Đấu tranh chính trị kết hợp binh vận, từng bước làm suy yếu tinh thần, tư tưởng binh lính địch… ”

Đêm 26 rạng ngày 27-1-1973, ta tổ chức tấn công đồng loạt. Lực lượng vũ trang huyện Châu Đức phối hợp với du kích tấn công bọn địch ở Đức Mỹ và Suối Nghệ, đánh chiếm sở Bình Ba. Tại Cẩm Mỹ, du kích, lực lượng vũ trang cao su và đơn vị Tiểu đoàn 2 của tỉnh đã phối hợp đánh chiếm khu nhà máy và làm chủ các ấp: Suối Sóc, Láng Lớn. Bọn địch hoảng sợ chạy lên núi Con Chim. Sau đó chúng điên cuồng phản kích cho máy bay, pháo binh bắn phá hủy diệt khu nhà máy. Ở Hàng Gòn ta tấn công làm chủ khu vực chợ, bọn địch co lại trong đồn. Du kích, tự vệ mật cùng cơ sở lãnh đạo công nhân nổi dậy xé cờ ba que, rải truyền đơn, viết khẩu hiệu “đả đảo Mỹ-Thiệu”.

Tại Bình Sơn, đêm 27 rạng ngày 28-1-1973, được một bộ phận Q4 và lực lượng 207 hỗ trợ, du kích Bình Sơn đã tấn công địch. Hàng trăm công nhân và nhân dân Bình Sơn đã nổi dậy gở các khẩu hiệu, băng cờ của địch, xóa bỏ tất cả các dấu vết còn lại của chúng trong chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” trước đó và cùng tham gia cùng du kích, bộ đội đào hào, công sự chiến đấu.

Ở các vùng đồn điền cao su cuộc chiến đấu của quân và dân ta chống âm mưu "bình định" và hành quân lấn chiếm của địch ngay từ đầu diễn ra vô cùng quyết liệt. Tại Hàng Gòn, lúc đầu ta làm chủ ấp chợ, với trên 1.000 dân. Bọn địch đã dùng phi cơ, phi pháo đánh phá có tính chất hủy diệt và sau 4 ngày đêm, lực lượng vũ trang huyện Cao Su phối hợp với du kích bám trụ, nhưng với lực lượng áp đảo, đến ngày 30-1-1973, ngụy quyền Sài Gòn đã lấn chiếm toàn bộ vùng giải phóng ở khu vực này.

Tại Cẩm Mỹ, vùng giải phóng gồm ấp Láng Lớn và 2/3 ấp Suối Sóc, sau 7 ngày bám trụ, đến ngày 2-2-1973 cũng bị địch dùng cả lực lượng thiết giáp và phi pháo đánh phá lấn chiếm. Địch sử dụng lực lượng của Chiến đoàn 43 (Sư đoàn 18) kết hợp với bảo an, dân vệ lấn chiếm vùng giải phóng lộ 2. Du kích Cẩm Mỹ phối hợp với bộ đội cao su đánh trả quyết liệt, diệt nhiều tên… Tuy vậy, chiến dịch "bình định" tái chiếm của địch, mà tập trung là kế hoạch ủi phá, di dân, lúc này chúng vẫn thực hiện được. Có nơi chúng sử dụng 20 xe ủi một lúc, với khẩu hiệu “một ngày cũng ủi, một giờ cũng ủi, ủi nhiều ngày sẽ xong”, làm cho đồng bào và công nhân dọc lộ 2 ở các sở: Xà Bang, Hoa Lạc, Việt Cường, Quang Minh… đều phải di tản vào vùng giải phóng Bàu Lâm, Cu Nhí. Toàn bộ nhà cửa của nhân dân và công nhân ở vùng này đều bị chúng đánh phá hủy diệt. Đi đôi với hoạt động quân sự, cưỡng ép di dân vào vùng chúng lấn chiếm, chúng còn mở nhiều chiến dịch vơ vét lúa gạo, hoa màu, kiểm soát gắt gao từng người, từng nhà để cắt đứt đường tiếp tế cho lực lượng kháng chiến, gây cho chúng ta nhiều khó khăn. Nhiều nơi cán bộ, du kích ở rừng bị thiếu đói, phải ăn củ chuối, củ mì để sống.

Tháng 2-1973, địch đưa 1 đại đội của Tiểu đoàn bảo an 351 từ Long Thành về đóng tại Bình Sơn thay cho 1 đại đội bảo an khác vì bọn này đã chấp nhận quy ước của cách mạng. Chi bộ Bình Sơn đã hướng dẫn hơn 10 quần chúng thuộc gia đình binh sĩ lên đồn giải thích cho chúng rõ về hiệp định và chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc, đồng thời cũng quy định rõ vùng kiểm soát của mỗi bên. Nếu chúng xâm phạm sẽ bị trừng trị. Hầu hết ở đơn vị này đều đồng tình, song bọn chỉ huy ngoan cố vẫn buộc bọn lính bung ra, đi càn trong xóm ấp. Chi bộ đã kịp thời phát động quần chúng vạch rõ việc vi phạm hiệp định của địch, đồng thời cho cơ sở và tự vệ mật rải truyền đơn ngăn cấm bọn xuống làng, kêu gọi bọn lính chống lại lệnh sĩ quan chỉ.huy.

Trước tình hình mới, Đảng ta đã kịp thời chỉ đạo, phải dựa vào pháp lý của Hiệp định, nắm vững chính sách của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, bằng mọi biện pháp tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Paris, nhưng không mơ hồ, ảo tưởng, kiên quyết trừng trị địch vi phạm hiệp định lấn chiếm vùng giải phóng. Kết hợp 3 mũi giáp công, 3 lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh chính trị. Trên cơ sở dựa vào pháp lý của Hiệp định, buộc địch phải thi hành. Lực lượng vũ trang hỗ trợ đắc lực cho cuộc đấu tranh chính trị, sẵn sàng đánh trả địch những đòn quyết liệt, giữ vững vùng giải phóng ở thế “da beo”, tăng cường củng cố và phát triển cơ sở Đảng, chú trọng phát triển cơ sở trong vùng địch tạm chiếm, kể cả các tổ chức quần chúng của Đảng …không ngừng nâng cao chất lượng đảng viên.

Tại Bình Sơn chi bộ đã tiến hành đợt học tập tình hình nhiệm vụ mới và phương châm đấu tranh chính trị, binh vận có vũ trang hỗ trợ dựa trên pháp lý hiệp định cho cán bộ, đảng viên và các cơ sở nồng cốt. Chú trọng xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh làm nòng cốt đấu tranh, chuẩn bị lãnh đạo công đoàn vận động từng công nhân làm kiến nghị với chủ Tây đòi từ cạo khoán qua cạo công nhật và vạch rõ âm mưu chuyển máy của bọn chủ ra khỏi Bình Sơn. Kết hợp vừa vận động vừa học tập tình hình nhiệm vụ mới, ta phát động hơn 500 công nhân úp thùng, đình công không đi cạo, yêu cầu chủ phải giải quyết yêu sách. Cuộc đấu tranh thắng lợi. Bọn chủ sở chấp nhận công nhân trở lại cạo công nhật. Chi bộ tiếp tục lãnh đạo đấu tranh đòi tăng lương 30%, đòi cấp phát đủ và đúng kỳ. Sáu mươi căn nhà công nhân bị địch phá hủy trong đợt “chồm lên” được chủ sở cấp tiền vật liệu để sữa chữa.

Tại Bình Ba, trong thế suy yếu, địch chỉ dám lùng sục ban ngày, còn ban đêm thì co cụm vào đồn bót, ta làm chủ tình hình từ chiều đến sáng, tổ chức sinh hoạt, mittinh, văn nghệ… rầm rộ. Quần chúng công nhân hết sức phấn khởi. Lực lượng du kích được củng cố, sẵn sàng chiến đấu đánh địch. Phong trào tòng quân sôi nổi. Mọi người đều hăng hái tham gia các công tác cách mạng.

Tại Ông Quế, sau ký kết Hiệp định Paris, ta làm chủ 2/3 địa bàn. Bọn địch ngoan cố vi phạm hiệp định, chúng lấn đất, giành dân, bị du kích diệt hàng chục tên. Bọn lính bảo an đóng ở đây hoang mang, giao động, một số bỏ ngũ trốn về nhà.

Tại Cẩm Mỹ, cùng với việc dùng lực lượng binh lính hành quân lấn chiếm, bọn ngụy còn đưa Thích Bảo Huệ, một tên tình báo đội lốt thầy tu vào khu vực 2 cất chùa lánh nạn để hoạt động phá hoại, chính hắn đã vận động nhân dân treo cờ “3 que”. Lực lượng an ninh cao su sớm phát hiện ra đối tượng và xử trí kịp thời.

Vận dụng nghị quyết trên của Trung ương Đảng và các nghị quyết khác của Khu ủy, Tỉnh ủy, Đảng ủy đồn điền đã xác định lại tình hình nhiệm vụ và đề ra chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh 3 mũi giáp công, kiên quyết tiến công địch để giành quyền làm chủ để tiến công, trong đó tiến công vũ trang đóng vai trò nòng cốt, chủ yếu. Tiêu diệt từng bộ phận, tiến tới làm tan rã dần lực lượng địa phương, kể cả chủ lực địch, kiên quyết chiếm lại các ấp, xã đã giải phóng trước đây. Tạo thế tranh chấp ở vùng sâu, vùng yếu, mở nhiều lõm giải phóng liên hoàn, chia cắt địch trên trục lộ giao thông. Đẩy mạnh diệt ác, phá kềm, làm mất thế chủ động lấn chiếm của địch. Đấu tranh chính trị kết hợp với binh vận, từng bước làm suy yếu tinh thần, tư tưởng binh lính địch”. Thực hiện chủ trương của Đảng ủy đồn điền phong trào diệt ác, phá kềm của du kích cao su phát triển mạnh mẽ. Cùng với các hoạt động đánh địch mạnh mẽ của quân và dân ta khắp nơi. Phấn khởi trước những thắng lợi vừa giành được, công nhân và nhân dân ở các sở cao su vừa được giải phóng tổ chức míttinh, chào mừng hiệp định được ký kết, tổ chức xây dựng làng, sở chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng vững mạnh.

Phong trào đấu tranh của nhân dân thành phố Vũng Tàu cũng phát triển với các cuộc đấu tranh chống bắt lính, bắt phụ nữ tập quân sự, vào phòng vệ dân sự, quân sự hoá học đường nổi lên mạnh mẽ, với nhiều hình thức phong phú. Đặc biệt là phong trào thanh niên trốn lính ngày càng đông, có hơn 80% gia đình ở Vũng Tàu chứa nhiều thành niên trốn lính và lính trốn. Phong trào đấu tranh công khai ngày càng phát huy hiệu quả. Nhiều nghiệp đoàn và thương gia đã cử đại diện và gửi các bản yêu sách đến Hạ nghị viên, yêu cầu giảm thuế. Ban cán sự nội ô đã bám trụ ở các địa bàn trọng yếu như Châu Thành, Thắng Nhì, Thắng Tam, Phước Thắng. Thị ủy chủ trương thông qua các hiệp hội, nghiệp đoàn công khai để tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng, phát động quần chúng đấu tranh, buộc địch phải chấp hành Hiệp định Paris, chống khủng bố, chống bắt lính; tuyên truyền binh vận.

Tháng 3-1974, tại cánh rừng cao su phía đông sở Cẩm Mỹ, Sở chỉ huy tiền phương của Quân khu 7 đã lên kế hoạch và phương án tác chiến cho chiến dịch lộ 2. Đại tá Lê Văn Ngọc, Tư lệnh Quân khu là Chỉ huy trưởng chiến dịch, đồng chí Phạm Văn Hy, Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy. Các đồng chí Tư Công, Út Lan, Hồng Tâm trong Đảng ủy đồn điền tham gia vào Bộ chỉ huy chiến dịch. Lực lượng tham gia chiến dịch ngoài các đơn vị chủ lực, bộ đội tỉnh Bà Rịa-Long Khánh, còn có lực lượng vũ trang và các đội du kích cao su. Nhiệm vụ của chiến dịch là “thu hồi vùng giải phóng lộ 2, trở lại hình thái trước ngày 27-1-1973, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đẩu mạnh chiến tranh du kích vùng sâu, vùng tranh chấp, thực hành giành đất giành dân, mở rộng quyền làm chủ cho nhân dân, giữ chân cho được từ 1 đến 2 tiểu đoàn, tạo điều kiện cho hướng chính của Miền mở màn thắng lợi…”.

Đồn Kim Long do Tiểu đoàn bảo an 372 đóng giữ được chọn làm điểm đột phá của chiến dịch. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm chủ lực quân khu (E33, E4, Tiểu đoàn 18 đặc công ), bộ đội huyện Cao Su Châu Đức và du kích các xã trên lộ 2. Đêm 25 rạng 26-3-1974, Tiểu đoàn 18 đặc công tập kích vào đồn Kim Long, nhưng không tiêu diệt được. Sáng 26-3, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 33 từ Bàu Sen được lệnh thay thế Tiểu đoàn 18 làm nhiệm vụ tiến công đồn Kim Long. Trận đánh diễn ra ác liệt, Tiểu đoàn 9 bị thương vong nặng, phải rút ra. Bộ chỉ huy chiến địch quyết định chuyển sang thực hiện phương án vây ép bức hàng, bức rút đồn.

Trong 3 ngày đầu tuy bị ta vây ép, địch vẫn tăng cường được một đại đội bảo an vào Kim Long. Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho các lực lượng thay đổi cách đánh và cắt đứt hai đầu, cô lập hai tiểu đoàn bảo an 372 và 324 ở giữa. Một tiểu đoàn của trung đoàn 4 cùng du kích các xã lộ 2 đánh chiếm các bót dân vệ, bào an chốt chận hướng bắc Kim Long. Hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn 33 cùng du kích, bộ đội huyện Châu Đức chốt chận hướng nam Kim Long. Một tiểu đoàn của Trung đoàn 33 cùng một tiểu đoàn của Trung đoàn 4 đánh thẳng vào đồn Kim Long và Tầm Bó. Với chiến thuận “vây chặt, công kích mạnh”, sau 7 ngày, lực lượng ta chiếm được các đồn Mười Tưởng, Bà Cùi, Rô Be. Hai tiểu đoàn bảo an 372 và 324 bị vây chặt ở Tầm Bó, Kim Long, lực lượng tiếp viện của địch bị chặn đứng trên lộ 2.

17 giờ ngày 16-4, Tiểu đoàn 372 tháo chạy khỏi Kim Long. Ngày hôm sau, Tiểu đoàn 324 cũng tháo chạy khỏi Tầm Bó đã bị Trung đoàn 4 và du kích các xã đánh thiệt hại nặng ở khu vực lò Mủ, cầu Dinh Định. Sau hơn 10 ngày tiến công (từ 26-3 – 10-4-1974) ta đã thu hồi vùng giải phóng lộ 2 từ Kim Long đến Tân Việt Nam, tiêu diệt bức rút 12 đồn bót, bắn cháy 17 máy bay, hàng chục xe tăng, diệt 890 tên địch; đánh thiệt hại nặng các tiểu đoàn bảo an 326, 372 của Tiểu khu Phước Tuy (Bà Rịa). Kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” và "bình định" đã bị ta chặn và đẩy lùi, địch phải co cụm lại và lâm vào thế bị động chống đỡ. Phối hợp với Chiến dịch lộ 2, tháng 3-1974, du kích sở Ông Quế phục kích trừng trị tên trung sĩ Thái, tại nhà riêng của hắn. Tên này rất gian ác, chuyên gây chuyện đánh đập công nhân và xét, xăm cơm trong lúc anh chị em đi làm.

Tháng 4-1974, đội du kích Bình Ba gồm 8 đồng chí do đồng chí Năm Chức, Xã đội trưởng chỉ huy dùng mìn đánh một toán địch ở lộ 52, diệt 21 tên. Sau đó ít lâu ta lại bao vây và đánh đồn Nhà trẻ, bọn địch phải co lại. Tháng 5-1974, du kích Bình Ba diệt 21 tên địch ở lô cao su số 52. Trong chiến dịch giành lại vùng đất bị giặc lấn chiếm ven lộ 2, du kích và quần chúng đồn điền đã phối hợp với lực lượng Quân khu 7 tiến công, nổi dậy, bức rút bót địch tại 6 đồn điền, đánh thiệt hại nặng ba tiểu đoàn bảo an ngụy 326 ; 327 và 324.

Tại Bình Sơn, đầu năm 1974, địch đưa tên Trung úy Đào về làm Đồn trưởng. Tên này rất hung hăng, thường bắt bọn lính bung ra bắn phá trong ấp và ngoài lô cao su, phá hoại cây trái của nhân dân. Được chi bộ giao trách nhiệm, hai đội viên tự vệ mật đã gài mìn diệt tên Đào. Lực lượng cách mạng Bình Sơn ngày càng phát triển, đến tháng 6-1974, Bình Sơn đã vận động 27 thanh niên thoát ly tham gia kháng chiến. Đảng viên mật có 15 người, chi bộ A có 10 đảng viên, đoàn viên thanh niên mật có 14 đoàn viên, tự vệ mật có 9 thiếu niên, cơ sở binh vận có 96 người, tổ an ninh vũ trang có 5 người, tổ chức công đoàn có 240 đoàn viên, một hội đình, hội xóm có trên 250 quần chúng tham gia. Nhiều cuộc hội họp của công nhân được tổ chức công khai, bọn lính không dám làm gì. Điển hình là buổi rước đèn Trung thu (9-1974) do chi bộ tổ chức cho thiếu nhi vui Tết. Từ sân điểm, đoàn rước đèn gồm hàng trăm con em, có các đội viên thiếu niên tiền phong làm nòng cốt, được sự tham gia đông đảo của nhân dân đã kéo đi tuần hành lên khu vực nhà máy và qua đồn giặc, đoàn vừa đi vừa hô to khẩu hiệu: “Hồ Chí Minh muôn năm”. Trước uy thế của cách mạng, bọn lính trong đồn hoảng sợ nằm im. Đêm rước đèn Trung thu đã biến thành cuộc tuần hành biểu dương khí thế cách mạng, là thắng lợi lớn về chính trị của nhân dân Bình Sơn.

Sau chiến dịch lộ 2, vùng giải phóng ta được mở rộng và tạo được thế liên hoàn. Đảng ủy đồn điền đã khai thông công nhân đường vận chuyển ô tô từ Tân Phong qua Ông Quế, Cẩm Đường, Bình Sơn về vùng căn cứ giải phóng Bàu Lâm. Đảng ủy đồn điền còn còn xây dựng công nhân đường từ Tân Phong đến lô “không tên” (Ông Quế ) để chở vào cất giấu hàng trăm tấn gạo ở đây, chuẩn bị cho chiến dịch đánh lớn sau này. Quần chúng trong các ấp chiến lược ở các đồn điền đã bung mạnh ra ngoài làm ăn và đêm ở ngoài rẫy. Gia đình binh sĩ đã kêu gọi chồng, con, em về nhà làm ăn rất nhiều. Khí thế đấu tranh của quần chúng trong các đồn điền cao su lên cao, nhiều nơi địch không có phản ứng mạnh, thậm chí có tên còn tìm cách liên lạc với ta để nhẹ tội sau này.

Ở thị xã Bà Rịa, Thị xã Cấp (Vũng Tàu) và một vài thị trấn thuộc vùng kiểm soát của ngụy quyền, sau Hiệp định Paris cơ sở Đảng đã được khôi phục, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng lao động sôi nổi, vững vàng hơn. Thị xã Cấp (Vũng Tàu) do hai đồng chí Nguyễn Lan, Trần Văn Khánh phụ trách quyết định lập lại căn cứ bí mật ở Núi Lớn, Cửa Lấp, tổ chức đường dây giao liên sang vùng giải phóng Long sơn. Cùng với việc tận dụng phong trào nghiệp đoàn hợp pháp, Thị ủy chú trọng xây dựng đoàn thể bí mật ở các xí nghiệp, cơ sở sản xuất tập trung công nhân. Đồng chí Dương Văn Hai đã lập được cơ sở công nhân cách mạng Nhà Đèn do ông Trần Văn Mười phụ trách. Bà Vũ thị Dậu gây dựng nhiều nhiều cơ sở nòng cốt trong nghiệp đoàn buôn bán, chài lưới, xe lam... Lợi dụng sự bất bình của hàng trăm thương phế binh ngụy ở Vũng Tàu, cơ sở cách mạng đã tuyên truyền vận động họ tham gia biểu tình, đấu tranh đòi cải thiện đời sống, phản đối những hành động hiểu chiến, phá hoại Hiệp định Paris của ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu. Phong trào thương phế binh ở Vũng Tàu được quần chúng lao động ủng hộ đã gây tiếng vang, buộc ngụy quyền Trung ương ở Sài Gòn phải cử phái viên về giải quyết.

Suốt 2 năm, sau Hiệp định Paris phong trào đấu tranh chính trị của công nhân và quần chúng lao động liên tiếp nổ ra, tuy quy mô và số lượng người tham gia còn hạn chế, nhưng tính chất lại vô cùng phong phú: Học sinh viết kiến nghị; rải truyền đơn, diễn văn nghệ.... đòi độc lập, bảo vệ hòa bình, bà con nghiệp đoàn buôn bán chợ Vũng Tàu, Thắng Nhì chống thuế, Nghiệp đoàn ngư dân Cầu Lò Than phản đối ngụy quyền cấm bến, công nhân hãng Malatca gần cầu Rạch Dừa bãi công đòi tăng lương. Đông đảo quần chúng lao động thị xã hưởng ứng phong trào chống quân địch bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau.

Công nhân và lao động thị xã giúp đỡ lực lượng vũ trang nắm bắt tình hình, nuôi dưỡng, ém quân, cứu thương... Nhờ quần chúng ủng hộ mọi mặt, bộ đội đặc công đã giành thắng lợi trong các trận tập kích ở cảng Rạch Dừa và một số vị trí quân sự quan trọng của địch.

Đến cuối năm 1974, cơ sở cách mạng được cài cắm ở hầu hết các khóm, phường, các địa bàn then chốt như: Nhà đèn, nhà máy nước, đồng bào chài lưới, buôn bán… Và nhiều công chức trong cơ quan hành chính, binh sĩ, cảnh sát, dân vệ của ngụy quyền. Theo sự chỉ đạo của Thị ủy, các đồng chí Lê Tất Hùng, Trần Thị Mão, Hồ Thị Nói đã bí mật xây dựng được nhiều cốt cán trong phong trào phụ nữ, tiểu thương, phát động các cuộc đấu tranh chống thuế, chống đuổi chợ, chống đôn quân bắt lính, làm tan rã một bộ phận phòng vệ dân sự ở các phường. Đồng bào ngư dân đấu tranh chống đuổi bến của đồng bào chài lưới; phong trào công nhân hãng Malatea (Rạch Dừa) đòi tăng lương, chống đuổi thợ…

Ngày 10-3-1975 quân dân ta giành chiến thắng rực rỡ ở Buôn Mê Thuột, tiếp đó là thắng lợi ở Huế, Đà Nẵng... ngày cáo chung của Ngụy quyền Sài Gòn đã điểm, Bộ Chính trị xác định quyết tâm chiến lược, mở chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam. Trong khí thế cách mạng hừng hực của cả nước quân dân tỉnh Bà Rịa- Long Khánh náo nức tham gia phong trào tổng tiến công nổi dậy giải phóng quê hương. Ở các vùng cao su, thực hiện nghị quyết của Đảng ủy, các đồn điền cao su đã họp bàn chuẩn bị mọi mặt để tiến hành tổng tấn công, tổng khởi nghĩa với phương châm là sử dụng lực lượng tại chổ kết hợp với phong trào quần chúng công nhân nổi dậy giải phóng đồn điền.

Bước vào chiến dịch, Đảng ủy đồn điền Ông Quế làm điểm. Tại đây có 1 đại đội bảo an và 2 trung đội dân vệ. Về phía ta, 1 trung đội công binh có 6 người đã kết hợp du kích đã đánh vào ấp. Lực lượng huyện đánh phục kích, chận viện bên ngoài. Đêm 21-2-1975 ta bắt đầu nổ súng bao vây đồn. Địch phải dùng máy bay tiếp tế và dùng bom, pháo đánh rất ác liệt vào làng, nhân dân Ông Quế phải sơ tán vào rừng. Trong ấp chỉ còn ta và địch giành giật nhau từng thước đất. Đến 23 giờ ngày 27-2-1975, bọn địch trong đồn rút qua Tân Lập, bỏ lại nhiều xác chết của đồng bọn. Địch cho quân từ Chi khu Xuân Lộc và thị xã Long Khánh phản kích, ta nhiều lần đánh bật ra. Địch dùng pháo bắn vào ác liệt, để bảo tồn lực lượng, ta tạm rút ra ngoài củng cố. Huyện đội chủ trương rút du kích các xã: Bình Lộc, An Lộc, Hàng Gòn, Cẩm Mỹ, Bình Sơn… để thành lập thêm đại đội tập trung thứ 2 có 80 đồng chí, do đồng chí Ba Lợi làm Đại đội trưởng, tiếp tục bao vây địch. Tỉnh đội tăng cường thêm một 1 trung đội cối 82 ly. Bị bao vây chặt, địch mở đường máu chạy theo đường lộ từ Ông Quế ra Hàng Gòn. Đoán được ý đồ của địch, ta phục kích tiêu diệt 1 đại đội, thu nhiều súng, trong đó có 1 đại liên. Sau hơn 1 tháng bao vây đánh đồn chặn viện, ngày 25 tháng 3 ta hoàn toàn giải phóng Ông Quế, tạo địa bàn thuận lợi cho Sư đoàn 6 ém quân tham gia chiến dịch giải phóng Xuân Lộc.

Để việc chỉ đạo được sát kịp thời, Đảng ủy đồn điền cao su trong 2 ngày 8-9/4-1975 đã họp đánh giá tình hình ở các đồn điền cao su và đã phân công các đồng chí trong Đảng ủy đi xuống từng địa bàn, trực tiếp lãnh đạo quần chúng công nhân nổ dậy. Đồng chí Ba Hồng Tâm, Ba Động, Hai Phương ở Ông Quế, Hàng Gòn; đồng chí Tư Đường, Năm A vùng lộ 2 (Cẩm Mỹ, Láng Lớn); đồng chí Vũ Hiền ở Bình Ba.

Đêm 14-4-1975, chi bộ xã Cẩm Mỹ và lực lượng du kích có tất cả 8 người, trong đó có 2 đồng chí ở huyện về tăng cường, do đồng chí Tư Đường, Huyện đội phó trực tiếp chỉ huy đã đột nhập vào chiếm và làm chủ ấp Láng Lớn, diệt 1 số địch, 2 trung đội dân vệ bị dồn về ấp Suối Sóc. Địch nhiều lần phản kích, ta đánh bật lên, vừa đánh vừa phát loa kêu gọi địch buông súng đầu hàng, bọn bảo an đóng ở núi Con Rắn không dám vào chi viện mà chỉ bắn cối cầm chừng vào ấp. Dân ở Láng Lớn và một số ở ấp Suối Sóc chạy ra ngoài rẫy. Lúc này cơ sở ta lãnh đạo công nhân đẩy mạnh công tác binh vận, nhiều tên dân vệ và tề xã chạy theo công nhân ra rẫy, đồng thời vận động công nhân nấu cơm, nước đem xuống tiếp tế cho du kích.

Trong lúc địch ở ấp Suối Sóc, ta ở ấp Láng Lớn đang đào công sự đánh lấn lên từng thước đất, chiến sự đang diễn ra ác liệt, căng thẳng thì ở dưới chỗ máy bơm, chị Hai Mác ở ấp Suối Sóc đã men theo suối mang cơm nước tiếp tế và báo tin tức địch và chuyển lời thăm hỏi động viên của bà công nhân nông dân đến các chiến sĩ. Sau 4 ngày trụ bám ở Láng Lớn, vừa đánh vừa nghi binh làm cho địch tưởng lực lượng ta rất nhiều nên bọn chúng rút chạy lên đồi Con Chim, du kích làm chủ luôn ấp Suối Sóc và tiếp tục vây đánh. Tối 18-4-1975 bọn địch trên đồi Con Chim đã bí mật rút lui về căn cứ Suối Râm. Sáng ngày 19-4-1975 ta giải phóng hoàn toàn Cẩm Mỹ.

Công nhân các đồn điền cao su, đã cùng với quần chúng lao động, góp phần quan trọng phối hợp với lực lượng vũ trang của tỉnh và của Miền giải phóng đập tan tuyến phòng thủ Xuân Lộc được mệnh danh là "cánh cửa thép" vào ngày 21-4-1975. Chiến thắng Xuân Lộc phá tung tuyến phòng thủ Đông Bắc Sài Gòn, tạo điều kiện để bộ đội ta giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Hồ Chí minh.

Sau chiến thắng Xuân Lộc, vùng đồn điền cao su sôi nổi tiến công địch, giải phóng đồn điền, xây dựng chính quyền cách mạng. Ở thị xã Bà Rịa, Tỉnh ủy, Thị ủy đã cử cán bộ vào bám trụ, phát triển cơ sở cách mạng ở các vị trí quan trọng, lập kế hoạch tiến công nổi dậy, kết hợp bảo vệ máy móc, tài liệu không để địch phá hủy trước khi rút chạy. Sáng 25-4-1975 quần chúng đã giúp bộ đội, du kích, biệt động.... tiếp cận các vị trí cần bảo vệ như bệnh viện, sở điện, nhà máy nước.... Chiều ngày 26-4-1975 bộ đội ta pháo kích chính xác vào các mục tiêu đề kháng của địch trong thị xã. Sau đó xe tăng, bộ binh của Sư đoàn 3 quân giải phóng tiến vào giải phóng thị xã. Chiều ngày 27 cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng tung bay trên tháp nước Nhà Tròn, thị xã Bà Rịa hoàn toàn giải phóng.

Ở Thị xã Cấp (Vũng Tàu) ngày 25-4-1975 các đồng chí Đỗ Quốc Hùng, Lê Văn Hân, Nguyễn Lan, Trần Văn Khánh... được đưa vào bám trụ đã chuẩn bị xong kế hoạch lãnh đạo quần chúng nổi dậy, phối hợp với bộ đội giải phóng thị xã. Đồng chí Dương Văn Hai một đảng viên bám trụ được phân công trực tiếp chỉ đạo các cơ sở công nhân Nhà Đèn, nhà Máy nước.... lập dự án bảo vệ máy móc. Ông Trần Văn Mười cơ sở cách mạng ở Nhà Đèn tổ chức một tổ tự vệ vũ trang bám trụ Nhà Đèn từ 27-4-1975 kiên quyết giữ an toàn hệ thống điện lực thị xã đến ngày giải phóng.

Theo sự chỉ đạo của Thành ủy Vũng Tàu, đồng chí Dương Văn Hai (tức Thanh Phong) đảng viên ở chi bộ Thắng Tam đã vào Nhà Đèn, gặp cơ sở cốt cán là Nguyễn Nhơn Kiệt, bàn phương án bảo vệ nhà máy. Nguyễn Nhơn Kiệt vận động được Trần Văn Mười, Liên toán trưởng lực lượng nhân dân tự vệ của nhà máy, phát động tinh thần yêu nước và giao trách nhiệm cho anh em công nhân bảo vệ nhà máy, giữ vững dòng điện cho thành phố Vũng Tàu giải phóng. Nhóm hành động được hình thành dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Nhơn Kiệt và Trần Văn Mười. Ngày 27-4-1975, cơ sở cách mạng tại Nhà Đèn quyết định hành động, chiếm toàn bộ số vũ khí trang bị cho nhân dân tự vệ Nhà Đèn, bố trí những công nhân đã giác ngộ thường trực tại nhà máy. Nhận rõ sự tan rã không tránh khỏi của ngụy quyền Sài Gòn, Giám đốc Nguyễn Ngọc Trân đã giao toàn quyền điều hành cho Trần Văn Mười. Kể từ chiều 27-4-1975, công nhân Nhà Đèn đã thực sự làm chủ nhà máy, làm nhiệm vụ của người công nhân cách mạng. Vừa chạy máy, anh em vừa nắm chắc tay súng bảo vệ nhà máy, chống sự phá hoại của tàn quân, thực hiện đúng cam kết với Thành ủy: giữ vững dòng điện trong ngày lịch sử giải phóng Vũng Tàu. Đêm 29-4-1975, các cánh quân ta đã vào đến trung tâm thành phố Vũng Tàu. Bất chấp pháo rơi, đạn nổ, dòng điện vẫn thắp sáng đón bộ đội vào thành phố Vũng Tàu. Chính lực lượng công nhân Nhà Đèn đã dùng súng của địch trang bị để bảo vệ nhà máy và giữ vững dòng điện trong ngày giải phóng.

Tại Nhà máy nước Vũng Tàu, ông Nguyễn Văn Hảo, cơ sở cách mạng là công nhân trong nhà máy đã vận động anh em công nhân bảo vệ máy móc an toàn và chạy máy đảm bảo cung cấp nước sạch cho toàn thành phố trong ngày giải phóng.

9 giờ sáng ngày 30-4-1975 ta đã chiếm Tòa thị chính và hầu hết các công sở. Anh Bảy Phát (Nguyễn Văn Phát), cơ sở cách mạng trong Toà thị chính đã vận động được nhiều trưởng ty không di tản, ở lại bảo quản hồ sơ, giao cho chính quyền cách mạng. Trong rừng cờ và biểu ngữ, nhân dân các phường trong Thành phố Vũng Tàu hân hoan lắng nghe đồng chí Phạm Văn Hy, Bí thư Thành ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban quân quản đọc nhật lệnh kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền nộp vũ khí; động viên dân dân Vũng Tàu truy quét địch, ổn định cuộc sống, xây dựng chính quyền cách mạng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng công nhân và lao động Vũng Tàu dồn tất cả sức lực, của cải, phục vụ cuộc tiến công, nổi dậy, giải phóng thị xã. Ngày 30-4-1975 quần chúng hân hoan đón bộ đội ta từ các hướng tiến vào, Thị xã Cấp (Vũng Tàu) giải phóng. Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hoàn toàn giải phóng.



tải về 1.88 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương