Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ


Về khu vực kinh tế tư nhân



tải về 3.48 Mb.
trang26/47
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích3.48 Mb.
#1943
1   ...   22   23   24   25   26   27   28   29   ...   47

7. Về khu vực kinh tế tư nhân


Khu vực kinh tế tư nhân chưa thể lớn lên về quy mô và chất lượng; kinh tế hộ sản xuất nhỏ, phi chính thức vẫn chiếm ưu thế.

Năm 1990, khu vực kinh tế tư nhân trong nước được thừa nhận chính thức về pháp lý. Kể từ đó đến nay đã gần 25 năm. Trong 25 năm qua, chúng ta đã có nhiều cải cách, thay đổi tư duy về nội dung và vai trò của các thành phần kinh tế; đã có nhiều thay đổi đột phá khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Trên thực tế, so với trước đây, khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta đã phát triển vượt bậc, trở thành bộ phận quan trọng, không thể thiếu của nền kinh tế. Tuy vậy, so với hầu hết các nước khác, kể cả các nước công nghiệp hóa thành công sau Đại chiến thế giới lần II, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn còn nhỏ; sản xuất nhỏ hộ gia đình đang là hình thức nổi trội cả về số lượng đơn vị và đóng góp vào nền kinh tế.



Bảng 2. Cơ cấu kinh tế trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dân (GDP) (%)

Năm

Kinh tế nhà nước

Kinh tế ngoài nhà nước

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

Cả nước

Kinh tế tập thể

Kinh tế tư nhân

Kinh tế cá thể

Cộng kinh tế ngoài nhà nước

2000

38.52

8.58

7.31

32.31

48.2

13.28

100

2001

38.4

8.06

7.95

31.84

47.84

13.76

100

2002

38.38

7.99

8.3

31.57

47.86

13.76

100

2003

39.08

7.49

8.23

30.73

46.45

14.47

100

2004

39.1

7.09

8.49

30.19

45.77

15.13

100

2005

38.4

6.81

8.89

29.91

45.61

15.99

100

2006

37.39

6.53

9.41

29.69

45.63

16.98

100

2007

35.93

6.21

10.18

29.72

46.11

17.96

100

2008

35.54

5.66

10.5

29.87

46.03

18.43

100

2009

34.72

5.8

10.46

31.71

47.97

17.31

100

2010

33.46

5.32

10.76

32.77

48.85

17.69

100

2011

32.68

5.16

10.91

33.2

49.27

18.05

100

2012

32.57

5

11.14

33.21

49.35

18.08

100

Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê (chú ý Số liệu các năm 2009-2012 cập nhật theo Niên giám thống kê 2012).

Thực tế nói trên có nguyên nhân từ (i) quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu, (ii) tự do kinh doanh, tự do hợp đồng và thực thi hợp đồng, (iii) gia nhập thị trường và môi trường kinh doanh, và (iv) chất lượng và hiệu lực quản trị quốc gia128,v.v.

Tuy vậy, bản thân doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cũng có những vấn đề hay nút thắt nội tại. Khu vực kinh tế phi chính thức với hàng triệu hộ kinh doanh cá thể, nhỏ lẻ vẫn chiếm phần chủ yếu (khoảng gần 80%) kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiên nay. Như vậy, hình thức tổ chức sản xuất kinh tế hộ, phi chính thức, quy mô nhỏ và phân tán đang chiếm vị trí chi phối. Tính phi chính thức của tổ chức sản xuất có hàng loạt các điểm yếu nội tại như: (i) lợi nhuận để lại (nếu có) và tín dụng phi chính thức từ bạn bè, người thân là nguồn duy nhất để đầu tư; (ii) kinh doanh phi chính thức thường bỏ qua các quy định, luật lệ chính thức, nhất là các quy định về quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tiêu chuẩn an toàn lao động và bảo vệ môi trường, về kế toán, kiểm toán, v.v. và nộp thuế (nếu có) theo hình thức khoán; (iii) bị hạn chế về không gian và loại thị trường (khách hàng) và không có dư địa lớn để tiếp cận thị trường129, không có cơ hội để tham gia một cách chính thức và ổn định vào các chuỗi sản xuất. Tất cả các điểm yếu nói trên làm cho các hộ kinh doanh cá thể không thể phát triển được. Các hộ kinh doanh cá thể không tận dụng được các cơ hội rộng lớn của thị trường để phát triển; và ngược lại, các hộ kinh doanh cá thể phi chính thức không tạo điều kiện cho các loại thị trường phát triển có hệ thống, thành một thể thống nhất trên phạm vi khu vực, quốc gia và toàn cầu. Như vậy, chính cách tổ chức sản xuất dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể, quy mô nhỏ, phân tán và phi chính thức đang là một lực cản đối với xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

Các doanh nghiệp tư nhân chính thức ở Việt Nam cũng vừa mới được phát triển cách đây không lâu nên tuyệt đại bộ phận các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ, không khác nhiều so với hộ kinh doanh cá thể. Khác biệt chủ yếu nhất là các doanh nghiệp này có đăng ký thành lập, có mã số thuế, có đăng ký bảo hiểm xã hội và đóng góp bảo hiểm xã hội cho người lao động; chưa có sự khác biệt lớn về tổ chức sản xuất, quản lý và tính chuyên nghiệp của chủ sở hữu và người quản lý; vì vậy, chưa tận dụng một cách rõ nét các lợi thế của kinh doanh chính quy và khắc phục được những hạn chế của lối kinh doanh phi chính thức. Nhìn chung, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn rất khép kín; “gia đình trị” vẫn chi phối trong tổ chức quản trị và cách thức quản lý; chưa muốn huy động sự tham gia đầu tư góp vốn và quản lý của các nhà đầu tư và nhà quản lý từ bên ngoài. Vì vậy, ngược lại, các nhà đầu tư và quản lý, nhất là quản lý chuyên nghiệp cũng khó tìm kiếm cơ hội đầu tư và làm việc tại các công ty tư nhân Việt Nam. Những yếu kém nói trên kết hợp với yếu kém về công nghệ đang là những yếu tố nội tại cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Thực tế cho thấy quy mô trung bình về vốn, về lao động của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đang có xu hướng giảm xuống. Trong mấy năm gần đây do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước, nhiều doanh nghiệp đã giảm quy mô từ doanh nghiệp vừa thành doanh nghiệp nhỏ; hầu như rất ít doanh nghiệp phát triển từ vừa lên lớn; và trong giai đoạn 2009-2012, trong số gần 2000 doanh nghiệp điều tra, không có doanh nghiệp nào phát triển nhanh về quy mô để chuyển từ doanh nghiệp vừa thành doanh nghiệp quy mô lớn, v.v. Khu vực kinh tế tư nhân chính thức nhỏ bé cũng là một trong các cản trở đối với phát triển kinh tế thị trường; cũng là rào cản lớn khó vượt qua đối với quá trình đẩy nhanh cổ phần hóa DNNN.

Phần lớn các công ty cổ phần niêm yết là DNNN cổ phần hóa, trong đó nhà nước vẫn giữ tỷ lệ sở hữu đáng kể; không có cổ đông chính, trụ cột trung thành và gắn bó tuyệt đối với “thăng trầm” của công ty. Các cổ đông, kể cả cổ đông lớn, nhìn chung không coi công ty là tài sản của mình; vì vậy, họ luôn tìm cơ hội chia giá trị và tài sản của công ty về cho riêng mình càng nhanh, càng nhiều, càng tốt; hơn là tìm cách đầu tư dài hạn, ổn định để phát triển công ty130. Vì vậy, tuy đã có gần 1.000 công ty niêm yết và số vốn hóa đã đạt khoảng hơn 30% GDP, nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phải là nơi phản ánh hiện thực biến động của nền kinh tế nói chung.

DNNN là một công ty đóng kín; không được huy động thêm đầu tư cổ phần, trừ trường hợp cổ phần hóa. Vì vậy, các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, nhất là các doanh nghiệp độc quyền như EVN luôn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước hoặc chú trọng tăng giá sản phẩm để tạo vốn đầu tư mà không chú ý nâng cao năng suất, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh để làm cho doanh nghiệp trở thành cơ hội đầu tư hấp dẫn với các nhà đầu tư bên ngoài. Thực tế cũng cho thấy, tình hình cũng tương tự đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa với sở hữu nhà nước chiếm đa số. Sau khi cổ phần hóa, các doanh nghiệp thường có kết quả kinh doanh và tiềm năng phát triển; và thường có yêu cầu huy động thêm vốn cổ phần. Tuy vậy, trong phần lớn các trường hợp, cổ đông nhà nước luôn biểu quyết chống lại việc huy động thêm vốn. Như vậy, DNNN hiện nay vừa không có áp lực cạnh tranh từ bên ngoài (không bị ràng buộc ngân sách cứng), vừa không có động lực nội tại bên trong thúc đẩy để phát triển. Trong điều kiện nói trên, các doanh nghiệp đương nhiên sẽ không có sứ mệnh, mục tiêu, chiến lược và kế hoạch đầu tư kinh doanh tốt; không có quản trị và quản lý tốt. Mô hình tập đoàn, tổng công ty với mô hình kim tự tháp, nếu chủ yếu tìm kiếm đầu tư chéo, sở hữu chéo để mở rộng quy mô, thì sẽ làm trầm trọng thêm tính đóng của DNNN; đồng thời, gây hàng loạt các hệ lụy tiêu cực đối với nền kinh tế nói chung.

Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài về cơ bản không chịu sự chi phối của các thể chế kinh tế trong nước; phần lớn hoạt động của họ bị chi phối bởi thể chế toàn cầu hoặc thể chế của quốc gia công ty mẹ; họ phụ thuộc vào chỉ huy tập trung từ công ty mẹ, không có cơ hội để người ngoài xâm nhập.

Như vậy, trình bày trên đây cho thấy có một đặc điểm chung của các doanh nghiệp ở Việt Nam là có xu hướng ngăn cản hoặc chống lại tập trung, tích tụ vốn; nên không có hoặc rất khó có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư liên tục mở rộng quy mô; vì vậy, không giảm được chi phí và nâng cao năng suất, nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngược lại, các biểu hiện ưa chuộng lợi ích ngắn hạn, tìm kiếm cơ hội đầu tư ngắn hạn; sẵn sàng đánh đổi lợi ích dài hạn để thu lợi trước mắt lại khá rõ nét.

Tóm lại, hiện đang tồn tại hàng loạt các nút thắt thể chế ngăn cản hoặc làm chậm lại tiến trình cải cách kinh tế đang dang dở ở Việt Nam. Các nút thắt đó vừa hạn chế sự hình thành và phát triển các loại thị trường, vừa tạo thêm méo mó, sai lệch thị trường, nhất là thị trường yếu tố sản xuất. Thị trường về cơ bản chưa làm tốt chức năng của mình trong huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực; năng suất và hiệu quả sử dụng nguồn lực suy giảm. Do đó, Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình ngay khi mức thu nhập bình quân đầu người còn rất thấp.

Nguyên nhân của các nút thắt nói trên lại nằm ở phía nhà nước. Nhà nước rõ ràng chưa thực hiện được chức năng cơ bản nhất của mình là thiết lập thể chế hỗ trợ và bảo đảm thị trường các loại vận hành một các đầy đủ nhất có thể; trái lại, đang làm cho thị trường trở nên méo mó; làm đậm thêm thất bại của cả nhà nước và thị trường. So với các nền kinh thế thị trường hiện đại, nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có khác không chỉ về quy mô, phạm vi, cơ cấu tổ chức nhà nước và các cơ quan nhà nước, mà cả về tư duy, cách thức, công cụ, năng lực và thái độ của đội ngũ công chức trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước nói chung và của cán bộ, công chức nói riêng. Có thế nói, cải cách 30 năm qua ở Việt Nam mới chủ yếu tập trung vào giảm và thu hẹp vai trò và chức năng của nhà nước, mà chưa có đổi mới căn bản cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước; chưa thay đổi cơ bản tư duy về kinh tế thị trường, về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Về cách thức quản lý, công cụ và mệnh lệnh hành chính vẫn được sử dụng phổ biến; chế độ “làm việc tập thể” kéo dài từ hệ thống cũ, khiến cho bộ máy, các qui trình ra quyết định và việc điều hành, thực thi các quyết định của nhà nước rất khó cải thiện được tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Nhà nước pháp quyền chưa hình thành đầy đủ; chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động, tính độc lập cũng như cơ chế phân công, phối hợp và giám sát lẫn nhau giữa 3 bộ phận của hệ thống quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) chưa thật minh bạch, hợp lý, gây trở ngại cho cả ba trong phát huy vai trò đích thực của mình. Năng lực bộ máy đã tỏ ra không còn phù hợp với trình độ phát triển cao hơn của thị trường; vì vậy, hoạt động kém hiệu lực và hiệu quả. Vì vậy, làn sóng đổi mới lần 2 đã trở nên rất cần thiết. Có một số điểm giống và khác nhau giữa làn sóng đổi mới lần 1 và đổi mới lần 2. Điểm tương đồng cơ bản là nội hàm của đổi mới vẫn chuyển mạnh mẽ và chuyển dứt khoát sang kinh tế thị trường. Tuy vậy, trong đổi mới lần 1, nhà nước thu hẹp phạm vi, vai trò và chức năng của mình tạo dư địa cho thị trường và khu vực tư nhân tồn tại và hoạt động; còn đổi mới lần 2 là phải nâng cấp trình độ phát triển thị trường của nền kinh tế; làm cho thị trường các loại, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, đảm bảo cạnh tranh thị trường công bằng và có trật tự; khắc phục các hạn chế hay thất bại của thị trường. Nội dung đổi mới lần 2 vừa tiếp tục thu hẹp phạm vi, vừa đổi mới vai trò, chức năng, cơ cấu tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực của bộ máy nhà nước nói chung và từng nhánh của bộ máy nhà nước nói riêng. Có thể nói, đổi mới lần 2 khó khăn hơn bội phần so với đổi mới lần 1 cách đây 30 năm.



Каталог: Uploads -> Articles04
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Articles04 -> MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN
Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

tải về 3.48 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   22   23   24   25   26   27   28   29   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương