Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ


MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ KINH DOANH



tải về 3.48 Mb.
trang34/47
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích3.48 Mb.
#1943
1   ...   30   31   32   33   34   35   36   37   ...   47

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ KINH DOANH

NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

PGS TS Bùi Tất Thắng

Viện Chiến lược phát triển

1. Vài nét về tình hình cải cách thủ tục hành chính

Môi trường đầu tư kinh doanh là toàn bộ các nhân tố tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, mức độ thuận lợi của môi trường đầu tư kinh doanh phụ thuộc trước hết vào chất lượng của thể chế, trong đó hành chính Nhà nước, trước hết là thủ tục hành chính, là một trong những nhân tố tác động trực tiếp nhất, ảnh hưởng lớn đến chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh của nền kinh tế. "Thủ tục hành chính” là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức (Nghị định 63/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 8/6/2010). Thủ tục hành chính phải “đáp ứng nhu cầu thực tế, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức của đối tượng và cơ quan thực hiện thủ tục hành chính”.

Ngay từ đầu quá trình đổi mới, mở cửa nền kinh tế, việc cải cách nền hành chính nói chung, các thủ tục hành chính nói riêng đã được đặt ra và thực hiện, với nhiệm vụ cụ thể là phát hiện, loại bỏ hoặc chỉnh sửa thủ tục hành chính không phù hợp, phức tạp, phiền hà…; tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Nhìn khái quát toàn bộ quá trình đổi mới thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính luôn được khẳng định. Nhưng cách thức triển khai trên thực tế thì mỗi thời kỳ cũng có sự khác biệt nhất định. Đặc biệt, vài ba năm trở lại đây, công tác cải cách thủ tục hành chính được tập trung đẩy mạnh như một cao trào, mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Nhờ vậy mà môi trường kinh doanh đã có những cải thiện đáng kể, được cộng đồng doanh nghiệp và các nhà tài trợ quốc tế ghi nhận.

Liên tục trong 2 năm 2014 và 2015, Chính phủ đã ban hành 2 Nghị quyết số 19/NQ-CP (đều cùng trong tháng 3/2014 và 3/2015) về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, với những chỉ tiêu và biện pháp rất cụ thể. Trong đó đặc biệt là các thủ tục hành chính ở các lĩnh vực thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, cấp phép xây dựng, đất đai, tiếp cận điện năng, thành lập, giải thể doanh nghiệp, đầu tư.... Đó là:

- Đơn giản thủ tục và rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp xuống còn tối đa là 6 ngày; cải thiện các khâu liên quan khác nhằm rút ngắn thời gian từ đăng ký đến bắt đầu kinh doanh của doanh nghiệp;

- Cải cách quy trình, hồ sơ và thủ tục nộp thuế và rút ngắn thời gian các doanh nghiệp phải tiêu tốn để hoàn thành thủ tục nộp thuế đạt mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6 (mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6 là 171 giờ/năm, trong đó Indonesia là 259 giờ, Thái Lan là 264 giờ, Philippines là 193 giờ, Malaysia là 133 giờ, Brunei là 96 giờ, Singapore là 82 giờ, còn Việt Nam thời gian nộp thuế năm 2013 là 876 giờ);

- Rút thời gian tiếp cận điện năng đối với các doanh nghiệp, dự án đầu tư xuống còn tối đa là 70 ngày (mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6 là 50,3 ngày);

- Đơn giản hóa quy trình, hồ sơ và thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan và giảm thời gian thông quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cho doanh nghiệp, phấn đấu thời gian xuất khẩu và thời gian nhập khẩu bằng mức trung bình của các nước ASEAN-6 (mức trung bình thời gian xuất khẩu của nhóm nước ASEAN-6 là 14 ngày và thời gian nhập khẩu là 13 ngày, trong đó, Indonesia là 17 và 23 ngày, Thái Lan là 14 và 13 ngày, Philippines là 15 và 14 ngày, Malaysia là 11 và 8 ngày, Brunei là 19 và 15 ngày, Singapore là 5 và 4 ngày, còn Việt Nam thời gian xuất khẩu năm 2013 là 21 ngày và nhập khẩu cũng 21 ngày);

- Rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục phá sản doanh nghiệp xuống còn tối đa 30 tháng.

- V.v… (Nguồn: Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng 03 năm 2014 Về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia)

Qua một năm thực hiện, đã đạt được một số kết quả thực tế là:

- Tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện kê khai thuế điện tử đã tăng từ 65% lên 95%; thời gian nộp thuế của doanh nghiệp giảm được 290 giờ, từ 537 giờ/năm xuống còn 247 giờ/năm. Thực hiện Luật sửa đổi một số điều của các Luật Thuế đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 thì sẽ giảm thêm được 80 giờ, từ 247 giờ/năm xuống còn 167 giờ/năm (mức bình quân của các nước ASEAN-6 là 121 giờ/năm).

- Đã rà soát, đơn giản hóa quy trình thủ tục và chính thức triển khai Cơ chế một cửa quốc gia tại cảng biển quốc tế, phấn đấu đến năm 2015 thời gian thông quan hàng hóa giảm bình quân từ 21 ngày xuống còn 14 ngày đối với xuất khẩu, 13 ngày đối với nhập khẩu, giảm được 10 - 20% chi phí và 30% thời gian thông quan hàng hóa xuất, nhập khẩu cho doanh nghiệp.

- Quy trình nộp bảo hiểm xã hội, thành lập, giải thể doanh nghiệp và tiếp cận điện năng đã được rút gọn. Thời gian nộp bảo hiểm xã hội giảm được 100 giờ, từ 335 giờ/năm xuống còn 235 giờ/năm. Thời gian thực hiện thủ tục hành chính về thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp giảm 50%, trong đó thời gian thực hiện các thủ tục khởi sự kinh doanh giảm từ 34 ngày xuống còn 17 ngày. Thời gian tiếp cận điện năng của doanh nghiệp giảm từ 115 ngày xuống còn 70 ngày.

- Theo Báo cáo cập nhật về Môi trường kinh doanh công bố tháng 10 năm 2014 của Ngân hàng Thế giới (số liệu tính đến tháng 6 năm 2014), xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam đã cải thiện đáng kể. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu công bố tháng 9 năm 2014 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam tăng 2 bậc, từ 70 lên 68/148 nền kinh tế. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đã nâng mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam (Moody’s nâng từ mức B2 lên B1, Fitch nâng từ B+ lên BB- và đều đánh giá với triển vọng ổn định).

Tuy nhiên, một số Bộ, cơ quan, địa phương chưa thực sự tích cực triển khai hoặc chưa bám sát các chỉ tiêu, cách thức cải thiện môi trường kinh doanh theo thông lệ quốc tế. Nhiều nhiệm vụ, giải pháp chưa được triển khai theo yêu cầu, tác động của Nghị quyết vào thực tế sản xuất và đời sống vẫn còn chậm.

Một số cam kết của các Bộ, cơ quan, địa phương về cải thiện môi trường kinh doanh chậm được triển khai đến cấp cơ sở, doanh nghiệp. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, mặc dù môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của nước ta có bước được cải thiện nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn còn thấp.

Thể chế luật pháp, cơ chế chính sách, thủ tục hành chính, thực thi công vụ... vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc, gây khó khăn, phiền hà, tốn kém thời gian, chi phí cho doanh nghiệp và người dân. Một số Bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa coi việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh là nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết của ngành, địa phương. Hơn nữa, các nước cải thiện nhanh hơn nên Việt Nam lại tụt hạng một cách tương đối. Theo xếp hạng của báo cáo thường niên Môi trường kinh doanh (Doing Business Report) của Ngân hàng Thế giới, chỉ số môi trường kinh doanh tại Việt Nam năm 2015 là 78/189, tụt 6 bậc so với năm 2014, trong khi Singapore xếp thứ 01, Malaysia thứ 18, Thái Lan thứ 26. Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới về năng lực cạnh tranh, Singapore xếp thứ 02, Malaysia thứ 20, Thái Lan thứ 31, Indonesia thứ 34, Philippines thứ 52, Việt Nam thứ 68….

Trên cơ sở các kết quả đạt được, nhiệm vụ của hai năm 2015-2016 là:

- Giảm thời gian giải quyết thủ tục phá sản xuống còn tối đa 30 tháng trong năm 2015 và xuống còn tối đa 24 tháng trong năm 2016;

- Tiếp tục cải tiến quy trình, hồ sơ, thủ tục nộp thuế, rút ngắn thời gian hoàn thành thủ tục khai thuế, nộp thuế (bao gồm cả thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp) xuống còn dưới 119 giờ;

- Xây dựng và công khai cơ sở dữ liệu về hoàn thuế, bảo đảm ít nhất 90% hoàn thuế theo đúng thời gian quy định và về giải quyết các khiếu nại của người nộp thuế, bảo đảm yêu cầu ít nhất 90% hồ sơ khiếu nại của người nộp thuế được giải quyết đúng thời gian theo quy định của pháp luật;

- Xây dựng hệ thống cấp mã số thuế tự động cho doanh nghiệp, rút ngắn thời gian thành lập mới doanh nghiệp xuống còn 03 ngày theo quy định của pháp luật…. (Nguồn: Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng 03 năm 2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015-2016 ).



2. Phương hướng tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trong những năm sắp tới

Cho đến nay, mặc dù đã triển khai một khối lượng lớn các việc rà soát văn bản, cắt giảm rất nhiều các thủ tục hành chính, nhưng nhận xét về những mặt còn hạn chế của cải cách hành chính nói chung, thủ tục hành chính nói riêng, bản dự thảo Báo cáo Kinh tế - xã hội trình Đại hội XII của Đảng có nhận định: “Cải cách hành chính một số mặt chưa đạt yêu cầu. Năng lực xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế chính sách chưa cao; một số văn bản pháp luật ban hành còn chậm, chưa phù hợp với thực tiễn. Chất lượng xây dựng và quản lý chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển chưa đáp ứng yêu cầu. Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp. Giám sát, phản biện xã hội đối với xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách hiệu quả chưa cao”.

Để góp phần khắc phục những mặt hạn chế nêu trên, trong thời gian sắp tới nên tập trung những hướng giải pháp chủ yếu sau.

- Một là, tập trung thực hiện tốt các mục tiêu định lượng nêu trong Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng 03 năm 2015 Về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015-2016. Tuy chỉ là những chỉ tiêu định lượng về cắt giảm số lượng các thủ tục hành chính và chi phí thời gian, nhưng hết sức quan trọng vì đây là lần đầu tiên trong suốt nhiều năm thực hiện đổi mới mở cửa, công tác cải cách hành chính có được những chỉ tiêu mang tính cam kết rõ ràng theo cách so sánh với các nước ASEAN để thực hiện và có sự chỉ đạo trực tiếp, sát sao và rất quyết liệt của Chính phủ.

Thực tế chỉ ra rằng, việc cải cách các thủ tục hành chính không phải quá phức tạp, khó khăn về chuyên môn nghiệp vụ; nhưng lại chuyển động rất chậm chạp nếu không có các biện pháp cần thiết. Vì vậy, giải pháp chính cho nội dung này là cần áp đặt kỷ luật hành chính trong việc tổ chức thực hiện.

- Hai là, cùng với việc thực hiện các mục tiêu định lượng nêu trong Nghị quyết số 19/NQ-CP nêu trên, cần khắc phục cơ chế sinh ra những thủ tục hành chính của giai đoạn vừa qua. Nếu không chú ý thỏa đáng đến khía cạnh này, công cuộc cải cách thủ tục hành chính trở thành vô tận do cơ chế liên tục đẻ ra những thủ tục mới cần phải được cải cách. Một trong những ví dụ là quá trình tự sinh sôi của các loại “giấy phép con”. Và cũng tương tự như việc thực hiện đơn giản hóa các thủ tục hành chính nêu trên, giải pháp chính ở đây là kết hợp giữa những quy định pháp luật và có chế tài cần thiết để thực hiện.

- Ba là, về dài hạn, cần chuyển trọng tâm nhiệm vụ sang việc nâng cao chất lượng chính sách. Việc cắt giảm các thủ tục hành chính sẽ trở nên ít nghĩa nếu chất lượng nội dung các chính sách không được cải thiện (thậm chí rơi vào cách làm theo kiểu phong trào). Đây là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và đòi hỏi phải có chương trình dài, kiên trì và thực chất là nội dung chính yếu của cải cách thể chế.

Giải pháp chính là, một mặt, nắm vững tinh thần của cải cách: kinh tế thị trường đầy đủ và hội nhập; và mặt khác, nâng cao chất lượng (trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm/đạo đức công vụ) của đội ngũ công chức/viên chức, nhất là những người trực tiếp tham gia xây dựng chính sách (policymakers)./.



MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ KINH DOANH VIỆT NAM

QUA GÓC NHÌN CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ

NƯỚC NGOÀI TRONG CÁC CUỘC ĐIỀU TRA CHỈ SỐ

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH

Đậu Anh Tuấn*

Tóm tắt: Bài viết trình bày kết quả điều tra về môi trường kinh doanh của Việt Nam qua hai cuộc khảo sát doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2013 và 2014 trong khuôn khổ dự án Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện. Theo đó, khi so sánh Việt Nam với các nước khác đang cân nhắc đầu tư, các doanh nghiệp FDI đánh giá Việt Nam có lợi thế ở các lĩnh vực như: mức thuế hợp lý, nguy cơ bị thu hồi tài sản thấp, mức độ ổn định chính sách và dễ dàng tham gia vào quá trình hoạch định các chính sách có ảnh hưởng trực tiếp tới họ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp FDI đều chia sẻ cảm nhận chung là môi trường kinh doanh của Việt Nam đang kém hấp dẫn hơn các quốc gia cạnh tranh khác về chi phí không chính thức, gánh nặng các quy định pháp luật, chất lượng dịch vụ công và chất lượng của cơ sở hạ tầng.

1. Mở đầu

Nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chủ yếu lựa chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tư dựa trên những yếu tố giảm chi phí sản xuất, mà chưa phân tích nhiều tới các yếu tố về mặt thể chế, nhất là trong bối cảnh so sánh. Để bổ khuyết vấn đề này, trong 2 cuộc điều tra doanh nghiệp FDI thuộc khuôn khổ Dự án Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2013 và 2014 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện với sự hỗ trợ của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID)148, nhóm nghiên cứu của VCCI đã sử dụng cách tiếp cận mới. Đó là trong phiếu hỏi điều tra, doanh nghiệp được chọn so sánh các yếu tố về môi trường kinh doanh của Việt Nam với các nước, vùng lãnh thổ mà họ từng cân nhắc chọn địa điểm đầu tư. Lý do đơn giản là cần xác định được vị trí của Việt Nam ở đâu trong con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài, để từ đó có thể cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam.

Nội dung của báo cáo này được rút ra từ kết quả khảo sát PCI-FDI trong năm 2014, có so sánh với kết quả điều tra năm 2013. Khảo sát PCI-FDI 2013 nhận được phản hồi của 1.609 doanh nghiệp FDI đến từ 49 quốc gia khác nhau, hoạt động trên địa bàn 13 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Trong khảo sát PCI-FDI 2014, có 1.491 doanh nghiệp FDI đến từ 43 quốc gia khác nhau, hoạt động trên địa bàn 14 tỉnh, thành phố chia sẻ những cảm nhận của họ về môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Lưu ý rằng, các cuộc điều tra PCI-FDI được tiến hành ở những tỉnh, thành phố có mật độ doanh nghiệp FDI tập trung cao nhất theo số liệu của Tổng cục Thống kê.149 Doanh nghiệp tham gia điều tra PCI-FDI được lựa chọn từ danh sách doanh nghiệp đang đóng thuế của Tổng cục Thuế, theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng ở cấp tỉnh để đảm bảo tính đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp FDI đa dạng đang hoạt động tại đây. Mặc dù điều tra PCI-FDI không phải là khảo sát duy nhất về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhưng đây lại là điều tra lớn nhất và toàn diện nhất hàng năm.

2. Môi trường kinh doanh của Việt Nam trong tương quan so sánh

Trong khảo sát năm 2014, các doanh nghiệp FDI được đề nghị so sánh các yếu tố về môi trường kinh doanh của Việt Nam với các nước/vùng lãnh thổ (sau đây gọi tắt là quốc gia cạnh tranh) mà họ từng cân nhắc chọn địa điểm đầu tư. Khoảng nửa số doanh nghiệp FDI trước khi lựa chọn Việt Nam, đã từng cân nhắc đầu tư vào nước khác [chủ yếu là Trung Quốc (20,5%), Thái Lan (18%) và Campuchia (13,9%)]. Những tỷ lệ này đều tăng so với năm 2013150. Sự gia tăng này tự thân nó là một chỉ báo quan trọng về thứ hạng của Việt Nam trong mắt nhà đầu tư quốc tế. Việt Nam dường như không còn là điểm đến được ưu ái nhất đối với các nhà đầu tư quốc tế như giai đoạn 2007-2010, mà hiện giờ phải cạnh tranh với các đối thủ truyền thống trong khu vực (như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia) và một số nước mới nổi như Lào, Phi-lip-pin.



Hình 1: Quốc gia cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam về thu hút vốn FDI

Khảo sát PCI-FDI 2014 đưa ra câu hỏi yêu cầu doanh nghiệp cho biết những yếu tố quan trọng với hiệu quả hoạt động của họ, điều này giúp lý giải tại sao nhà đầu tư lại lựa chọn Việt Nam trong tương quan với quốc gia cạnh tranh.151 Với mỗi một tiêu chí, doanh nghiệp được hỏi liệu môi trường kinh doanh của Việt Nam có tốt hơn so với các quốc gia khác hay không. Những tiêu chí đạt điểm số trên 50% được coi là yếu tố lợi thế đầu tư, tức là các yếu tố Việt Nam được phần lớn doanh nghiệp nước ngoài đánh giá cao hơn so với các nước khác. Các tiêu chí dưới 50% được coi là điểm yếu.152

Hình 2 cho thấy Việt Nam trong tương quan so sánh với các quốc gia cạnh tranh, với bốn điểm mạnh nổi bật: thuế suất, rủi ro thu hồi tài sản, khả năng tác động chính sách và ổn định chính trị. Về rủi ro bị thu hồi tài sản, nhà đầu tư cảm thấy tự tin hơn nhiều nếu đầu tư tại Việt Nam so với các nước khác. 76,4% cho rằng tại Việt Nam họ ít phải đối mặt với rủi ro bị thu hồi tài sản hơn so với Trung Quốc, và ngạc nhiên hơn khi 71% doanh nghiệp xếp hạng Việt Nam cao hơn Thái Lan. Điều này phần nào phản ánh quan ngại của doanh nghiệp về rủi ro bất ổn chính trị tại nước này. Những con số này cho thấy sự nhất quán đáng kể giữa năm 2013 và 2014, và kết luận này không phải là một sự trùng hợp.

Hình 2: Lợi thế của môi trường kinh doanh Việt Nam trong tương quan với các quốc gia cạnh tranh trong năm2013 & 2014

2013




2014




Về mức độ ảnh hưởng chính sách, doanh nghiệp FDI tham gia khảo sát cho rằng tại Việt Nam, họ có “tiếng nói” hơn trong quá trình xây dựng, thực thi pháp luật liên quan đến hoạt động của mình so với các nước quốc gia cạnh tranh, đặc biệt là hai nước láng giềng Campuchia và Lào. Điểm số này nhiều khả năng phản ánh hoạt động mạnh mẽ của các nhóm những nhà đầu tư vận động cải thiện môi trường kinh doanh và sự sẵn có của nhiều diễn đàn mở ra cơ hội cho cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài đối thoại trực tiếp với chính quyền các cấp của Việt Nam.

Mức độ ổn định chính sách có cải thiện so với năm 2013. Doanh nghiệp FDI đánh giá chính sách của Việt Nam ổn định và dễ đoán hơn hầu hết các quốc gia cạnh tranh. Các kết quả này rất quan trọng bởi doanh nghiệp FDI luôn coi trọng khả năng dự báo chính sách trong tương lai, để từ đó xây dựng chiến lược dài hạn của doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với các nhà đầu tư trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ công nghệ cao, tính ổn định chính sách còn quan trọng hơn nữa bởi tính chất của ngành công nghệ cao là thời gian sinh lợi lâu hơn và rủi ro đầu tư lớn hơn. Chúng tôi sẽ phân tích sâu hơn về nguồn dự báo ở Việt Nam trong phần dưới, tuy nhiên điều quan trọng cần lưu ý là ở câu hỏi khác, 94% nhà đầu tư đánh giá nền chính trị Việt Nam ổn định hơn các quốc gia cạnh tranh.

Năm ngoái, Việt Nam vượt trội so với một số đối thủ về mức thuế (xem Hình 2). Năm nay tiêu chí này còn tốt hơn nữa. Theo các nhà đầu tư, gánh nặng thuế suất ở Việt Nam nhẹ hơn so với Trung Quốc và Philippines, và Việt Nam đã rút dần khoảng cách với các nước khác trong khu vực.

Hình 3 mô tả điểm yếu của môi trường kinh doanh tại Việt Nam so với các quốc gia cạnh tranh. Đồ thị cho thấy dù có sự khác biệt lớn giữa các đối thủ của Việt Nam, song thông điệp chung rất rõ ràng. Các doanh nghiệp FDI đều chia sẻ cảm nhận chung là môi trường kinh doanh của Việt Nam kém hấp dẫn hơn nhiều về tham nhũng, chi phí không chính thức, chất lượng dịch vụ hành chính công và chất lượng của cơ sở hạ tầng. Nhà đầu tư xếp hạng cơ sở hạ tầng của Việt Nam ngang bằng với các nước láng giềng Campuchia và Lào. Song ngạc nhiên hơn cả, đối với lĩnh vực tham nhũng và gánh nặng quy định pháp luật, Việt Nam còn bị đánh giá thấp hơn nhiều so với hai nước này.



Hình 3: Điểm yếu của môi trường kinh doanh Việt Nam trong tương quan với quốc gia cạnh tranh trong năm 2013 & 2014

2013




2014




Каталог: Uploads -> Articles04
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Articles04 -> MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN
Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

tải về 3.48 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   30   31   32   33   34   35   36   37   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương