Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ



tải về 3.48 Mb.
trang24/47
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích3.48 Mb.
#1943
1   ...   20   21   22   23   24   25   26   27   ...   47

5. Về doanh nghiệp nhà nước


Quy mô sở hữu nhà nước, nhất là sở hữu các tư liệu sản xuất, là một trong các tiêu chí được sử dụng để xác định một nền kinh tế là kinh tế thị trường hay kinh tế phi thị trường. Chính phủ Hoa Kỳ, các nước thành viên EU, Canada và nhiều quốc gia khác coi sở hữu nhà nước đối với tư liệu sản xuất là chỉ số can thiệp của nhà nước vào phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa là quy mô sở hữu nhà nước càng lớn, thì mức độ can thiệp của nhà nước càng cao; do đó, làm giảm vai trò của thị trường trong phân bổ nguồn lực.

Cải cách, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là một trong số các cải cách cơ bản chuyển sang kinh tế thị trường trong gần 30 năm qua ở Việt Nam. Trên lĩnh vực này đã đạt được không ít thành quả tích cực. Về tổng thể, tỷ trọng khu vực DNNN xét trên mọi tiêu chí đều liên tục giảm, số lượng và quy mô tương đối của khu vực DNNN đã giảm đáng kể; vai trò của DNNN cũng đang từng bước thay đổi; các DNNN nhìn chung đã là chủ thể kinh tế tự chủ kinh doanh; một bộ phận không nhỏ DNNN về cơ bản đã hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Tuy vậy, so với các yêu cầu cơ bảncủa kinh tế thị trường hiện đại, thì DNNN, chế độ sở hữu và cách thức thực hiện quyền sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp trên một số mặt còn có khoảng cách, cần được “lấp đầy”:

5.1. Trước hết, so với các nền kinh tế thị trường hiện đại, thì khu vực DNNN ở Việt Nam còn rất lớn. Số DNNN (bao gồm cả doanh nghiệp có sở hữu nhà nước chi phối) vẫn còn nhiều (gần 4.000); DNNN chiếm gần 30% GDP; sử dụng hơn 60% tổng tín dụng của nền kinh tế; tài sản DNNN chiếm gần 45% tổng tài sản của tất cả các doanh nghiệp,v.v. DNNN đang đầu tư và hoạt động trong hầu khắp các ngành, nghề của nền kinh tế; phần lớn các doanh nghiệp đều kinh doanh vì lợi nhuận, hoạt động trong các ngành, nghề trực tiếp cạnh tranh với khu vực tư nhân; chỉ một số ít các doanh nghiệp là công ích, hoặc hoạt động trong lĩnh vực an ninh quốc phòng. Như vậy, khác với nhà nước ở các nền kinh tế thị trường hiện đại, xét về bản chất nhà nước ở Việt Nam vẫn tổ chức kinh doanh, cạnh tranh với khu vực tư nhân để tìm kiếm lợi nhuận.

5.2. Mục đích, vai trò và sứ mệnh của DNNN trong nền kinh tế cũng chưa thật rõ ràng. Tuy đã có những thay đổi trong thời gian gần đây, nhưng DNNN vẫn được coi là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước118; DNNN là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế, là công cụ để nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, v.v. Các tuyên bố nói trên về vai trò của DNNN là không phù hợp, thậm chí trái119 với yêu cầu cơ bản của thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại. Cụ thể là, Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp là ba “lực lượng chính”120 không thể thiếu trong thể chế kinh tế thị trường. Về quan hệ ba bên nói trên, Nhà nước điều tiết doanh nghiệp trực tiếp (trong trường hợp thị trường thất bại); hoặc gián tiếp thông qua thị trường. Nhà nước tác động đến thị trường, thay đổi đòn bẩy khuyến khích, và thông qua các đòn bẩy thị trường để tác động đến doanh nghiệp (thông qua giá cả và cạnh tranh thị trường). Đối với các trường hợp thị trường không phát huy tác dụng, thì nhà nước trực tiếp áp đặt các điều kiện vì lợi ích cộng đồng và trực tiếp thực hiện các biện pháp cần thiết để thực thi các điều kiện đó. Bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, v.v. là những trường hợp điển hình của quan hệ nhà nước và doanh nghiệp thuộc loại này.

Trong quan hệ giữa doanh nghiệp và thị trường, Nhà nước có trách nhiệm giám sát các doanh nghiệp độc quyền, thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị thế của họ làm hại đến cạnh tranh lành mạnh của thị trường để trục lợi. Như vậy, trong thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, Nhà nước không sử dụng doanh nghiệp để điều tiết thị trường, mà ngược lại phải quản lý, giám sát và ngăn ngừa doanh nghiệp lạm dụng vị thế của mình để tác động, làm méo mó, sai lệch tín hiệu thị trường.

Việc nhà nước sử dụng DNNN để điều tiết thị trường là không phù hợp với nguyên tắc thị trường. Trong trường hợp này, không phải thị trường áp đặt “luật chơi” cho doanh nghiệp, mà trái lại doanh nghiệp đang áp đặt “luật chơi” lên thị trường, tạo áp lực lên các cơ quan quản lý nhà nước; gây méo mó các giao dịch thị trường và bất bình đẳng với các chủ thể khác của thị trường, và giảm hiệu lực quản lý nhà nước.

5.3. Việc nhà nước sử dụng DNNN làm công cụ ổn định kinh tế vĩ mô không những không phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, mà còn có thể làm cho kinh tế vĩ mô bất ổn hơn xét về trung và dài hạn. Thực tế cho thấy, để ổn định kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn, Nhà nước đã yêu cầu một số DNNN phải bán một số sản phẩm thiết yếu với giá thấp hơn giá thị trường; trong một số trường hợp giá bán thấp đến mức doanh nghiệp có liên quan đã bị thua lỗ. Xét về bản chất thì đây là biện pháp trợ cấp, bao cấp về giá đối với các sản phẩm thiết yếu được lựa chọn. Xét về ngắn hạn và trong trường hợp khủng hoảng có nguy cơ gây bất ổn kinh tế nghiêm trọng thì giải pháp nói trên có thể phát huy tác dụng. Tuy vậy, nếu coi đó như một một giải pháp bình thường để ổn định kinh tế vĩ mô thì nó có thể gây nên một số tác động không mong muốn sau đây:

Một là, giá thấp hơn giá cân bằng của thị trường gây nên thiếu hụt về cung và tạo ra cầu giả tạo; không khuyến khích đầu tư phát triển mà trái lại khuyến khích tiêu dùng lãng phí, kém hiệu quả.

Hai là, các DNNN có liên quan không chịu áp lực đầy đủ của cạnh tranh thị trường; không có động lực khuyến khích, sáng tạo để đầu tư kinh doanh có hiệu quả; không có áp lực buộc phải giảm chi phí kinh doanh, chấp nhận rủi ro, tìm kiếm các cơ hội kinh doanh có lợi nhất; mà trái lại, thường thụ động chờ đợi các chỉ dẫn của các cơ quan nhà nước có liên quan.

Ba là, gây ra bất công về xã hội và môi trường; nhóm người giàu thường được hưởng lợi nhiều hơn nhóm người nghèo; các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất lạc hậu, tiêu thụ nhiều, lãng phí được trợ cấp nhiều hơn các doanh nghiệp có công nghệ hiện đại, có phương thức sản xuất tiết kiệm và hiệu quả.

Bốn là, góp phần làm tăng thâm hụt ngân sách; và thâm hụt ngân sách cứ tích tụ, tăng dần đến một thời điểm nhất định hoặc do tác động bất lợi từ bên ngoài không thể duy trì bao cấp về giá; giá trợ cấp sẽ phải điều chỉnh hành chính, bất thường sẽ gây sốc cho nền kinh tế nói chung và bất ổn kinh tế vĩ mô nói riêng.

Tóm lại, việc sử dụng một số DNNN làm công cụ ổn định kinh tế vĩ mô vừa không phù hợp với thể chế kinh tế thị trường; vừa không hiệu lực và gây nên hàng loạt tác động tiêu cực đối với sản xuất, tiêu dùng, công bằng xã hội và môi trường; gây hại đến phát triển, ổn định kinh tế nói chung và các ngành có liên quan nói riêng. Những hệ quả nói trên đã được nhận biết; và trên thực tế, Chính phủ đang nỗ lực cải cách “thị trường hóa các loại giá trợ cấp”, như giá điện, than, xăng dầu, v.v. và do đó, vai trò của DNNN như một công cụ ổn định kinh tế vĩ mô cũng sẽ mờ dần. Điều quan trọng là tư duy phải được thay đổi, phải bỏ tư duy, quan niệm coi DNNN là công cụ ổn định kinh tế vĩ mô.

5.4. DNNN là công ty đóng, được ưu tiên tiếp cận vốn vay để đầu tư phát triển; không bị chi phối bởi cạnh tranh thị trường để tiếp cận vốn và không bị trừng phạt bởi cạnh tranh thị trường.

Các DNNN đều là công ty đóng; không được tự do huy động vốn cổ phần trên thị trường. Như trình bày điểm 5.5 dưới đây, hiệu quả kinh doanh DNNN nhìn chung thấp, tỷ suất lợi nhuận thấp, do đó, thông thường, số lợi nhuận tái đầu tư cũng không nhiều. Vì vậy, DNNN phụ thuộc chủ yếu vào vốn vay để hoạt động kinh doanh. Nếu thuần túy theo chuẩn mực thị trường, thì các DNNN có thể không tiếp cận được vốn hoặc có được vốn với chi phí cao hơn. Vì vậy, trên thực tế, Nhà nước đã phải trực tiếp hoặc “ngầm” bảo lãnh cho doanh nghiệp trong tiếp cận vốn. Cụ thể là, nhà nước thường phải bảo lãnh cho doanh nghiệp trong các khoản vay quốc tế; tiếp nhận vốn ODA và cho DNNN vay lại với điều kiện ưu đãi hơn so với thị trường. Trên thị trường tín dụng trong nước, DNNN về cơ bản tiếp cận vốn dễ hơn so với các doanh nghiệp khác. Thực tế nói trên tạo ra sự méo mó và sai lệch trong phân bổ vốn đầu tư. Cụ thể là:

- Khi DNNN được coi là bộ phận nòng cốt để thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, thì về chính trị, DNNN phải lớn mạnh và khó có thể thu hẹp về quy mô. Điều này, kết hợp với giá vốn và tiêu chuẩn tiếp cận vốn thấp đối với DNNN đã làm cho nhu cầu đầu tư của DNNN luôn cao; tạo động lực thúc đẩy các DNNN mở rộng đầu tư, kể cả các dự án kém hiệu quả.

- DNNN kinh doanh kém hiệu quả, nhưng nhà nước vẫn phải tiếp tục đầu tư; và phải tiếp tục phân bổ vốn dưới các hình thức khác nhau cho DNNN. Cứ như vậy, vốn được phân bổ vào nơi kém hiệu quả; trái ngược hoàn toàn với phân bổ của thị trường.

- Để có được tiền vốn dễ dàng và chi phí thấp, các tập đoàn, tổng công ty đã đua nhau thành lập hoặc góp vốn vào các ngân hàng riêng của mình, hoặc thiết lập đối tác chiến lược với các ngân hàng có liên quan; sử dụng các ngân hàng đó như công cụ huy động vốn cho mình. Hội chứng đó đã lan cả sang khu vực doanh nghiệp tư nhân; tạo nên sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng và mối quan hệ thân hữu giữa ngân hàng và các doanh nghiệp lớn, cổ đông lớn. Điều này đã tạo nên không chỉ méo mó, sai lệch trên thị trường vốn, mà còn tạo ra rủi ro lớn về tài chính và vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế.

Tóm lại, sự tồn tại của DNNN và cách thức huy động và phân bổ vốn cho DNNN đã làm méo mó, sai lệch lớn trên thị trường vốn và tín dụng; làm cho thị trường vốn không hoạt động được một cách bình thường, và không thực hiện được đúng và đầy đủ chức năng huy động và phân bổ vốn cho nền kinh tế. Đây cũng là một trong các nguyên nhân làm cho khu vực kinh tế tư nhân không thể phát triển được như ở các nền kinh tế khác.

5.5. Ngoài chế độ tiếp cận vốn như trình bày tại điểm 5.4 trên đây, thì còn có hàng loại các biểu hiện khác của chế độ “ngân sách mềm” đối với DNNN; và hệ quả là, các DNNN về cơ bản, chưa chịu chi phối đầy đủ bởi các nguyên tắc và kỷ luật thị trường. Cụ thể là:

- Trước hết, DNNN chưa bị chi phối bởi nguyên tắc “lời ăn lỗ chịu”. Hiện nay, DNNN kinh doanh thua lỗ, không thanh toán được các khoản nợ đến hạn vẫn không bị phá sản. Nhà nước về cơ bản vẫn đứng ra gánh chịu các khoản nợ cho doanh nghiệp dưới hình thức giãn nợ, giảm nợ, đảo nợ, chuyển nợ cho đơn vị khác hoặc bảo lãnh nợ, v.v. Từ đó, những người có liên quan, như đại diện chủ sở hữu, người quản lý, v.v. cũng không chịu chi phối bởi sự khắt khe, khắc nghiệt và công bằng của thị trường. Ngược lại, nhà nước với tư cách là nhà đầu tư lại không nhận phần còn lại cuối cùng (tức lợi nhuận) về mình; số lợi tức có được từ DNNN không thành nguồn thu của Ngân sách nhà nước. Như vậy, “lời” nhà nước không lấy, lỗ thì dân chịu, những người có liên quan trực tiếp không gánh chịu trách nhiệm; đồng thời, cũng không được thưởng xứng đáng khi làm tốt các công việc được giao.

- DNNN không áp dụng đầy đủ giá thị trường của vốn. Cụ thể là, ngoài việc còn được hưởng một số tín dụng ưu đãi, thì tỷ suất lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu chỉ cần một số dương tối thiểu là đủ để được coi là bảo toàn vốn; không buộc phải tạo ra khoản lợi tức/ vốn chủ sở hữu ít nhất bằng giá vốn trên thị trường. Ngoài ra, DNNN không cần thiết phải cân nhắc, tính toán và đánh đổi các chi phí cơ hội để có được danh mục đầu tư tốt nhất, hiệu quả nhất (tức là họ không buộc phải tính toán cân nhắc các chi phí cơ hội trong đầu tư kinh doanh).

- Một số DNNN chưa bị chi phối đầy đủ bởi cạnh tranh thị trường. Về chính trị, DNNN phải giữ vai trò chi phối trong các ngành, nghề quan trọng của nền kinh tế; và các tập đoàn, tổng công ty được thành lập để hiện thực hóa chủ trương nói trên. Để thực hiện vai trò chi phối, các tập đoàn, tổng công ty ngành được tạo điều kiện121 để giữ độc quyền hoặc giữ vị trí thống lĩnh thị trường của ngành đó. Từ đó, phần lớn các cơ hội đầu tư, kinh doanh của trong ngành đều bị tổng công ty, tập đoàn có liên quan chi phối bởi vị thế độc quyền hoặc bởi các rào cản thể chế đối với gia nhập thị trường của các doanh nghiệp khác. Các tập đoàn, tổng công ty loại này luôn được chọn là người “thắng cuộc”, không phải đối mặt với cạnh tranh trên thị trường nội địa.

Ngoài ra, trên thực tế, DNNN đang bị các thể chế, cách thức quản lý của nhà nước cản trở, không thể hoạt động đầy đủ theo các nguyên tắc và kỷ luật thị trường. Hiện còn quá nhiều cơ quan nhà nước các cấp có quyền can thiệp theo phương thức hành chính, phi thị trường122 vào hoạt động kinh doanh và quản lý doanh nghiệp, từ quyết định đầu tư, tổ chức kinh doanh, lựa chọn cán bộ quản lý và tuyển dụng nhân công, tiền lương và tiền thưởng, thanh tra, giám sát và đánh giá,v.v. Thêm vào đó, các DNNN còn được giao thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội mà không được hạch toán riêng và đầy đủ chi phí theo giá thị trường. Các quyết định loại này đang thực sự cản trở DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường; đang là lực cản lớn đối với việc phát huy tính tự chủ, năng động, sáng tạo của DNNN.

5.6. Chế độ sở hữu đối với DNNN, vốn đầu tư và cách thức thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp.

Hiện nay, tổng số vốn nhà nước đã đầu tư tại các doanh nghiệp khoảng 55 tỷ USD; các DNNN đang có tổng tài sản khoảng hơn 130 tỷ USD. Đây là một khoản tài sản rất lớn; và việc phân bổ hợp lý, quản lý và sử dụng có hiệu quả số tài sản nói trên chắc chắn sẽ tác động lớn đối với phát triển kinh tế đất nước cả trước mắt và lâu dài.

Cải cách sở hữu và thay đổi cách thức thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp luôn là vấn đề thời sự trong các kế hoạch cải cách DNNN. Tuy đã có nhiều nỗ lực cải cách nhưng chế độ sở hữu và cách thức thực hiện quyền sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp vẫn chưa có bước tiến đáng kể so với nguyên tắc hay tiêu chí của thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại. Sau đây xin điểm lại một số khiếm khuyết chủ yếu.



- Quyền chủ sở hữu vẫn chưa rõ ràng và thực hiện quyền chủ sở hữu phân tán và chia cắt. Quyền sở hữu của nhà đầu tư vào doanh nghiệp (trong vai trò là cổ đông hoặc thành viên của công ty) là tập hợp một loạt các quyền cụ thể liên quan, gắn bó và thống nhất với nhau và do đó, phải được thực hiện một cách tập trung và thống nhất. Theo quy định của pháp luật, Chính phủ được ủy quyền thống nhất thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp. Tuy vậy, trên thực tế quyền chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp đang được giao cho nhiều cơ quan khác nhau từ trung ương đến địa phương (bao gồm Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các bộ chuyên ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các sở có liên quan) thực hiện. Điều đáng nói là mỗi cơ quan được giao hay ủy quyền thực hiện một hoặc một số quyền chủ sở hữu. Như vậy, vấn đề ở đây là: (i) quyền chủ sở hữu của nhà nước đối với từng khoản đầu tư tại doanh nghiệp vẫn chưa rõ ràng; chưa có cơ quan, cá nhân cụ thể được ủy quyền thực hiện đầy đủ các quyền chủ sở hữu nhà nước tại từng doanh nghiệp; (ii) việc ra quyết định do đó không phù hợp,thường qua nhiều thủ tục, kéo dài về thời gian; các quyết định được thông qua thường không tương thích, thậm chí mâu thuẫn với nhau về mục tiêu, thời hạn, nội dung, v.v. hạn chế quyền tự chủ và gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; và (iii) trách nhiệm giải trình rất yếu, thậm chí là không có. Thực tế cho thấy trong thể chế nói trên, không có cơ quan, tổ chức hay cá nhân cụ thể chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước dân chúng (là chủ sở hữu doanh nghiệp) về kết quả và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước tại các doanh nghiệp.

- Chưa tách biệt chức năng chủ sở hữu với các chức năng khác của nhà nước; các quyền chủ sở hữu vẫn được thực hiện một cách hành chính, chưa chuyên trách và chuyên nghiệp. Các bộ hiện nay, nhất là các bộ chuyên ngành, vừa làm chính sách, vừa thực hiện các dịch vụ hành chính, vừa thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước, đồng thời là cơ quan điều tiết (thị trường) đối với các doanh nghiệp liên quan123 . Cách thức tổ chức nói trên gây ra một số bất lợi cho hình thành và vận hành của thể chế kinh tế thị trường như sau:

Một là, không phù hợp với thể chế kinh tế thị trường. Trong thể chế kinh tế thị trường nói chung, các chức năng nói trên phải được thực hiện một cách chuyên trách, chuyên nghiệp bởi các cơ quan nhà nước khác nhau và độc lập với nhau. Đó là điều kiện cần thiết không thể thiếu để hình thành thể chế kinh tế thị trường đối với các sản phẩm, dịch vụ độc quyền tự nhiên.

Hai là, có xung đột lợi ích trong thực hiện các chức năng nói trên của nhà nước theo hướng có lợi cho DNNN có liên quan, bất lợi cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Bởi vì, các chính sách ngành có thể thiên lệch, có lợi cho DNNN thuộc ngành; làm vô hiệu hóa việc giám sát của nhà nước đối với các DNNN độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường; gây méo mó, bất bình đẳng trong cạnh tranh và tiếp cận cơ hội kinh doanh.

Ba là, như trên đã trình bày, không tách biệt việc thực hiện chức năng chủ sở hữu với các chức năng khác của nhà nước thì quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp vẫn chưa thể rõ ràng, cụ thể; trách nhiệm giải trình yếu; việc thực hiện quyền chủ sở hữu chưa thể chuyên trách, chuyên nghiệp và độc lập. Hệ quả là các cơ quan thực hiện quyền chủ sở hữu không rõ mục tiêu và không có động lực để nâng cao năng lực thực hiện quyền chủ sở hữu; các công cụ và bộ máy tổ chức thực hiện quyền chủ sở hữu không được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu thực tế.

Tóm lại, chưa có cơ quan chuyên trách thực hiện quyền chủ sở nhà nước tại doanh nghiệp làm cho việc phân chia và tách biệt chức năng chủ sở hữu với các chức năng khác của nhà nước chưa thực hiện được. Thực tế hiện nay ở Việt Nam đang có khác biệt với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại. Sự khác biệt đó đang làm méo mó quan hệ thị trường; làm tổn hại đến tự do kinh doanh và cạnh tranh công bằng, bình đẳng; làm sai lệch động lực khuyến khích và phân bổ nguồn lực. Đối với vốn và tài sản nhà nước, thì cách làm nói trên chưa đảm bảo đầy đủ hiệu lực và hiệu quả thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp, mà trái lại, đang tạo ra nguy cơ bị lạm dụng chiếm đoạt tài sản chung, gây thất thoát, lãng phí và kém hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn nhà nước.



Каталог: Uploads -> Articles04
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Articles04 -> MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN
Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

tải về 3.48 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   20   21   22   23   24   25   26   27   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương